#Stats1 ul{margin:0;border:0;padding:0;height:32px;background:url(//goo.gl/ZHG881) no-repeat 0 -34px} #Stats1 li{margin:10px 0;border:0;padding:0 0 0 40px;list-style-type:none} #totalComments{height:32px;background:url(//goo.gl/ZHG881) no-repeat} #totalCount{height:32px;background:url(//goo.gl/ZHG881) no-repeat 0 -68px}

Thứ Hai, 25 tháng 7, 2011

TÌM THIÊN Ý ( Các Sơ trẻ làm ơn đừng đọc. )

TÌM THIÊN Ý


 ANNA
1. HẠT KHÔ
 Thụy quơ hai tay gom  gọn  mấy đồ dùng học tập vào một góc bàn. Cuốn sách Toán
lớp Nhất, cuốn Tập làm văn, mấy cuốn vở được em xếp chồng lên nhau ngay ngắn và đặt sang bên phải. Cái đèn để ở giữa. Cuối cùng em xoay nghiêng tấm hình hai chị em mới đi chụp chung về, cho kề
vào đế đèn, để hễ bật công tắc một cái là đèn sáng, chiếu ngời ngời vào hai khuôn mặt ngây thơ, trong trắng, tươi thắm,  hồn nhiên của hai  bé gái trong tấm hình.
Từ chiều hôm qua tới giờ, Thụy cứ ngắm bức ảnh này hoài. Không hẳn là hài lòng hay tự cho là chị em mình đẹp mịn đẹp màng, dĩ nhiên có mịn màng, đương nhiên thôi vì chị Thương mới có mười  lăm tuổi, nước da trắng muốt như nhung như lụa, còn Thụy vẫn còn là một em bé lên mười, mặt Thụy còn lông măng tơ nõn, nhưng Thụy còn  nhìn đi nhìn lại, ngắm tới ngắm lui, quan sát cho kỹ coi trong hình chụp mặt mũi mình ra sao, có giống thật không. Coi bộ nó không hài lòng lắm vì chú chụp  hình không dặn dò gì khi nó nhìn vào máy chụp, làm ra hình rồi mới thấy  hai con mắt nó, một bên hai mí, còn một bên có mí  rưỡi thôi, không đều rồi. Cứ hối khách cho đã, tách một cái cho mau còn lo đi nhậu đó. Bởi, người ta nói làm việc phải có cái tâm, cái ông thợ này không chơi được. Thụy lại so mặt Thụy với mặt chị Thương. Thụy muốn khám phá xem hai chị em còn có gì khác nhau nữa không, ngoài  hai  nét non tơ như nhau. Chị Thương thì mặt tròn vành vạnh như trăng rằm, trông rất giống mấy cô gái mặc áo kimono trong tấm lịch ông Kư-Đô từ Nhật sang  tặng bố năm rồi. Có một cô xinh ơi là xinh, Thụy chấm, yêu quá cơ, suốt ngày cứ ngắm cô ấy, quá là thần  tượng. Thì thần tượng chả là thế thì là gì? Mợ Nguyệt  ấy, mê mẩn tâm thần với cái ông  ca  sĩ Don – Ny, không quen không gặp, bảo là thần tượng của mợ đấy. Kể ra, mình yêu người đẹp, người có tài cũng chẳng có lỗi. Còn Thụy thì mặt dài ngoằng, mẹ bảo để tóc mái che bớt trán cho đỡ giống  mặt con hươu. Thì ra còn khối điểm khác nhau giữa chị  Thương và mình.
Chị uốn tóc ngắn, em để tóc xuông dài. Chị mắt một mí, em mắt hai mí. Chị trắng, em ngăm ngăm. Chị không cười. Em hơi tủm tỉm. Chị nghiêng người, em cứ ngay đuồn đuỗn. Chị mặc áo hoa, cổ ren kiểu cọ, em áo trắng, cổ tròn, khít rịt. Thụy cứ nhìn chị Thương rồi lại ngắm mình, em thấy tấm hình này thật đáng lưu làm kỷ niệm, để sau, lớn lên xem hai chị em có còn khác nhau thế này không, chứ tính tình thấy  cũng đâu có gì chọi nhau đâu. Nhà có hai chị em, thương nhau lắm! Chắc chị giống bố, Thụy giống mẹ.
Anh Duyên thích chị Thương, cũng chiều Thụy. Giá anh là người lớn, đi làm công nhân, Thụy sẽ vòi anh mua cho một hộp bút chì màu, khổ nỗi anh bị mẹ Thụy chê nghèo, không cho  chị Thương chơi với anh. Mỗi lần anh sang nhà chỉ bài cho chị Thương, mẹ làm mặt nghiêm, quay vào trong, không nhìn.
Thụy thu dọn bàn học vì bài vở đã xong. Bố mẹ không bao giờ phải nhắc: Học bài đi con. Chị không bao giờ phải phụ em làm bài tập. Thụy học giỏi và chăm học từ bé. Em hãnh diện và tự hào về học lực của mình đến nỗi em quyết không bao giờ thua hạng bạn nào trong lớp. Thụy chuyên môn đứng Nhất, nghĩa là chưa bao giờ Thụy phải nhận bảng danh dự hạng Nhì. À, có một chuyện, là khác cơ, nó như thế này: Một lần năm xưa, Thụy nhớ lại dạo ấy Thụy còn bé, mới  lớp Ba. Cuối tháng  đến ngày cô giáo phát bảng danh dự, Thụy chỉ được phát một tấm bảng như mọi tháng, nhưng Bảng Danh dự tháng này không có chữ Hạng Nhất  do chính tay cô giáo (năm đó Thụy học lớp cô Nhan) viết bằng bút máy màu  mực xanh của cô. Điều này đối với Thụy là một sự thiếu sót  rất  lớn, tới độ có thể coi như là một sự xúc phạm tới tinh thần học tập của Thụy. Sao cô lại lơ đãng thế! Sao cô lại quên cái việc mà tháng nào cô cũng phải làm thế! Dĩ nhiên bảng Danh dự của Thụy luôn luôn là hạng Nhất rồi, cô phải ghi vào góc trái của bảng chữ: “Hạng Nhất” để phân biệt với bảng của các bạn khác chứ!
Thụy đã học lớp nào thì các bạn trong lớp ấy chỉ có thể và chắc chắn là chỉ có được bảng Danh dự  Hạng Nhì và hạng Ba mà thôi. Cho nên, bảng của Thụy phải có chữ Hạng Nhất để phân biệt.
Thụy nghĩ thế, rồi sốt cả ruột, em chỉ muốn quay lên nói cho cô biết điều quan trọng cô đã quên sót. Thật ra, phải một lúc lâu sau, như định thần lại, em mới nghĩ ra, nhưng giờ đã tan học. Chậm mất  rồi.
Hôm nay, con đường từ trường về đến nhà như dài hơn mọi ngày. Trời oi ả, cây lá ủ ê. Hôm nay, sao đôi chân ta mỏi rời, mình ta  đổ mồ hôi và chiếc cặp táp quen thuộc bỗng nặng nề quá đỗi. Thụy  buồn.
Lòng tự ái, tính kiêu hãnh khiến em không thể chịu đựng nổi khi nhìn vào tấm bảng Danh Dự tháng này, cô vừa phát. Đây là chứng nhận của trường in trên bìa mềm, màu hồng đậm, với những dòng chữ cố định dùng để trao cho các học sinh có số điểm cao nhất trong mỗi tháng. Mỗi lớp có ba em: hạng Nhất, hạng Nhì và hạng Ba.
Những chữ cần thay đổi như tên học sinh, lớp, hạng …. thì do cô giáo ghi vào bảng, rồi trao cho các em học sinh trong lớp mình sau khi sổ điểm tháng ấy đã được công bố.
Nét chữ người lớn đều, thẳng, đẹp đẽ, cương nghị, cứng cáp và thanh thoát của thầy cô điền trên những tấm bảng danh dự là những chi tiết rất  giá trị, vừa đáng kính, lại vừa  thân thương, quen thuộc và có giá trị kinh khủng đối với mọi đứa trẻ, nhất là những em học sinh được nhận bảng danh dự như Thụy. Đây chính là chữ thầy đấy, rõ ràng đây là chữ cô viết, bút của cô đấy… Một năm học chín tháng, chín cái bảng Danh Dự, suốt từ năm lớp Một ( nghĩa là từ khi bắt đầu đi học), cho tới nay, có bao giờ Thụy thiếu một chữ. Cái bảng tháng này bỗng dưng trở thành vô duyên tệ, chỉ bởi lẽ thiếu mất nét chữ của cô Nhan ghi thành tích cao nhất vào cho Thụy. Em cho rằng đó là hai chữ rất quan trọng.   Quan trọng lắm . Nếu có ai cầm tấm bảng Danh Dự  tháng này của mình lên đọc, làm sao để họ tin rằng tháng này  mình vẫn đứng nhất  cơ chứ! Họ sẽ thắc mắc: ủa tháng này Thụy hạng mấy, hạng Hai hay hạng Ba? hết hạng Nhất rồi hở? Mấy câu hỏi kiểu đó làm đau lòng Thụy  lắm. Nghĩ lại thấy giận cô Nhan ghê!
Về đến nhà, Thụy tìm cho được bút máy của bố.
Trong ngăn kéo bàn của bố có cả lô bút máy, nhưng phải thử vì chúng toàn là bút cũ, các anh chị trong họ hàng đưa nhờ bố sửa, cũng có khi bố thấy bút đứa nào viết khó khăn, gai góc quá thì bố bảo đưa bố sửa cho, miễn phí, hẹn ngày trả. Đưa trả chúng, bao giờ bố Thụy cũng hỏi: “ Được chưa ? “. Còn gai gai là bố sửa cho kỳ nét viết êm mới thôi.  Đứa nào có bút mới, ngòi gai, viết không vừa ý, chê, bỏ, bố nhận, rồi hì hục sửa viết cho ngon, xong, bố trả lại, bảo viết thử xem. Bố sửa cả chữ viết. Con gái  bố, các cháu trong họ hàng, đứa nào cũng  phải viết chữ đẹp  bố mới chịu. Chữ bố tớ như rồng bay phượng múa, Thụy hãnh diện khoe với bạn như thế. Bố Thụy là sơ – crê – te của ông Đa – vít mà lị ( ông Đa- vít là ai nhỉ ?). Oách lắm!
Cuối cùng, con bé cũng tìm được  hai cây bút viết ra màu xanh xanh, giống màu mực cô Nhan thường viết. Sau khi đã đọ với những chữ Hạng Nhất ở  những bảng Danh dự tháng trước, Thụy chọn lấy một cây, ngồi ngay ngắn, rồi quyết định thay cô giáo đặt bút viết chữ “Hạng Nhất “ cho mình vào  góc bên trái tấm bảng Danh Dự tháng này.  Hít, thở, hít, thở mười lần rồi Thụy mới dám nhá nhá ngòi bút lên mặt tấm  giấy bìa bé bỏng. Vừa viết, Thụy vừa liếc mắt  đọ vào mẫu chữ cô Nhan có sẵn trên những bảng Danh Dự mấy tháng trước. Nó tự tin với nét chữ trước giờ vẫn được cô khen  viết đều và đẹp.
Không có gì sai trái hay phạm lỗi ở đây, bởi  sự thật là tháng này mình đứng nhất. Tại cô giáo quên  sót. Thành tích này chính là của mình. Mình có quyền viết vào. Có mỗi hai chữ thôi í mà!
Không quen viết cây bút máy lạ, lại thấy người lớn như bố viết nhanh lắm, đứa bé háo thắng vừa đặt bút  vội liến thoắng đưa ngòi lướt đi ào ào trên mặt giấy, ta đây như cô giáo, nhưng cũng chỉ xong được chữ Hạng Nh…. Còn mỗi vài nét nữa thôi thì ngòi bút khựng lại. Còn non tuổi đời mà đòi làm người lớn nên chưa chạy tới cuối đường  đã hết hơi, thôi đành lết nốt âm  at. Thằng cu t bỗng bị rời ra. Cái dấu sắc, dấu mũ  sao to và cứng quá.
Con bé nín thở, nhìn lại  chữ mình vừa viết.
Ôi chao, sao chữ mình không giống chữ cô?
Hơi thất vọng khi thấy hai chữ Hạng Nhất do mình viết không ra chữ cô Nhan, hay  chữ của bất cứ một thầy cô nào. Nó ra chữ của Thụy, lại không đẹp như chữ Thụy. Nó gượng gạo, giả tạo, gò ép, cố gắng, thô thiển, kệch cỡm làm sao!
Không muốn nhìn.
Thôi. Đành vậy. Lỡ rồi, không gôm đi được.
Chỉ có một điều an ủi duy nhất, đó là nó vẫn còn ra chữ Hạng Nhất. Nhưng hạng Nhất thì hạng  Nhất, Thụy đã làm cho tấm bảng Danh Dự tháng này của Thụy ra xấu xí quá, chẳng muốn nhìn .
Cô bé học trò giỏi hãnh tiến bứt rứt tới nỗi cất dấu tấm bảng quý hoá ấy đi, không dám khoe với phụ  huynh như thường lệ nữa. Cũng may, bố nó quên, không hỏi tới.
Thụy quyết định sẽ không bao giờ nhại chữ người lớn nữa.
Phải một thời gian sau, Thụy mới quên được chuyện này, nhưng mỗi tháng, khi nhận được bảng Danh Dự mới, Thụy cất  ngay vào cặp. Không nhìn, không kiểm xem cô có viết thiếu chữ gì không.
Người ta gọi đây là bài học nhớ đời.
Giống như tâm trạng mắc cở của một kẻ gian lận có lương tâm cắn rứt sau khi đã giả mạo chữ ký người khác vậy.
Tại vì Thụy có tính hiếu thắng.
Xem ra Thụy khác hẳn tính chị Thương .
Chị Thương không học được và cũng không thích học. Chị hiền lành, nhẹ nhàng thấy thương (bố đặt tên đúng như người vậy), không đòi hỏi, không đua đòi, không kiêu kỳ như Thụy. Duy chỉ chuyện chị Thương và anh Duyên là chị Thương cương quyết với bố mẹ, tự cắt cả tay cho máu chảy ra  nhưng cũng chẳng làm gì được vì chị Thương yêu sớm quá, con gái còn bé không được cãi lời cha mẹ.
Rồi chị Thương đi lấy chồng, anh Duyên xa xứ.
Xong!
Giờ, nhà còn lại mỗi mình Thụy.
Em vẫn chăm  chỉ học tập và vẫn đứng nhất.
Em vẫn theo mẹ lên dốc chùa nhặt cành và quả thông về cho mẹ đun bếp.
Em vẫn chờ mít ướt rụng cái bụp, xòe vàng sau chái nhà. Mỗi lần có trái mít ướt rụng, mẹ bảo bưng vô, gỡ múi cho mẹ làm rượu mít, ăn mít ướt nghẹn chết. Có lần Thụy nghẹn. Mắt trợn ngược, mồm ọ oẹ mãi, mẹ phải thò tay lôi cái múi mít quái quỷ  ấy ra chứ không chết nghẹn thật.
Nhà Thụy ở chân dốc chùa Bà Xám.
Mùa đập thủy điện rút nước, đáy sông Đa- nhim trơ ra, nước trong vắt, mát rượi. Con bé tha thẩn xuống sông vạch đá, vạch sỏi bắt cá chơi. Những con cá bé tí xíu nằm quẫy quẫy, lấp lánh trong lòng bàn tay bé nhỏ của Thụy. Ngắm sinh vật dễ thương ấy một tí rồi  em lại nhẹ nhàng thả nó xuống khe nước róc rách chảy men theo đá sỏi dưới lòng sông. Cho nó về với mẹ nó. Trẻ con vùng cao nguyên, con trai không có súng nước, con gái không biết tới búp bê nhựa. Em chỉ biết tung tăng giữa đồng chơi với cỏ hoa. Mùa sông cạn, làm bạn với lũ cá nhỏ không lâu. Tội nghiệp, tới mùa đập xả lũ, cả nhà  sợ  run, líu ríu đàn đúm nhau lên chùa ở. Chùa  Bà Xám không xa, trên lưng  đồi thông cao trước mặt kia. Nước ngập  sát mái nhà, bố mẹ căn trước, cột chằng hết đồ đạc lại với nhau. Cái này dính cái kia, hồi về còn mong thấy. Chỉ sợ trôi luôn nhà. Cũng may, chưa lần nào lũ cuốn. Trôi nhà thì đi ăn mày, mẹ nói vậy. Thụy sợ phải mặc áo rách đi ăn mày, em bắt chước mẹ, ra sân thắp nhang bàn thờ, vái vái bốn phía cầu xin Trời Phật thương.
Em siêng năng trải chiếu, ngồi gõ mõ tụng kinh với  bố mẹ mỗi tối. Trên tủ thờ, tượng Phật Thích Ca vẫn luôn lặng lẽ, hiền từ nhìn xuống, gợi cho em niềm bình an, thanh tịnh, mặc dù em chẳng hiểu “Nammô a di đa bà dạ đa tha diệc dạ tha`“ nghĩa là gì. Em vẫn mặc áo xám đi sinh hoạt mỗi tháng  trên chùa, nơi thân thương đối với  Thụy những năm thơ  ấu.
Đơn Dương những chiều êm nuôi biết bao mộng đẹp trong em, nhưng vườn quê nhỏ bé không giữ được chân người con gái nhỏ. Em háo hức khi sắp được bố gửi xuống thành phố ăn học cùng các anh chị trong  nhà bác Cả.
Bấy giờ là tháng Mười, bố  đưa em đi nộp đơn thi chuyển trường. Sao bố lẩm cẩm quá, chẳng để ý hạn định. Hai bố con đến trường nào cũng bị la là ông nộp đơn cho cháu  trễ quá, giờ này trẻ nhập học hết rồi.
Thế cho nên hai bố con phải lủi thủi ra về. Trẻ nhà này phải học trường tư thôi.
Học trường tư thì phải đóng học phí đã đành, khổ nỗi, trễ quá cũng chẳng ai nhận.
Ở gần nhà bác Cả, có một tu viện, trong đó có các bà Xưa (nghe bà TưNambộ kế bên nhà bác Cả nói chuyện thì Thụy  đoán hình như ai đi tu cũng đổi tên là Xưa hết. Mấy bà Xưa, mấy bà Xưa, cứ vậy mà kêu. Cũng có thể mấy người đó là “người đời xưa”, Thụy không rõ). Mấy bà tên Xưa hay mấy người đời xưa mặc áo đen, đội khăn đen kín mít  đi ra đi vào, nhìn rất bí hiểm. Hỏi kỹ thì được biết các Xưa  làm nghề dạy học. Các Xưa có trường riêng. Họ sống biệt lập và có toàn quyền cai quản trường học của họ, như một tài sản tập thể. Trường gọi là trường Dòng. Các Xưa mặt mịn, da trắng, đứng đắn, nghiêm trang, thường làm nghề giám thị, kiểm tra gắt gao kỷ luật trong trường. Nghe các anh chị nhà bác kể có nhiều vụ học sinh trường Dòng bị các Xưa trừng phạt, tra tấn khủng khiếp. Đứa nào không đọc kinh Đức Chúa thì bị phạt treo lơ lửng giữa trời, đấy, rồi mày  sẽ nhìn thấy tượng một  ng Chúa Giêsu bị đóng đinh, bị treo trên cây Thánh Giá. Không tin hả?
Bố bảo đừng đùa, em sợ. Em vốn học giỏi, lại  chăm ngoan, không thể bị phạt.
Rồi bố chọn ngày lành tháng tốt  dẫn Thụy vào trường học các Xưa. Hai bố con mang tâm trạng tự tin như phụ vương đưa hoàng tử ra trận, tuy chiến trường không đuợc như ý muốn, nhưng chắc trong tay con mình sẽ thắng trận bởi tài bách chiến bách thắng của chàng tuổi trẻ. Trên đời có nhiều người thành công nhờ những tâm trạng luôn lạc quan và cầu toàn như vậy. Tuy nhiên, một cái hạt đỗ lì lì, nhẵn thín thường là cứng, dày, không biết có nảy mầm nổi không.


   2. ĐƯỢC NÉM VÀO ĐẤT
Sau ba đêm suy nghĩ lung lắm, không còn con đường nào cho Thụy vào trường Công được nữa, hôm nay ngày lành tháng tốt, bố chuẩn bị  đưa Thụy  đi xin học trường tư. Học trường tư nghĩa là phải đóng học phí mỗi tháng, nhưng không hẳn là phải đóng tiền mà bố không muốn cho Thụy bỏ trường Công. Lỡ trễ đó thôi. Công chức như bố là vậy. Hễ nhà nước cử đi công tác ở đâu thì cả vợ con đều đi theo. Mỗi năm Thụy học một trường. Mỗi hè lại lo chuyển trường. Lớp Năm học ở Sài Gòn, lớp Tư lên Đà Lạt. Lớp Ba lại xuống Sài Gòn. Hai năm cuối bậc Tiểu học ở cao nguyên Dran vừa kết thúc, bố bảo về Sài Gòn học Trung học, sức Thụy có thể học ở những trường Công lập nổi tiếng nhất, vậy mà …
Trường Dòng, trường các Xưa. Nghe thật nản, em không có chút cảm tình nào với mấy người theo đạo Chúa, nhất là mấy bà đi tu kín bưng, nhưng nếu em không học trường này, em bị mất một năm học, thua các bạn cùng tuổi, điều  này Thụy không thể nào chấp nhận.
Thôi đành nhắm mắt đưa chân, như chị Thương ngày đi lấy chồng.
Hai bố con bước vào bên trong cổng trường vào lúc học sinh đã vào các lớp, khắp trường, từ trệt lên tới lầu, qua dãy hành lang chữ U, nghe rôm ra tiếng đọc bài. Trước mặt Thụy là một khoảng sân rộng, vuông vức, đơn sơ, sạch sẽ, trường có vẻ nghèo vì không thấy lòe loẹt những thứ  khẩu hiệu trang trí. Bốn góc sân có bốn gốc Phượng. Mùa này lá xanh mơn mởn, lác đác lưa thưa  ít  cành còn vương  màu hoa đỏ. Giữa sân có cột cờ, nói chung, khung cảnh trường học được chăm  chút đàng hoàng. Văn phòng tiếp khách nằm sát bên phải phía trong cổng trường, rồi tới phòng Giáo Viên, chỗ để xe của thầy cô. Mọi chỗ đều trật tự, ngăn nắp.
Bà Xưa trong văn phòng trường, đứng sau một hàng kệ gỗ cao vừa tới ngực một em học sinh, khiến Thụy phải nhón chân mới thấy bên trong phòng có nhiều tủ bàn, chất đầy hồ sơ, giấy tờ. Chúng vây quanh Xưa này, khiến bà bị thắt chặt lại còn có chút xíu, trông như một em bé. Dù sao, bà mặc áo Dòng và chiếc áo Dòng làm cho người phụ nữ nhỏ con này trở thành đáng kính. Bà vui vẻ  chỉ đường cho hai bố con lên  lầu gặp Xưa Tổng Giám Luật.
Lần đầu tiên được đứng rất gần một nữ tu, Thụy thấy hồi hộp, run sợ nhưng cũng đầy thú vị và tò mò. Đây là Xưa Tổng Giám Luật, người có quyền giải quyết những học sinh có hoàn cảnh  đặc biệt như Thụy.
Bà người cao ráo, thanh mảnh, trông rất sạch sẽ và trắng trẻo nhưng nghiêm nghị quá, đứng đắn quá. Các ngón tay bà như có hạnh kiểm, trong tim bà như có hệ thống và  nơi miệng bà  đương nhiên có những lời phát biểu trật tự, ngắn  gọn và dứt khoát. Bà hoàn hảo giống như một ông Tổng thống.
Bố Thụy  trình bày:
- Thưa Bà, xin bà nhận cho con tôi vào học trễ vì tôi công tác xa, không về kịp để lo cho cháu.
Bà Xưa cầm đơn xin nhập học của bố Thụy đưa. Đơn viết tay như một lá thư chất chứa nhiều tình cảm chân thật.  Chữ bố Thụy đẹp thế nên bà như chỉ ngắm nét chữ thôi, chẳng lưu tâm tới nguyện vọng người viết đơn. Bà bảo:
- Ông thông cảm cho vì trễ vài ngày thì còn được, chứ trong trường hợp này cháu bị trễ tới ba tháng.
Người đàn ông  nài nỉ:
- Bà cố gắng nhận cho vì con tôi có học lực khá, hy vọng cháu đuổi theo kịp chương trình.
Bà Xưa khó tính sau một hồi nghe bố Thụy thuyết phục bằng những thành tích học tập của Thụy ( bố Thụy khéo nói ) từ những trường cũ, thì nghiêm nghị chấp thuận:
- Tôi cho cháu học  thử một tháng, nếu không theo kịp thì sẽ báo tin để  gia đình  biết.
Cả hai bố con thở phào. Thế là có chỗ học rồi.
Hích! Thụy sẽ cho bà Xưa thấy học lực của Thụy ra sao.
Thụy không thích học trường Dòng, nhưng vì thái độ thiếu tín nhiệm này của bà Xưa mà Thụy quyết định vào học cho bà…  biết tay.
Thụy học lớp Bảy, trên lầu. Các bạn đã học được khoảng một phần tư chương trình rồi. Ví dụ, cuốn sách bài tập Toán trang cuối in số trang 212 nhá, thế mà hôm Thụy mới vào, cô Toán đã bảo các em mở trang 56. Nhấp tay thấy dày cui một phần tư quyển sách đã chui tọt vào bụng các bạn, mình bây giờ lúi húi theo sau. Không sao, về nhà tự làm những trang đã qua, vậy chứ học trước mình mà chưa chắc các bạn đã nhớ, không chừng cho làm lại, sai vẫn sai cho xem. Có khi trước làm đúng, bây giờ làm lại, lại sai, chứ Thụy, không sai đâu nhá!!
Đây này, chỉ qua tuần thứ hai thôi, vào giờ trả bài Văn, Thụy đã được cô Văn khen. Cô cho các bạn chép lại bài làm của Thụy vào vở, phía trên cùng ghi  thêm câu:
”Tôi học bạn tôi – Tác giả : Phạm thị Thụy” .
Bạn nào cũng phải viết câu đó lên đầu bài Mẫu.
Bài mẫu. Oách chưa!
Bài Văn điểm cao hôm ấy như một chiến công hiển hách giúp Thụy có thể vững vàng đứng trước “kẻ địch áo đen”, chính là Xưa Tổng Giám Luật đó. Nó kín đáo mỉm cười tự hào khi nhớ lại câu đe dọa của bà Xưa ngày nó đến xin học: “Nếu không theo kịp”. Bà Xưa này thật không biết người. (Trên đời này, những oắt con ngạo mạn  như con  Thụy này  không ít. Các ông bà, các bác gọi chúng là ngựa non háu đá. Nhưng thôi, ta bao dung tí đỉnh cho một đứa bé mới mười ba tuổi đầu).
Thấm thoát, đã hết một tháng. Sổ điểm cộng xong. Kết quả Thụy nhiều điểm nhất lớp. Khỏi nói, bố  Thụy yên tâm về chuyện học  của nó. Từ nay, nó là học sinh trường trung học Đức Bà Đồng Trinh. Xưa Tổng Giám Luật (Xưa có tên là A-nê), mặt lạnh như tiền, con Thụy đi ngang qua,  Xưa coi như không có chuyện gì xảy ra.
Sau này nghĩ lại chuyện cũ, Thụy cho rằng, giá mà bấy giờ bà Xưa đó cười và ban một câu khen lao: ôi không ngờ cháu tôi học giỏi thật, một câu thế thôi thì  đối với Thụy, tất cả  các bà Xưa trên thế gian này thật dễ thương biết bao.
Từ ấy trở đi, Thụy  rất … không ưa Xưa Tổng Giám Luật. Đâm ra mọi bà Xưa khác bị vạ lây, nói chung là không ưa nổi những người mặc áo đen kín bưng đi qua đi lại trong trường Dòng ni ! Nó nhận định rằng, các Xưa , đó là những con người kiêu ngạo ( tại vì Xưa A-nê không coi nó ra gì), ích kỷ  ( tại vì Xưa A-nê không nghĩ tới sự vất vả của bố nó khi đi xin học cho con), lạnh lùng (tại vì Xưa A-nê biết nó học giỏi mà không . .cười), vân vân nữa chứ không nói hết sự ấm ức trong lòng kẻ vốn đã luôn tự hào, tự mãn. Thôi, coi như bây giờ quả bồ hòn nhìn ra méo  mất rồi. Con bé nuôi lòng oán ghét .
Một lần, nghe bạn rủ rê, Thụy dám trốn nhà bỏ học đi … thám hiểm.
Mới vào học đã có bạn ngầu. Con nhỏ này  thường bị Xưa Giám Luật phạt cái tội hay nói chuyện trong lớp. Nó chia sẻ với Thụy:
- Bạn giỏi quá, học lấn hết tụi tôi rồi.
Thụy khiêm tốn:
- May nhờ đề Văn này dễ chứ tôi giỏi gì đâu.
- Nhưng ý tôi muốn nói chuyện này nè.
- Nói đi.
- Bạn học giỏi  ở trường này nó uổng con người bạn đi.
- Sao uổng?
- Thì bạn thấy đó. Có ai giỏi đua ngang bạn hông nà? Tôi với bạn  chuyển qua trường Thành Trí vui hơn. Đi không?
- Trường đó trường Dòng hả?
- Không. Trường tư nhân. Có thầy Hoàn, nghe nói giảng Văn hay lắm.
- Tôi phải xin phép bố tôi.
- Mình vô xin học thử vài bữa, nếu thấy được thì mới học luôn chứ.
- Xa hông?
- Gần nhà tụi mình hơn đi trường này một đoạn đường. Đi hông? Mai nha!
Thụy thấy con nhỏ này lanh quá, nó quyết liệt chỉ đạo cho mình làm theo nó đây! Mà thấy nó tính toán cũng hay chứ! Những lý lẽ nó đưa ra đều làm mình ưng ý hết sức.
Vậy rồi, trên đường về sau buổi học hôm đó, Thụy có bạn kèm sát sạt, thì ra  nhà nhỏ này ở kế  bên nhà bác Cả chứ đâu xa. Nó nói nó ghét bà Xưa Giám Luật ( Trời! Hạp rơ với mình quá!). Nó nói nó thích học thầy nào bình giảng Thơ Văn hay ( đúng y chóc tính mình). Cuối cùng hai đứa móc ngoéo sáng mai cứ ắng im, thưa chào cha mẹ rồi thay vì đi tới trường Đức Bà Đồng Trinh thì quẹo trái ngay ngã ba gần nhà đây, mười phút là tới trường Thành Trí. Học thử có tội gì.
Tất cả mọi sự, quả đều đúng như lời nhỏ Ngầu này nói ( Thụy vẫn chưa biết tên nó), hay gọi nó là Lanh cũng được, lanh quá trời.
Ngặt một nỗi là những gì Lanh ( hay Ngầu) chưa đề cập tới thì ngay buổi đầu hai đứa xin phép thầy văn phòng cho vào học thử, sự thật  đã làm Thụy thất vọng hoàn toàn.
Trường gì mà cái sân  chơi nhỏ chút xíu, ra chơi cứ đứng nhìn nhau, chán muốn chết. Trường gì mà học trò chạy rông qua mặt Giám Thị như không, chẳng chào hỏi gì hết. Trường gì mà không có đồng phục, con gái mặc bát nháo thấy … gớm. Trường gì mà … tường lớp dơ òm, mực văng tứ lung tung. Nhiều vết bẩn khác lem nhem đầy, tưởng tượng ra bọn học sinh trường này trét … cứt mũi của chúng nó lên tường, Thụy thấy ghê ghê… Sao thầy cô để học sinh viết bậy bạ, bôi bẩn  lên tường, lên mặt bàn, không phạt ta? Đó, chừng đó thôi thấy không thích rồi, vô trong lớp, Thụy làm một học sinh đích thực,  ngồi học đàng hoàng mới thấy nản quá chừng.
Học sinh Thành Trí thua xa học sinh Đức Bà. Sao tụi này phá phách, nghịch ngợm, nói chuyện, đùa giỡn, ăn quà trong lớp , không coi thầy cô ra gì. Thật tình, thầy cô có nghiêm đó chứ, thầy Giám Thị có đi qua đó chứ, nhưng làm như người lớn sợ con nít.
Tới chuyện học lực mới là vấn đề chính nè.
- Trường này chậm rồi bạn ơi.  Bạn thấy bài này mình học tuần trước rồi.
- Ừ hé.
- Mà sao học sinh trường này …
Thụy chỉ nói tới đó rồi nó chợt nhận ra những nhận xét nó muốn dành cho các học sinh trường Thành Trí này thì con bạn Lanh của nó có hết. Bởi Lanh nghịch, Lanh hay nói chuyện trong lớp, Lanh hay ăn quà vặt rồi xả rác trong hộc bàn nên Lanh mới ghét Xưa Giám Luật. Bởi Lanh học kém nên Lanh mới muốn vô cái lớp tầm tầm này.
Thụy ngại ngần, không nói tiếp, nhưng như đã có quyết định sẵn trong lòng, ngay sáng hôm sau, Thụy né Lanh để trở lại trường cũ với lý do xạo que:
- Thưa Xưa, hôm qua con bị ốm.
Mãi sau mới biết con Lanh tên thật là Qui. Mai Qui. Qui là con rùa, mò ra thì bò chậm rì rì, vậy mà mình đặt cho nó cái tên nghe lanh lợi, nhanh nhẩu thật không thích hợp với nó chút nào. Thôi dẹp con nhỏ này ra đi, nó làm mình phạm lỗi nói dối Xưa Giám Luật. Cũng tại mình nhiều phần, đâm tiếc  vì mất  giờ giảng  môn Văn  của thầy Vinh hôm đó.
Thụy đi học lại trường Đức Bà, trong lòng mang chút niềm ray rứt, ân hận, bỗng dưng nó nhìn bà Xưa Giám Luật, thấy người nữ tu ấy không đáng ghét lắm.


3. VỎ CỨNG
Thời gian trôi qua nhanh.
Thụy năm nay đã là  một trong những học sinh cũ  của trường Dòng, áo dài trắng, tóc thề đen nhánh, dài  qua lưng. Mặt vẫn dài ngoằng, da vẫn bánh mật, tóc vẫn để mái bằng che  đến  mắt.
Nó vẫn học giỏi nhất lớp, nhưng bây giờ mê thêm ngành hội họa. Nó nghĩ mai mốt nó sẽ làm họa sĩ, nhưng sẽ không bao giờ vẽ những bà Xưa, bởi vì các bà ấy trùm kín từ đầu đến chân thì không còn có gì để vẽ nữa. Trong lớp Thụy cũng có  hai chị Xưa còn trẻ. Các chị ấy lớn hơn bọn Thụy mấy tuổi nhưng phải ngồi học cùng chương trình lớp Thụy, có lẽ người đi tu đầu óc mê muội, kém thông minh nên học chậm hơn các học sinh ngoài đời, Thụy nghĩ vậy và nó đâm ra ghét bộ áo Dòng màu đen kịt nhàm chán, vô vị.
Tuy không thích những tu sĩ trong trường Dòng nhưng Thụy vẫn luôn chăm học và giữ được hạnh kiểm tốt.
Thụy thường học thuộc bài  mới ngay tại lớp.
Các bài tập nó luôn được điểm mười và làm nhanh hơn các bạn.
Học xong  Thụy mới vẽ chơi nên thầy cô không la.
Thụy ngoan đến nỗi Xưa điểm danh để kệ cho nó vẽ trong mọi giờ học, không nhắc nhở.
Thụy vẽ tất cả những gì Thụy thấy trước mắt.
Thụy vẽ thầy, vẽ cô,  vẽ bạn, vẽ cảnh sân  trường, vẽ hoa phượng, vẽ cây ngô đồng, vẽ và nặn và khắc phấn. Rồi đem tặng hết.
Phấn trên bàn thầy cô luôn bị thất thoát, nhưng không sao, vì các bạn trực lớp ai cũng biết danh tánh tên trộm phấn và sẵn lòng làm ngơ cho hành vi ăn trộm của hắn vì hắn chỉ ăn trộm với mục đích sáng tạo ra những tác phẩm nhỏ xíu, dễ thương không chút thiệt hại nào, còn làm đẹp cho đời. Thủy làm trong giờ học, giờ chơi rồi tặng ngay cho các bạn, nào là đôi guốc cao gót điệu đàng, nào là cô gái mặc ái dài đứng nghiêng người e thẹn, nào là ổ bánh mì nở bung, nào là chiếc thuyền nan xinh xắn, cây đàn violon dễ thương, chiếc xích đu có hai sợi dây len đung đưa, xe hơi, xe đua đời mới và  đủ các loại hoa v.v. Toàn bằng phấn. Bạn nào chả thích.
Cũng may, cái tính háo thắng, muốn hơn người trong sự học của Thụy đáng lẽ ra chẳng ai ưa, nhưng bởi em học như chơi, lại  sẵn lòng hy sinh thời giờ để chiều  bạn bè bằng những trò vẽ vời, điêu khắc như thế nên em trở nên hòa đồng, không xa cách.
Thầy cô, bạn bè, trường lớp, cái Đẹp và tình thân ôm ấp Thụy…
Tuổi xanh em đẹp biết bao!
Vậy mà sâu thẳm trong em vẫn là một thứ hạt rắn chắc, thô cằn. Hình như không chỉ là một lớp vỏ cứng bên ngoài mà thôi.
Em chưa bao giờ gần gũi với các tu sĩ , dù đó là các chị bạn học cùng lớp, họ cũng còn trẻ, cũng tỏ ra dễ mến và đương nhiên là ngoan ngoãn và lễ phép hơn tụi bạn Thụy nhiều. Em chỉ chơi với bọn con trai, con  gái ngoài đời, thật thú vị  khi chơi với mấy đứa quậy phá, lười học, bị cha mẹ bắt vào sống trong ký túc xá của Dòng để nhờ các Xưa uốn nắn, giáo dục, trừng trị dùm.
Lũ bạn Thụy nghịch ngầm hạng nhất có con “Xuân  ký – túc” và thằng Kiên, “ Kiên – Phang“.
Xuân làm trùm trong số học sinh ở Ký túc xá nhà trường. Xuân chuyên môn mặc áo dài đỏ với quần hoa đồ bộ ra lớp học. Kiên làm sếp  các bạn nam. Kiên chuyên môn phát ngôn chặn họng bạn bè và … thầy cô ( trong vòng lễ giáo) để làm trò cho cả lớp cười, được gọi là thằng hay phang, “Kiên Phang”. Tụi nó chuyên bày trò trêu ghẹo các Xưa để thầy cô phải ngắt ngang bài giảng vì những trận cười thích thú của cả lớp. Chúng nó cần những lời la mắng như người sành ăn cần gia vị thêm vào món ăn. Mỗi khi bị gọi tên, vác mặt lên bàn Xưa Giám  Luật, chúng trơ trẽn, lơ láo và khoái trá như được nêu tên trên bảng vàng, khiến cho  các Xưa tức như điên. Nếu không có gì tai hại, lộ liễu cho lắm, thường là các chị Xưa bé bỏng trong lớp im lặng chịu đựng khi bị các em học sinh ngoài đời trêu chọc, họ không bao giờ lên tiếng hay mách lẻo  lên bề trên của họ. Đôi khi các chị còn cười, vì thế lũ ong vo ve, láo toét càng bay lượn khỏe, chẳng sợ ai. Thụy  đón nhận và ủng hộ lũ ong này. Lũ chúng bạn nghịch ngợm vô tình nâng hạnh kiểm và uy tín của Thụy lên cao một cách tự nhiên, không cần cố gắng.
Cũng bởi Thụy  không thích mấy người hay nói lời đạo đức, khuyên lơn, mấy người sống bên trên những trò đùa vui vẻ và không biết thưởng nếm những hương hoa thú vị của tuổi xuân. Trong đội Phật Tử nhỏ ở chùa bà Xám, người ta bày trò chơi và cho các em tham gia  nhiều cuộc mạo hiểm, du ngoạn, thực hành các bài học Hướng Đạo khôn khéo và hào hứng. Mấy chú Tiểu nghịch như giặc. Vậy mới vui.
Các Xưa không ra Phật, không giống Chúa.
Phật rất hiền.
Còn Chúa là ai?
Có phải  đơn giản đó là một ông Giêsu thất  bại, chịu đóng đinh trên thập giá treo trên  tường lớp đó không?
Thụy không thích tìm hiểu, nó rúc vào trong cái vỏ kiêu hãnh và thành kiến. Thụy là một hạt mầm mùa khô hạn. Cái vỏ hạt rắn tới độ người ta đã ném xuống đất tốt như vậy rồi mà nó vẫn trơ trơ, nhẵn thín, không thể biết bên trong lớp vỏ chai lì ấy là cái giống gì.


  4. MẸ ĐẤT GIANG TAY
Ấy vậy mà đất như dạ mẹ, vẫn muôn đời bao dung mở rộng vòng tay ôm ấp, yêu thương mọi hạt giống bé bỏng rơi  vào lòng mình.
Phạm thị Thụy. Một cái tên được ( không biết được hay bị ) các Xưa nhắc tới nhiều nhất trong các tên của lũ trẻ học trò các Xưa dạy trong trường:
- Hôm nay thày Nghiên gọi Thụy lên bảng vẽ minh họa bài văn Bước tới đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan  để thày giảng bài, thấy mau thuộc bài chị nhỉ!
-  Thụy làm toán nhanh ghê. Em mới chép xong đề đã thấy nó gượm đứng lên nộp bài rồi.
- Chị biết Thụy lớp em hông? Con bé tóc dài, da ngăm ngăm, xách cái cặp da to tướng đó? Học chăm mà giỏi nữa.
-  Thụy có cả mười hoa tay sao mà vẽ đẹp ghê!
- Tháng này Thụy lại đứng nhất. Nó chẳng chịu nhường chỗ cho ai. Chị Giáo nói em cố gắng mang về cho chị Giáo một lần hạng Nhất  coi, ma sơ gì mà không bằng người đời, nhưng sao khó vượt qua  Thụy.
- Nè, lớp em có nhỏ Thụy viết chữ đẹp quá. Hạnh kiểm cũng được. Giá mà nó đi tu ….
Đó! Mấy Xưa hay bàn tán nhiều chuyện về Thụy. Vào trường Dòng học rồi Thụy mới biết không phải ai đi tu cũng tên Xưa. Xưa là Sơ, là Chị, tiếng Pháp là soeur, tiếng Anh là sister,  là Nữ tu thôi có gì đâu! Bác Cả bảo có nơi người ta gọi người đi tu là Dì, Dì Phước, Bà Mụ. Thụy thấy mấy bạn gọi các Xưa có chức trong trường là Dì. Dì Hiệu Trưởng, Dì Giám Luật , Dì Giám Học, Dì Văn phòng v.v…, còn các Xưa học cùng lớp được gọi là chị: Chị Lụa, chị Thơm, chị Mát-len Vang. Các chị Sơ này còn rất trẻ, tuổi chừng bằng chị Thương nhà Thụy, hai mấy thôi.  Các chị ngồi cả ở bàn cuối. Chị Lụa  ngồi đầu bàn hay  xem Thụy khắc phấn cho các bạn rồi chỉ tủm tỉm cười, chẳng nói chi, người hiền như cục … đất sét. Chị Thơm hay nhướng mắt liếc nhìn Thụy sáng tác rồi như nhận xét ừ em làm  mẫu này đẹp đó Thụy, hoặc làm hiệu báo động cho Thụy biết Dì Giám Luật đang đi ngoài hành lang, cất phấn đi .. . Chị Vang sẵn sàng vỗ tay rào rào mỗi khi  Dì Giám Học vào lớp đọc bảng Điểm cuối tháng và tuyên dương ba học sinh nhiều  điểm nhất trong tháng. Tháng nào Thụy chẳng nhiều điểm nhất lớp! Chị Vang luôn tỏ ra hâm mộ tài học giỏi của Thụy. “Nghề của nàng” mà Sơ! ( ờ, kêu Sơ giống…Tây hơn). Chị Vang thỉnh thoảng còn hỏi thăm ba mẹ Thụy có khỏe không, nhà Thụy có mấy anh chị em… Thấy người đi tu cũng có xã giao, lịch thiệp.
Mấy Sơ không có tính ghen tương, bì tị với các em ngoài đời học cùng lớp, lại siêng năng, chăm chỉ, không nói chuyện trong lớp bao giờ. Các chị ấy hiền có hiền, lành có lành, vui có vui, lại còn tốt bụng. Tụi này quên gôm, quên bút, thước, các chị cho mượn liền không hề cằn nhằn chi cả.
Khác hẳn với học sinh ngoài đời bọn Thụy. Đứa nào có tính hay tị nạnh? Á a, phải biết! Nó ganh từng nửa điểm với mình. Còn mà không thân á hả, còn lâu mới cho mượn đồ.
Thế mới hiểu được mấy người đi tu là tu vì một cái gì đó lý tưởng lắm nhỉ! Không biết.
Chỉ có điều làm Thụy thấy khó chịu, khó gần, đó là mấy Sơ giữ  kỷ luật quá đáng. Đó! Chính vì vậy mà tụi ký túc thích phá bĩnh cho bõ ghét. Làm như muốn cho mấy Sơ thấy rằng không đi tu cũng đâu có xấu, làm gì phải khác biệt tụi tui dữ, mất dzui! Chứ dân ký túc là chuyên môn ăn vụng trong lớp, vô lớp trễ, hay nói chuyện trong  giờ học, hay trêu chọc thầy cô, mặc quần áo linh tinh, không nghe lời Sơ Giám Luật dặn dò, hay nói đúng ra, hằng ngày phải có cớ cãi giả Sơ chúng mới chịu được. Thằng  Kiên nói: ủa! sao mấy Xưa không ăn quà héng, chắc ra lớp ăn quà, về là bị quỳ gối đó. Con Xuân ra điều là người Công Giáo biết rành:
- Mấy Xưa không bao giờ ăn quà vặt đâu. Phải giữ bụng cho đói để về nhà Dòng ăn cơm, chứ không thôi cơm nhà Dòng dư bỏ cho heo ăn phí của Chúa ban. Mấy Xưa cũng không được sai giờ đâu, tụi mày để ý coi, giờ chơi mấy bả nghe chuông reng là bứt câu chuyện đang nói để vô lớp ngay tức khắc. Ở trong nhà Dòng có luật các chị em ra trường học  phải luôn luôn đúng giờ. Ai vi phạm, bữa đó sẽ bị ăn cơm trắng đó, không có đồ ăn gì đâu.
- Mày không đi tu sao mày biết?
- Dì tao kể. Dì tao còn kể, hồi đó dì tao đi tu, trong nhà Dòng, ai rửa bát làm vỡ chén bị phạt nằm trên mảnh bể ấy mà ngủ, nó đâm vào lưng chảy máu,  đau muốn chết. Mà không được kêu, không được khóc  à nha!
- Tao không tin.
- Sao  mày không tin?
- Thấy ác.
- Tao đâu có ác với mấy bả. Tao nói thật đó.
- Ai nói mày ác. Tao nói người coi mấy bả kìa.
- Ai coi? Mày làm như mấy  chị Xưa trẻ này là heo, là  gà chạy lăng quăng trong vườn cần có người coi á?
- Ừ thì ý tao nói mấy người coi kỷ luật trong  tu viện đó. Kêu là gì, tao không biết, nhưng đại loại nghề như  bà Giám Luật trường mình nè.
- Đúng là mày không  biết cái cóc khô gì hết. Kêu là bề trên, Mẹ bề trên, biết không!
- Thì ý tao nói bề trên ác đó. Còn kêu là  mẹ nữa. Mẹ mà ác với con cái!
- Chậc! Không phải ác, mà là nghiêm. Nghiêm chỉnh. Sống tập thể mà! Phải có kỷ luật chứ mày.
- Hèn chi, mày!
Con Xuân không hiểu ý thằng  Kiên muốn nói gì. Nó hỏi:
- Tao sao?
- Mày đó. Ở Ký túc là ở tập thể chứ gì? Vậy mà không theo kỷ luật gì hết trơn. Bị phạt hoài cũng đáng, đừng chửi mấy bả nghe “con”.
Con Xuân nghe nổi cơn. Nó nhoài người muốn cú đầu thằng Kiên nhưng  thằng bụi đời né được.
Trong lớp Chín C này chỉ có năm nam sinh, một phần tám sĩ số. Con trai hay bị lép, trừ thằng  Kiên dữ dằn, bốp chát. Nghe kêu riết nó cũng khoái cái tên “Kiên Phang”, nhận luôn. Cũng là để giương oai với con “Xuân Ký túc”, vì Xuân đanh đá nhất trong bọn ký túc, nếu Kiên không  phang sao trừng trị được con này, sao bảo vệ được bốn thằng nhóc hiền hơn bụt kia. Còn một lý do ngầm bên trong khiến Kiên thường tỏ ra nghêng ngang, cứng đầu, lì lợm, nhưng đồng thời lại có những lúc rất chịu chơi, tử tế, hiền hậu không ngờ, đố ai biết được nếu không một lần để ý nhìn ánh mắt của Kiên mỗi khi nó nổi hứng bày trò quỷ.
Thụy chứng kiến cuộc đấu khẩu giữa Xuân Ký túc và Kiên  Phang vừa rồi, đâm ra hoang mang, không biết cuộc sống trong một tu viện thực hư ra sao. Có nên tin  lời con Xuân không? Con nhỏ này chẳng bao giờ nói chuyện đàng hoàng, đứng đắn, nghiêm chỉnh cả. Toàn hù dọa, cà khịa, bịa đặt, bầy trò cho vui. Nhưng nhà nó có người đi tu kể lại, không lẽ …
Đáng lẽ, hỏi các chị Sơ là biết  ngay sự thật thôi mà, sao cứ thấy ngài ngại. Người ta ai cũng có cái gọi là sĩ diện chứ! Chẳng hạn, bây giờ mình hỏi vụ phải ngủ trên mảnh sành cho chảy máu ra, chắc chắn các chị không bao giờ nói thật, mang tiếng tập thể chết!
Ở trường Dòng, tuy mỗi ngày có cơ hội gặp gỡ các nữ tu, nhưng các em học sinh ít khi tìm hiểu  lý tưởng của người đi  tu Dòng là gì, nếp sinh hoạt của đời tu ra sao, vì các nữ tu  ít khi ba hoa, chuyện vãn. Họ tuy trẻ, nhưng tư cách nghiêm trang, đạo hạnh, giữ gìn . Nguyên bộ tu phục kín đáo đã  bảo vệ các vị ấy được luôn ở trong một tư thế an toàn và cách biệt với thế giới ngoài đời.
Thật may!  Hôm sau có giờ làm bài tại lớp dành cho những bạn nghỉ học trong tuần bị thiếu bài phải làm bù, hoặc bị chép phạt, hoặc được công tác Sơ Giám Học nhờ làm, tất cả đều tập trung vào buổi trống giờ này. Làm như tinh thần đoàn kết cao, lớp Thụy thường có mặt khá đầy đủ trong buổi tập trung này. Những học sinh không nằm trong ba
“ diện” trên cũng chăm chỉ vác mặt đến lớp. Kẻ giảng lại bài cho bạn, đứa phụ với các chị Sơ làm sổ sách, cốt gặp nhau thôi chứ có gì đâu. Thụy nhân  cơ hội, cũng đến lớp chơi. Nó  nhắm bắt chuyện với Vân Phạm (lớp còn có Vân Trần nữa) khi thấy  bạn này đã xong bài. Đợi Vân nộp bài lên bàn thầy cô xong, Thụy nháy bạn ra sân. Dưới gốc phượng già, tha hồ nói chuyện. Vu vơ mãi rồi cũng quay được con  Vân về vấn đề Thụy cần hỏi. Trước hết trong câu chuyện phải có bóng dáng một Dì Phước, lại thêm một cái may, Sơ Văn phòng bận rộn vừa chũn chĩn đi ngang hai đứa với chồng hồ sơ trong tay, chiếc áo dòng lật đật vội vã bay ào qua trong chớp mắt  nhưng Thụy bắt chuyện ngay:
- Các chị Sơ mặc áo như vậy không biết có nóng không nhỉ?
Vân cười:
- Nóng cũng phải mặc chứ bồ. Đi tu mà.
- Đi tu thì phải làm sao?
- Phải nghe lời, phải hy sinh, phải nhịn nhục, phải…
Thụy liền nói tôi hiểu rồi. Nghĩ sao nó lại vặn vẹo:
- Vậy  tới mùa lạnh, các chị mặc bộ áo  đó ấm  rồi, đâu còn gọi là hy sinh nữa? Ngược đời.
- Ngược gì mà ngược?
- Tới mùa Đông, người nghèo thiếu ăn thiếu mặc, người đi tu lại có áo ấm sẵn, hy sinh nỗi gì?
- Theo tôi, người đi tu thiên về tinh thần. Tinh thần hy sinh. Bồ hiểu không?
- Không.
Thụy trả lời dứt khoát một tiếng, vì nó không hiểu thật. Vân kéo tay Thụy ra góc sân, hướng đi về khu vệ sinh, tuy thỉnh thoảng  hơi hơi có mùi ( toàn  của tụi con trai mới khai vậy đó) khi có cơn “gió đưa cành trúc la đà”, nhưng ít người qua lại, dễ nói chuyện, nó nghĩ rằng đây là một vấn đề rất quan trọng, phải  trao đổi nơi riêng tư, yên tĩnh.
Có lẽ Thụy đã hiểu sai vấn đề rồi. Để coi Vân giải thích ra sao.
Chợt từ trong dãy nhà nhỏ đối diện, một thằng con trai đang vừa túm quần kéo phẹc-ma-tuya lên, vừa thảnh thơi, nhẹ nhõm bước ra khỏi khu vực nhà vệ sinh nam, miệng hân hoan huýt sáo nhỏ. Nó ngậm ngay mỏ lại, chững bước khi trông thấy Thụy ngồi cách đó không xa, nhưng đang quay mặt nhìn ra cổng trường, không trông thấy nó. Mình vừa làm gì xong ấy nhỉ? Nãy giờ Thụy vẫn ngồi vậy hay  đã thấy mình lúc đó đang kỳ kỳ nên mới quay lưng lại? Mặt nó nóng bừng lên dù chẳng ai biết. Nó lẳng lặng biến ngay vào lớp. Tuần nào nó cũng bị tập trung để chép phạt một lỗi phạm nào đ . Kiên chứ ai.
Kiên nể Thụy học giỏi, vẽ đẹp, lại ngoan nữa, lại có mái tóc dài mềm ( chưa sờ thử, thấy gió bay chắc mềm mượt lắm)  nhưng nó phải tỏ ra không cần, không thèm, không thích, không ham, không… gì nữa  không tất … bởi vì nó là con trai. Con trai không thể thua con gái. Kiên không bao giờ nói chuyện với Thụy, nhưng tất cả những gì về Thụy nó để ý biết hết. Hôm qua, nó đã thấy Thụy đứng gần nó và con Xuân khi hai đứa nó nói chuyện về các Sơ. Tại Thụy đứng đó nên nó mới giả vờ kiếm chuyện hỏi con Xuân tại sao các Sơ không ăn quà chứ thật ra nó quá biết người đi tu đâu có tiền mua quà. Tại Thụy còn nghe nên nó còn đấu với “con ranh “ kia chứ hơi sức nào Kiên này thèm tranh cãi ba cái vớ vẩn ấy.
Thụy  đã không nhìn thấy Kiên đi ngang, nhưng nếu như Thụy đang ở ngoài sân hay hành lang mà bất chợt quay mặt vào lớp, bất cứ lúc nào , bất cứ  ở một cự ly nào, dù xa cách mấy, nó cũng sẽ bắt gặp một chút gì đó từ thằng con trai này ló ra. Một vai áo nhô ra, một  cánh tay đưa lên cao ngọ ngoạy, một mảng đầu tóc rối bung. Có khi là một cái cẳng chân đưa cao quá mặt bàn ngúc ngắc, ngúc ngắc. Nhưng chưa bao giờ Thụy nhìn. Thằng đó chìa người ra một chút vì nó luôn phải cài Thụy vào tầm ngắm của nó. Nhưng tuyệt đối không bao giờ  nó để cho Thụy thấy ánh mắt của nó nhìn Thụy. Thằng ! Kỳ!
Thụy vẫn vô tình.


   5. ĐẤT MỀM
Vân  Phạm không làm việc đơn độc. Nó dặn Thụy ngồi chờ ở góc sân rồi nó bỏ đi. Trong chốc lát, cô nàng trở lại với một  nhân vật rất oai, đó chính là chị Vang, chị Mát –len Vang.  Làm như Sơ Vang là phụ tá cho nó không bằng vì thấy mặt nó vênh lên hãnh diện.
Vừa thấy bóng áo dòng tiến tới, Thụy vội đứng lên chào vui vẻ, dấu đi sự ngần ngại trong lòng. Vân thật là đứa nhanh nhẩu đoảng, lỡ lần này từ nay không hỏi nó cái gì nữa. Mà mình cũng không lỡ, không trót gì cả, chỉ thắc mắc với nó mấy câu thôi mà nó lôi cả… một tu viện vào cuộc. Thụy không muốn tí nào, không muốn tí nào.
- Nè, không hiểu thì hỏi chị Vang đi.
Chị Dòng mở miệng cười, nhẹ nhàng ngồi xuống cạnh Thụy:
- Thụy thông minh thế, có cái gì không hiểu nào?
-  Dạ đâu có gì, tụi em nói chuyện chơi.
-  Thì bạn cứ hỏi đi, có mất cái gì đâu.
Vân nói. Nó ghé mông ngồi kế bên chị Vang trông rất thân thiện và gần gũi, làm Thụy thấy thèm. Ai lại ngồi sát vào người đi tu như thế nhỉ! Họ đâu phải là người bình thường như mình. Càng nghĩ, Thụy càng thấy Vân Phạm táo tợn, hóa ra con nhỏ này đâu có hiền lành nhút nhát như mình vẫn tưởng. Thụy đớ đờ đợ ra như  vừa chứng kiến một sự xúc phạm ghê gớm  ngay trước mắt, giống như ta phát hiện ra một đứa trẻ dám vừa đi vào tiền môn Phật tự vừa mút cà rem, thản nhiên và lộ liễu, không e sợ gì hết. Dĩ nhiên, theo một khía cạnh nào đó, chị Vang cũng là … bạn học cùng lớp, cũng là chỗ quen biết, cũng là … người  thôi mà, nhưng sao đối với Thụy, đi tu là cả một sự cách biệt với thế gian và vì  thế, người đi tu không thể giống người  phàm, không đi tu. Vân không đi tu, vậy Vân không được ngồi gần chị Vang. Nhưng rành rành trước mắt kia thì thấy thân thiết với một  “ma-sơ” kể  cũng là điều thú vị đấy chứ nhỉ! Có thế thôi mà đầu óc Thụy nãy giờ bị xáo trộn quá chừng, nó nhìn con  Vân hỏi nhỏ:
- Hỏi cái gì?
Vân nhắc:
- Thì bạn hỏi về cái vụ … mùa đông áo ấm gì đó.
Thụy nhớ ra cái  ý nghĩ bất bình ban nãy của mình, nó chợt thấy nó có lý lạ và nó đâm ra bực.  Cái bực dễ lây làm Thụy nín khe, không muốn mở miệng. Tại Vân láu táu, tại Thụy mau miệng, tại chị Vang ân cần đến đây. Nếu bây giờ mình nói ra cái ý nghĩ ban nãy cho chị Vang nghe có khác gì  phân bua với một người đi tu rằng đi tu có gì hay đâu! Đó là chuyện giữa Thụy và Vân, không muốn chị Vang nghe, chị ấy nghe được sẽ nghĩ Thụy so đo, phê phán, chê bai, chỉ trích, có ác cảm với tu sĩ. Nghĩ vậy đó nhưng Thụy thầm công nhận chính tất cả những thái độ đó đã có và đang ở trong lòng Thụy. Quả thật Thụy có ác cảm với những chiếc áo dòng. Áo dòng không làm nên thầy tu, ai biết được những con người kín đáo trong bộ áo nhà tu là những người đạo đức thật? Bất giác Thụy nhếch mép, chỉ giả tạo!
Chị Vang làm tan bầu không khí tường như chùng xuống. Chị lại cười:
- Không hỏi chị nữa à?
Thụy hết hồn:
-  Dạ, tại em chưa nghĩ ra.
-  Thế cho chị hỏi nha. Chị hỏi Thụy một câu rất dễ nè.
Thụy e dè:
-  Dạ.
Chị Vang ngập ngừng đôi chút như suy nghĩ ghê lắm, rồi nghiêng mặt, nhìn thẳng vào mắt Thụy, chị tủm tỉm cười, hỏi:
- Vì sao… em … vẽ  đẹp thế?
Thụy mở to mắt, ngỡ ngàng, ngượng nghịu, trong khi chị Vang phá lên cười hơ hớ. Ôi, lần đầu tiên mình thấy một ma – sơ cười to khoái chí. Cách cười ấy, nó tự nhiên, hồn hậu làm sao! Chẳng có gì gọi là giữ gìn, là nghiêm chỉnh, là đạo đức nữa cả. Rồi chị lại ngưng giọng cười lạ thường ấy mà thầm thì bên Thụy:
- Sao em  khéo thế? Chị mê luôn í.
Chao ôi, một lời khen rất bình thường, rất tâm lý, rất thật thà và giản dị. Trước giờ mẹ chẳng bao giờ nói với Thụy cách ấy. Các bạn có khen nhưng chưa có ai có cách bày tỏ tình cảm hồn nhiên như thế. Thụy như có men say trong người, thứ men chỉ bốc lên khi có lời khen lao bay bổng. Nó thấy lạ lùng quá. Nó cứ tưởng các chị Dòng trẻ chỉ biết học cho chăm, cười  nhẹ,  nói nhỏ, dìu dịu, chầm chậm … thế thôi. Ô hay! Thụy này buồn cười nhỉ! Đã bảo tu sĩ thì cũng là người, bình thường  như mình, như Vân như Thụy vậy thôi chứ có gì  khác biệt đâu.
Thế sao người đi tu không chạy nhảy nhỉ?
Thế sao người đi tu không hay tranh luận nhỉ?
Thế sao người đi tu không ganh đua học tập nhỉ?
Thế sao người đi tu không thèm ăn quà nhỉ?
A! Còn, còn mấy cái bọn Thụy thấy chị Lụa, chị  Thơm, chị Vang không giống người đời. Nè, lớn rồi mà cứ xưng “con” với thầy cô. Thầy cô cũng còn trẻ chứ có già bằng ba mẹ mình đâu nào! Rồi, không có niềm vui này, lúc nào cũng nghiêm trang, gọn ghẽ, cười mím chi thôi. Rồi, không chú trọng tới mỹ thuật, thời trang này, ngày nào cũng chỉ mặc một bộ áo dòng đen, vừa dày vừa lụng thụng, không lấy làm khó chịu tí nào cả.
Rồi, hình như tóc tai họ cũng quái lắm hay sao mà Mẹ bề trên ( bây giờ Thụy đã biết cách gọi người đứng đầu trong một tu viện là gì rồi nhé!) bắt bịt khăn che kín suốt từ trán ra đàng sau gáy. Cũng có khi Thụy thấy mấy sợi tóc của chị Lụa vương vương ra ngoài khăn. Tóc chị ấy màu đen, như tóc Thụy. Bình thường thế sao phải che đi? Ôi sao bí mật thế?
Đến lúc này Thụy mới nghĩ ra được một câu để chuyện trò với chị Vang chứ ai lại cứ ỉm ìm im đi khi người ta vui vẻ với mình.
- Chị ơi, em chỉ là thích vẽ thôi.
- Ô không, em có khiếu lắm.
- Nhưng có một đối tượng khó vẽ lắm  ạ.
- Ô, thế à? Là gì Thụy nhỉ?
Vân nhanh nhẩu cướp lời:
- Em đố chị.
Thụy quay sang Vân:
- Đố bạn luôn.
Chị Vang chun mũi, chu miệng ra suy nghĩ rồi à một tiếng:
- Đức Mẹ.
Cả hai đứa nhỏ đều ớ ra vì chúng không nghĩ như chị Sơ. Chị Vang cười hiền, khoe:
- Chị cũng đã từng cầm bút i tờ vẽ. Chị thích vẽ Đức Mẹ nhưng không được. Khó lắm.
- Chị tự nghĩ ra ạ?
- Ừ, là mình tưởng tượng ra ấy mà.
Thụy công nhận:
- Dạ, chị nói cũng có phần đúng, nhưng em muốn nói vẽ … người đi tu là khó nhất. Khó đẹp nhất (Thụy nhấn mạnh).
- Như …chị đây á?
- Dạ…ạ.
- Ô sao thế em?
Thụy trả lời ngay:
- Vì các chị ai cũng giống ai, không có tóc.
Chị Vang khoái chí, lại phá lên cười, không hề tỏ vẻ giận vì câu nói này:
- Em tôi ngây thơ quá. Các chị có tóc chứ em. Này, tiết lộ cho Thụy biết nhá, tóc tớ đẹp là đàng khác đấy nhá.
Nói rồi chị Vang nghiêng vai, đưa bàn tay ra sau gáy, kéo một lọn tóc dài, mượt và đen nhánh từ bên trong khăn che đầu ra cho Thụy và Vân xem. Rồi chị lại nhẹ nhàng luồn mái tóc cất vào bên trong như cũ. Chẳng có gì là bí mật cả. Tóc là tóc, thế thôi.
-  Đi tu cất dấu những của đẹp để dâng cho Chúa. Hì, hì…
Chuchoa ơi, sao vấn đề  mình thì  lấy làm quan trọng, cao siêu mà đương sự lại trình bày một cách tự nhiên, bình thản thế được nhỉ? Lại còn cười cợt nữa chứ!
Thế còn hy sinh? Tinh thần hy sinh mà Vân đề cập tới đó. Hy sinh là hy sinh cái gì?
Đáng lẽ các ma-soeur phải cạo trọc đầu giống các ni-cô mới là hy sinh chứ!
Thôi, ai lại đi bàn cãi với chị Vang về vấn đề tóc tai thế này. Chị ấy đã chìa tóc ra cho mình xem là thật thà lắm rồi, không nên vặn vẹo, lý lẽ nữa, e rằng mình cố chấp.
Thụy để bụng.
Từ lúc ấy đến lúc chị em chia tay vào lớp, Thụy chỉ trao đổi vẩn vơ  qua lại mấy câu bâng quơ vô nghĩa. Chị Vang và  Vân cũng thế, coi như một buổi nói chuyện tào lao thiên địa, không lưu luyến gì cả.
Trong lòng Thụy không vậy. Nó đang bâng khuâng chi lạ. Tuổi mới lớn muốn tìm hiểu cả vũ trụ chứ chẳng riêng chuyện này. Thụy là một cô bé thông minh, ham học hỏi, cầu tiến và hiếu thắng. Em muốn biết hết, muốn có hết. Em muốn thấy hết tất cả những điều bí ẩn trong vũ trụ và em muốn leo lên cả Sao Hỏa trong lúc này. Ngay từ khi mới biết đọc biết viết, Thụy đã là một em bé ham thích tìm hiểu. Hồi đó, Thụy mở sách kinh hỏi bốNammô là gì? A di đà là gì? A di rị đa bà tỳ là gì? Tiếng Phạn ai mà biết. Cả nhà đọc là đọc chứ có hiểu gì đâu. Bé Thụy xem hình vẽ cảnh thái tử Tất Đạt Đa đêm khuya bỏ hoàng cung ra đi, em hỏi sao Thái tử không mang  công chúa và con trai đi cùng?  Thụy còn biết hỏi vì sao phải vừa tụng kinh vừa gõ mõ?  Bố Thụy cố gắng liệu lời giải thích cho đứa  trẻ lên sáu những điều chính ông còn mù mờ.
Thụy tìm dịp tiếp cận Vân Phạm lần nữa. Lần này vì chỉ có hai đứa với nhau nên tự nhiên hơn.
- Vân à, bạn biết các sơ nhiều chứ?
- Biết là sao?
- Là quen, là chơi thân đó.
- Ờ, mình cũng như Thụy, nhưng cái miệng mình tía lia nên biết nhiều đó mà.
- Biết là biết về cái gì?
- Về những gì mình chưa biết, không biết.
- Trả lời huề vốn quá hà!
- Chứ sao? Bạn muốn tôi nói sao?
- Bạn nhớ cái bạn nói tôi hôm nọ không?
- Nói cái gì, quên rồi.
- Bạn nói người đi tu có tinh thần hy sinh đó.
Vân trợn mắt:
- Thụy kỳ à nha! Sao tôi  bảo bạn hỏi chị Mát-len bạn không hỏi, giờ bạn hỏi tôi?
Thụy gãi đầu:
- Lúc đó nó làm sao á.
Vân thông cảm, nhìn Thụy phê bình:
- Bạn học thì giỏi nhưng khép kín quá, bạn thiếu tự nhiên, đúng không?
Thụy ắng im, một cách công nhận.
- Thụy ơi, bạn cứ cởi mở hỏi chuyện, các chị Sơ sẽ trả lời tất cả các câu hỏi của bạn mà.
Thụy bỗng mở to mắt:
- Tôi hỏi bạn, được không?
Vân lắc đầu ngúng nguẩy:
- Tôi biết gì!
Nhỏ này tỏ thái độ bất hợp tác với mình rồi.
Ừa, nó không biết thật đó chứ! Nó có đi tu đâu mà mình hỏi nó. Mình mới là vô duyên, kỳ cục.
Thụy cười hì hì như chuộc lỗi đã làm phiền lòng bạn.
Nó pha trò khỏa lấp:
- Tôi chỉ thắc mắc bên trong chiếc áo dòng có … gì thôi mà.
- Uý trời đất ơi, Thụy ơi là Thụy.
- Sao?
- Bữa nay bạn lạ nghe!
- Lạ sao? Đùa đó mà. Ý!  thật, không đùa.
- Nữ! ( Con Vân cao giọng, ngó trân trân vô mặt Thụy).
- Bạn thấy đó. Tóc người đi tu là tóc như tụi mình. Chân tay họ cũng dài như tụi mình chứ?
- ? ? ? ( Vân trố mắt không trả lời) .
- Vân! Tôi hỏi thật mà. Tại vì tôi đâu phải người Công giáo như bạn.
Vân đi từ ngớ ngẩn này tới ngớ ngẩn khác của Thụy, cho tới lúc nó nhận ra được vẻ chân thật nơi Thụy nó mới thôi ngạc nhiên. Bữa nay Vân mới biết ngoài việc học ra Thụy không biết gì.  Ngay cả chuyện “thân thể con người ta gồm có ba phần, đầu, mình và tứ chi” nó cũng lơ tơ mơ như vậy, mà sao nó làm bài  Sinh vật được ta? Nghĩ cũng ngộ. Vân chợt nảy ra một ý tưởng trêu chọc bạn. Nó giả bộ bây giờ mới hiểu ra vấn đề.
- Ờ hé! Hiểu hiểu! Bạn đâu có Đạo mà biết. ( Nói vậy rồi Vân cười thầm, đạo nào thì đạo chứ, con nhỏ này ngố quá). Tôi cũng không dấu bạn làm chi, để từ từ kể cho nghe (có gì đâu mà làm như phải lâm vào mê hồn trận). Thụy thích thú, nó cảm thấy con bạn ngồi bên nó hồi nào giờ cũng bình thường mà sao bữa nay thông thái lạ. Nó tỏ ra tín nhiệm con Vân hẳn lên. Và hình như bên đạo Chúa còn có nhiều cái mình không nghe ai nói. Thôi  để thắc mắc gì cứ hỏi Vân.
Vân đâu đợi Thụy hỏi, nó gài:
- Bạn có từng nghe nói các nữ tu đạo Chúa không có chồng con không? Ờ, không yêu luôn nghe. Không yêu cho nên họ đâu có thất tình. Khỏi xa cách, khỏi ưu sầu ảo não. Như chị Lụa, chị Thơm, chị Vang đó, bạn có thấy mấy chị ấy buồn sầu, khóc lóc bao giờ  đâu. Người đi tu luôn nở nụ cười, thấy tôi nói đúng không? Rồi, đi tu không phải nấu cơm, làm cá, nhặt rau. Thụy thấy tay mấy chị Sơ lớp mình trắng trẻo, đẹp đẽ, sạch sẽ không? Nè, họ không bao giờ bị bệnh, nhất là bệnh đau bụng đó nha. Họ không bao giờ cần xử dụng dầu nóng, dầu Cù-Là Mạt-phu, dầu Con Hổ, dầu gió xanh v.v…  . Họ đâu có … cái rốn để mà bôi dầu. Đó, một chuyện nhỏ nhặt vậy thôi mà bạn cũng không biết. Có gì không biết cứ hỏi tôi nghen. Cái “kinh nghiệm hàng tháng” của tụi mình đó hả, họ đâu có đâu!  Sướng ha! Mấy người đi tu không  khổ như tụi mình đâu, họ là thiên thần của Chúa mà. Bù lại họ phải hy sinh nhiều lắm.
Vừa nghe tới đây, Thụy chụp luôn:
- Bạn nói cho tôi nghe cái vụ tinh thần này đi.
- À, đúng là tôi còn nợ bạn chuyện này. Nhưng nói thật, tôi không rành lắm về những hy sinh của người  đi  tu.  Chắc  lúc nào phải hỏi mấy  chị Sơ lớp mình.
Vậy rồi, Vân bán cái ngay cho các Sơ, nhưng để có cơ hội gặp gỡ các Sơ đâu dễ,  vì các chị ấy chỉ có vài phút trong giờ ra chơi, làm sao giải thích hết những thắc mắc của các em. Tan học, các chị cắm đầu lui về tu viện ngay. Phần Thụy chợt nhớ ra có thể hỏi Xuân là một người theo đạo Chúa, nhưng chắc gì nó nói thật, hay là chỉ bịa đặt,  hù dọa mình? Không tin nó được.
Tâm hồn Thụy đang tróc vỏ, vỡ đất.
Em mơ hồ sống trong ranh  giới  giữa thực và mơ. Thụy muốn đi sâu vào một miền sống lạ lẫm, kỳ diệu khác với nếp sinh hoạt thực tế như mình đang sống thế này. Sống thế này tầm thường thôi. Không thích tầm thường. Tại sao các phi hành gia bay lên mặt trăng? Bởi vì họ không muốn ở mãi nơi trái đất. Đó, Thụy cũng muốn làm một nhà thám hiểm như vậy, sẽ không thể không đạt được ước muốn. Nghĩ vậy mà Thụy quyết tâm.
Sống nhận lãnh và an phận không phải là một cuộc sống có ý nghĩa. Cái ý nghĩa ở đây hình như nằm trong một sự dâng hiến, hy sinh thế nào đó. Thụy cho là như thế và em quyết định đi tìm, nghe nói (Vân nói chứ còn ai!) toàn bộ cái ý nghĩa cuộc đời này nó nằm trong … người mấy Sơ.


6. NỨT MẮT
Đã có xin được  một cái hẹn từ trước, Thụy  đường hoàng bước vào  bên trong  cánh cửa tu viện, bình tĩnh mà … run.
Run thật, vì từ bé tới giờ chưa bao giờ Thụy được đứng giữa một khung cảnh rộng lớn, trang nghiêm như thế này. Sân tu viện thênh thang, vuông vức và được trang hoàng bởi những luống hoa uốn lượn theo nghệ thuật với nhiều sắc hoa tươi thắm đang mùa nở rộ. Con đường chính thẳng tắp, được trải nhựa mịn màng, đưa tới cuối đường là một ngôi nhà thờ màu gạch đỏ, không to lắm nhưng rất thanh nhã, dễ thương. Cảnh trí tu viện khiến lòng Thụy lắng xuống. Sự im lặng tuyệt đối của không gian làm Thụy tưởng như đang sống ở một hành tinh tuyệt vời nào đó không bụi bặm, không tạp âm, không nhũng nhiễu, chỉ có thoang thoảng hương hoa thơm, đôi cánh bướm chao nghiêng dịu dàng trong nắng sớm. Cô gái nhỏ như hài lòng với chuyến chu du đặc biệt do chính mình chủ động và quyết định, chứ không phải cậy dựa vào ai. Cô đang làm chủ chính cô và cô tự hào vì đã làm được một việc mà từ trước đến giờ chính cô cũng không ngờ mình  sẽ làm.
Thụy xin gặp Sơ Mát-len Vang.
Thụy được mời vào trong phòng khách và được mời ngồi  chờ.
Mọi cử động ở chốn này đều nhẹ nhàng, dịu dàng, lịch sự, kín đáo  đến … lạnh người.
Không gian trở nên mênh mang, hoang vu, tĩnh mịch đến … nghẹt thở.
Giờ ước gì được nghe tiếng Thầy tụng kinh sang sảng, ngân vang cùng tiếng gõ mõ đều nhịp cho đỡ…. sợ.
Non một khắc  trôi qua, đủ cho trái tim nhỏ bé đây dần dần hòa hợp vào cảnh vật thiên đường kỳ diệu. Chị Sơ thân quen bước ra, Thụy vui mừng đứng lên chào, nhưng chị Sơ đã lên tiếng trước. Tiếng chị êm ái như lời ru, giọng chị đầm ấm và nhỏ nhẹ, nhưng chất chứa trong đó đầy vẻ vui mừng khi được đón tiếp cô khách quý mến thương. Thụy thấy mình được yêu .
- Ở tu viện, lúc nào cũng yên ả thế này, em ạ.
Chị Vang mở đầu như thế để trấn an Thụy. Hai chị em nói đôi ba điều làm quen, dù gì gặp nhau trong một khung cảnh mới lạ thế này cũng vẫn có gì khách sáo một chút, nhưng chị Vang khéo chuyển đề.  Chị làm cho Thụy tự nhiên dần.
- Chị ơi, em có điều muốn nói.
Những điều Thụy muốn nói riêng với  người nữ tu mà không có mặt bất cứ một bạn nào trong lớp cũng là điều dễ hiểu bởi không một bạn nào biết được và hiểu được tâm tư của Thụy lúc này. Tâm tư ấy chỉ có thể giãi bầy  trong một không gian riêng tư, với một  đồng cảm xứng đáng mà lũ bạn quỷ quái, nghịch  ngợm không  được phép xâm nhập, can thiệp vào.
Sơ Vang vừa nghe qua vài lời Thụy thưa đã ngửa mặt lên trần nhà,  mắt nhắm lại, hai tay chắp vào nhau, miệng than rằng:
- Ôi, lạy Chúa tôi, lạy Chúa tôi lòng lành vô cùng.
Lời Sơ kêu lên ngắn gọn mà nghe thê thiết, cảm động làm sao!  Thụy ớ người không hiểu! Là cầu nguyện đó sao? Sao Sơ phải cầu nguyện? Thụy đã nói gì vậy?
Rồi Sơ mỉm cười dịu dàng nhìn Thụy. Sơ dọn từng chữ, đặt từng lời mà nói cùng Thụy rằng:
- Cám ơn Chúa. Em ơi, Chúa thương em biết bao!
Có vậy thôi mà Sơ cứ rên lên, lặp đi lặp lại lời than ấy. Sao lại tỏ vẻ sung sướng như thế khi thấy Chúa thương người khác? Sao lại  phải cám ơn Chúa khi việc Thụy trình bày không liên quan gì tới bản thân sơ Vang cả?  Thì ra Thụy ngỏ ý với chị Vang rằng Thụy muốn đi … tu.
- Không phải là đi – tu, mà là tìm – hiểu – đời – tu chứ em?
- Dạ không . Em muốn đi – tu.
- Vì sao vậy Thụy?
- Dạ em muốn hy sinh.
Thôi chết! Không hiểu sao Thụy buột miệng nói vậy. Đáng lẽ nói tìm – hiểu như chị  Vang gợi ý thì đúng hơn. Kiểu này đi tu thật, phải từ bỏ điều gì đó mà mình không kham nổi, chết là cái chắc.
Dĩ nhiên cuối cùng chị Vang cũng biết việc chị phải làm. Chị dằn lòng không để thốt ra những lời tạ ơn khó hiểu. Cư dân trong nhà Dòng cũng không thể biết được chị Vang đang được ơn gì mà hạnh phúc đến như thế. Riêng chị, lúc nào chị cũng muốn ôm chầm lấy em học sinh Phạm thị Thụy của chị mà âu yếm, mà vui sướng, mà quý báu. Chị sợ em  ấy bay đi  đâu mất. Chị cầu nguyện với Chúa  và trìu mến gọi Thụy là “con cá cơm” của chị. Chỉ có Chúa hiểu. Thụy càng không hiểu, nhưng từ hôm ấy em biết việc em phải làm. Em biết, vì Sơ Vang bảo, không phải cứ muốn đi tu là xách va li kẽm quần áo vào  tu viện ngay được đâu.
Thụy  chăm chỉ học Giáo lý.
Nhớ lại, ngay lúc nghe Thụy ngỏ ý muốn  tham dự vào đời sống tu, chị Vang đã hơi bị sốc. Chị phải vận dụng óc hài hước để tự giải phóng mình khỏi cơn chấn động tinh thần, không thì chị lăn quay ra bất tỉnh nhân sự:
- Thụy muốn đi tu thì phải vào chùa.
- ….
- Thụy phải cạo đầu, cắt tóc, mặc áo ni – cô.
- ….
- Thụy phải tụng kinh gõ mõ.
- …
- Em theo đạo Phật mà, phải không?
- Dạ.
- Thế! Chị đây có quen chùa nào để giới thiệu cho em được đâu?
- Dạ không, em tu với Chúa.
- Như chị?
- Dạ, như chị.
- Ở đâu?
- Ở đây ạ. Được không ạ? Nỗi băn khoăn, lo lắng của con bé lúc này thật dễ thương, làm chị Sơ cảm động. Nó sợ bị từ chối. Không. Chúa chẳng từ chối nó đâu, chị biết.
Nó, cũng như chị, như bao người. Ngay từ khi  còn trong lòng mẹ, Chúa đã biết ta, yêu thương ta và  muốn bao bọc ta suốt, Chúa luôn dang rộng tay ôm choàng lấy ta khi ta chạy đến với Người. Chúa như gà mẹ, sẽ ấp ủ em như ấp ủ gà con dưới  đôi cánh quyền năng của Chúa, Thụy ạ. Chị đã muốn nói thế và nói thật nhiều điều nữa với Thụy. Chị muốn ngâm nga, chia sẻ với Thụy những lời Thánh vịnh chị đọc hằng ngày, cho em ấy hiểu đi tu là yêu, thế thôi. Khi yêu, em chẳng phải hy sinh gì cả. Bởi Đấng Hy Sinh Toàn Hảo đã thánh hóa hy sinh của em rồi, còn gì nữa cho em phải hy sinh. Không cần tìm hiểu.
Chị Vang chỉ biết tạ ơn. Chị đến trước đài Đức Mẹ trong nhà nguyện thầm thĩ :
- Mẹ ơi, Vang của Mẹ nè. Con dâng em Thụy cho Mẹ. Mẹ tạ ơn Chúa, Mẹ vui với con nhé. Thế là thành công rồi Mẹ ạ.
Tội nghiệp  Sơ Vang, Sơ Mát – len Vang. Sơ vui mừng sớm quá.


7. VƯỚNG SỎI
Sơ Vang  vội mừng. Đất nào chẳng có sỏi đá. Cái mầm nhỏ xíu xiu của chúng ta nảy ra ngay sát bên một viên sỏi lì lợm, cứng ngắc thế này làm sao mọc chồi bây giờ?
Không hiểu tại sao thằng Kiên biết Thụy đang học Giáo lý. Thằng này kinh thật, kín đáo thế mà nó cũng biết. Trừ chị Vang, Thụy không nói ai, nhất là với cái thằng nghịch ngợm này Thụy thân thiết gì đâu. Thật tình, nhiều khi thấy nó cũng tội tội vì các bạn trong lớp coi nó như thứ học sinh cá biệt, ít  ai dám kết thân với nó, trừ  Vân Trần, một bạn nữ trong lớp, vì Vân Trần đi về cùng đường với Kiên, một thứ “ cô láng giềng ơi “ bất đắc dĩ của Kiên.
Vân Trần hiền, ít nói, mặt hay buồn, học khá nhưng không có gì nổi bật trong lớp ngoại trừ duy nhất một hình ảnh quen thuộc thầy cô và các bạn thấy ở Vân, đó là chiếc áo dài màu cháo lòng Vân mặc đi học. Hình như nhà Vân  Trần nghèo. Chả bù cho Vân Phạm, nhà giàu nứt đố đổ vách, con giám đốc cơ mà! May mà hai nhỏ này khác họ với nhau, nếu không chẳng lẽ bạn bè lại phải gọi là Vân – giàu, Vân – nghèo  để phân biệt sao  tội con nhà nghèo!
Vân “nghèo” (gọi sau lưng nó thôi, mà thực ra mình cũng không biết gia cảnh nhà nó như thế nào đâu!)  tuy có một sự giao tiếp tương đối hòa bình với Kiên (cho nên chúng mới có thể đi cùng đường với nhau ngày này qua ngày khác được chứ!), nhưng Thụy thấy hai đứa nó cũng ít trò chuyện với nhau, hoặc có nói cũng chỉ ngắn gọn vài câu rồi mạnh  đứa nào đứa nấy đi. Nói tóm lại là Kiên hơi cô đơn, hình như thế.
Mới đây thôi, có lúc  đang không, đi ngang chỗ Thụy, Kiên  chợt dừng lại, mắt ngó lơ.  Nó hỏi:
- Bạn thích đọc sách đạo không?
Rồi nó đứng yên sát Thụy chờ nghe câu trả lời. Hai tay chắp sau đít, mặt ngửa lên trời, mắt vẫn ngó lơ, nó đánh lừa được tất cả mọi ánh mắt xung quanh. Không ai ngờ được là nó đang hỏi chuyện Thụy.  Lần đầu tiên  nó tiếp xúc trực tiếp với Thụy đấy.
Thụy giật mình, hơi run vì bất ngờ:
- Bạn hỏi tôi?
Kiên mỉm cười rất hiền, gật đầu rất nhẹ.
Thụy cũng cười (vô duyên!) :
- Có.
- Mai.
Kiên  giựt cục vậy rồi chũi đầu đi thẳng một bước.
Có vậy thôi.  Thằng!
Kiên rời chỗ rồi Thụy mới ngẫm nghĩ , nó nói sách đạo là sách  gì ? Sao mình lại “ có “ ngay một tiếng với nó?   Vậy là mình hẹn với nó à? Nó hẹn mình chứ! Buồn cười thật!  Eo ơi, hẹn ở đâu? Ai biết!
Chẳng buồn cười tí nào. Bực thì có. Hay là nó chỉ xã giao với mình vậy thôi? Hôm sau nó có nói gì với Thụy đâu, vì nó đâu có đi học mà gặp. Sách với chả siếc! Thằng xạo! Thôi không thèm, hễ nó đưa sách mình sẽ nói tôi không thích đọc sách Đạo nữa, hễ nó nói cầm đi mình sẽ bảo không, không cầm, ghét ai thất hứa! Cho nó biết. Ừ, mà sao nó vắng mặt nhỉ?
Suốt buổi học ấy, Thụy để tâm để trí đến thằng hay phang, hay đấu võ miệng với con gái bọn Thụy. Không biết nó có làm đơn nộp Sơ Giám Luật không, khéo mai lại phải đến chép phạt 100 lần câu:
“ Nghỉ học phải có phép”. Thụy biết chắc chắn Kiên không sợ chép phạt (Thụy thì sợ lắm vì chưa bao giờ Thụy bị chép phạt), kệ xác nó, nhưng nó không đi học, làm cho Thụy bị hố. Vì vụ sách đạo. Thụy kín đáo dò tin từ các bạn.  Chẳng ai rỗi hơi để ý đến cái tên hay làm cho cả lớp bị thầy cô mắng lây. Nó nghỉ học, lớp được yên. Giờ chơi chỉ  loáng thoáng nghe được bạn nào đó nhắc đến chỗ ngồi của Vân Trần bỏ trống, chắc nó ốm.
Không nghe ai nói đến Kiên Phang. Thụy cũng quên nó  luôn. Quên từ nãy giờ. Tan học thì sách đạo cũng tan, thằng quái đó cũng cho tan luôn. Thụy thong thả nghiêng nón đi trên đường về nhà, trong đầu ôn bài Sinh mới, lại vừa suy nghĩ  về mấy câu Giáo lý phải  trả bài cho Sơ Vang  cuối tuần này.
Bỗng từ đầu ngõ, Thụy nhìn thấy Kiên Phang đứng trước cổng nhà Thụy. Thằng “xã giao“ đang dựng chiếc xe đạp của nó vào tường nhà Thụy, chờ Thụy về. Kiên lộ vẻ vui ra mặt khi trông thấy Thụy, làm như nó phải nghỉ học, xa lớp cả tuần nay không bằng.
- Tôi mang sách đạo cho bạn.
Nói rồi Kiên chìa ngay cho Thụy một cuốn sách nhỏ nãy giờ nó giấu sau lưng. Thụy vừa kịp cầm thì Kiên  chào:
- Về nghen.
Thụy vội vã:
- Ê, sao hôm nay bạn nghỉ học?
Kiên gãi trán mấy cái như không muốn trả lời, nhưng rồi cũng thổ lộ:
- Coi em.
- Em nào?
- Em tôi.
- Sao phải coi?
- Nằm nhà thương.
Hai đứa như đang giã gừng. Nhưng Thụy là một  cô bé giàu tình cảm. Nó ân cần hỏi thăm:
- Nhà bạn không ai coi nó sao?
- Không?
- Nó lớn chừng nào?
- Cũng lớn.
- Em mấy tuổi  rồi?
Vừa nghe Thụy hỏi vậy, Kiên không kềm được, nó toét miệng cười:
- Nó là Vân đó. Vân Trần lớp mình đó.
Thụy ngỡ ngàng như bất ngờ bị ai ném từ trên một chiếc máy bay trực thăng  rơi thẳng xuống đất đánh  độp một cái. Nó trợn tròn to mắt:
- Ủa, vậy á? Anh em sao học cùng lớp?
- Sinh đôi.
- Oá! Thông tin ngộ nha!
Kiên thản nhiên:
- Ừ. Ít bạn biết.
- Í, mà Vân bịnh sao vậy?
- Nó bị té gãy tay.
- Trời đất! Nặng không?
Bỗng Kiên hào hứng ngỏ ý:
- Vô thăm cho biết.
Thụy chần chừ:
- Xa hông?  Đi làm sao?
- Đi xe buýt. Hay tôi chở Thụy?
Thụy thấy nếu đi chung với Kiên, Kiên Phang, thì bằng phương tiện gì cũng kỳ, ngại quá. Lỡ đứa bạn nào trong lớp thấy thì nghĩ sao về Thụy?
Đi chung á? Nó chở mình trên cái xe đạp này á?
Hay là mình hỏi Kiên rồi đi riêng? Nhưng mình không có xe đạp. Đón xe buýt thì đón như thế nào?
Hay là mình rủ thêm bạn khác? Ai bây giờ?
Hay là thôi?
Thôi không được. Kiên đã có lòng tốt cho mình mượn sách, lại thấy nó nói chuyện đàng hoàng, tử tế, chẳng hề phang một tí gì  sao mình nỡ thờ ơ khi biết Vân bị nằm bệnh viện. Dù Kiên là một  nhân vật khó gần (theo dư luận chung chung trong lớp) thế nào đi chăng nữa, nhưng Vân Trần cũng là một bạn trong lớp. Không đi thăm sao được.
Thụy ngập ngừng:
- Bao giờ bạn đi vô bệnh viện?
- Chiều. Đi nghen.
- Sao Kiên không rủ thêm các bạn?
Kiên dùng dằng :
- Việc nhà, tôi không muốn ai biết.
Không muốn ai biết. Vậy mà Kiên lại cho Thụy biết, như vậy là Kiên phải quý Thụy lắm. Thụy đâm cảm động. Kiên bỗng dứt khoát:
- Nếu Thụy ngại thì thôi. Tôi về.
Thụy vội vã:
- Hay… ghi cho tôi số phòng.
Thụy mở cặp đưa mảnh giấy nháp và bút cho Kiên. Thằng nhỏ ghi vội mấy con số, trao lại Thụy kèm theo lời chào (tái chào) đượm nhiều chất buồn, nhưng mặt nó rất tỉnh. Nó  nhấc bổng ghi-đông xe,  gượm leo lên yên:
- Về nghen.
Thụy cầm miếng giấy, thoạt nhìn,  rồi hét toáng:
- Ê , nhà thương nào đây ông?
- Ờ ha, quên. Chợ Rẫy. Khoa Ngoại.
Thụy còn đang nghĩ ngợi thì chiếc xe đạp con trai đã mất khuất đầu con ngõ nhỏ.
Lại phải buột ra một tiếng “ Thằng !”. Ờ mà sao hôm nay nó ăn nói lạ thường. Dịu dàng, nhỏ nhẹ, tử tế, ân cần. Không phải là Kiên Phang như mọi ngày ở lớp. Chỉ cái là cứ giật cục, cụt lủn. Trả lời người ta mà mặt cứ cúi cúi xuống, rồi cứ ngó đi đâu, chẳng tự nhiên tí nào.
Sao thế nhỉ? Chắc tại lần đầu tiên nói chuyện với mình nên nó ngại, nó run đó mà (dầu sao mình cũng là một gương mẫu trong lớp chứ bộ!). Thôi, thây kệ nó đi, bây giờ việc đi thăm Vân Trần sao đây ta?  Rủ thêm  bạn nào đi  nữa? Rủ nhiều đi! Nguyên đám con gái lớp vô thăm chắc Vân vui lắm. Ý! Kiên đã nói không muốn cho ai biết chuyện nhà nó, vô đông nó chửi mình chết! Nó làm mình kẹt quá. Như nó gãy tay mình khỏi thèm thăm, cho đáng cái thói hay phang, nhưng  người bị tai nạn cần được thăm ở đây là Vân cơ mà. Dù cho Vân là em thằng hay phang chăng nữa nhưng con Vân đâu có lỗi gì. Với lại con Vân nó hiền lành vậy! Với lại hình như hai anh em nó có vẻ nghèo! Với lại hình như Kiên muốn mình đi thăm Vân! Vói lại, vói lại, hình như, hình như, mấy lý do nữa làm cho “với lại“  trẹo cả chữ đi thành ra “vói lại“, đó là vì trong lòng Thụy tự dưng thấy cảm kích sao ấy khi  thấy Kiên tới  tận cổng nhà Thụy để đưa sách cho Thụy đọc. Thế rồi Thụy quyết định theo lý lẽ của con tim, bởi vì đi thăm người ốm chẳng bao giờ là việc xấu cả.
Chiều, Thụy được mẹ chở đi thăm bạn. Hai mẹ con tìm được dãy có số phòng Kiên cho, nhưng  mẹ bảo vào đi mẹ chờ ở ghế đá ngoài sân bệnh viện. Mẹ đưa Thụy ôm vào cho bạn một túi quà gồm đường, sữa, bánh, đại loại mấy thứ hồi xưa cô bé Quàng Khăn Đỏ mang vào rừng cho bà.
Vân Trần đang bắc ghế ngồi buồn bên ngoài hành lang, xen giữa những con người, đa số  ăn vận giản dị, người xách gà-mên, người cầm túi nhựa đồ ăn,vội vã, tất bật đi qua đi lại. Họ có thể là thân nhân nuôi người nhà hoặc là khách đi thăm người bệnh, không ai nở một nụ cười trên môi. Đã phải bước chân vào nhà thương, chẳng tìm thấy một nét mặt nào vui vẻ cả. Vừa trông thấy bóng bạn từ ngoài hành lang, Vân ới to tên Thụy. Hai đứa cùng mừng như từ năm ngoái tới nay mới gặp nhau. Thực ra Vân không phải bạn chí thân của Thụy. Thụy cũng không luôn là người gần gũi với Vân. Hai đứa có những tính cách khác nhau, lộ ngay ra bên ngoài. Thụy không chải chuốt, điệu đàng lắm nhưng gọn gàng, sạch sẽ, chỉn chu, dễ nói chuyện và có nhiều bạn. Vân thì chỉ nổi bật ở tấm áo … con nhà nghèo. Thế nhưng nó cứ ới to vì nó đang nhớ trường, nhớ lớp, nhớ bạn, dù chỉ mới nghỉ có một buổi. Và vì nó biết nó còn phải ở trong bệnh viện ít là vài ngày nữa.Taynó còn mới nên đang đau nhức. Nghe nói mai mới bó bột được.
Đi vội đến, Thụy lo lắng nhìn cánh tay trái đang băng dầy  cứng từ khuỷu tay xuống tới cổ tay bạn, hỏi thăm:
- Sao Vân không nằm? Ngồi có đau hơn không?
Vân làm như em bé nhõng nhẽo (có mấy khi được hỏi thăm!):
- Sao cũng đau hà.
- Vậy là gãy xương rồi.
- Ừ. Mai bó bột.
- Vân làm gì mà bị té tới nỗi này vậy?
Vân ngần ngừ kể lể:
- Tôi đi vô nhà mới lau còn ướt nên trượt chân.
- Trượt chân mà lại gãy tay?
-Taymình chống lên nền nhà mà Thụy.
Thụy gật gật cái đầu, hiểu, nhìn Vân thương hại khi nó tưởng tượng ra cảnh Vân Trần bị ngã thế nào, rồi chống tay thế nào, đau lắm đấy:
- Lúc ấy có ai trông thấy bạn bị té không?
- Không. À có anh mình biết. Anh đưa đi bệnh viện đó chứ.
- Lúc đó tay Vân đau lắm hé? Khóc không?
- Anh mình kiếm cái quần dài quàng chéo ngang ngực mình để nâng cái tay lên. Anh cột như vầy, thắt nút như vầy, rồi bắt để y nguyên vậy, đưa đi. Không cho khóc.
- Sao khó vậy?
- Ờ, ảnh dữ lắm. Phải nghe lời.
Nãy giờ không thấy Vân nhắc tới ba má nó, Thụy hỏi, Vân cúi đầu nhỏ nhẹ trả lời:
- Không có.
- Là mồ côi đó hả.
- Không. Không biết.
- Sao không biết?
- Tụi tôi ở với cô chú từ nhỏ, đâu biết cha mẹ là ai.
Thụy sững người. Tự nhiên hai con mắt Thụy nhức lên, mọng đỏ rồi trào ra những giọt nước mằn mặn không kềm chế nổi. Thụy tránh cánh tay đau của bạn, ôm chầm lấy bạn, bóp nhẹ đôi vai Vân như Vân là một em bé nghèo khổ, bất hạnh, đáng thương  nó gặp trong trại mồ côi hay ngoài đường phố với xấp vé số trên tay. Thụy thương Vân quá!  Cả hai cô bé bất chợt cùng nhìn nhau, nở nụ cười. Ôi những nụ cười đẹp đẽ nhất trần gian này.
- Cám  ơn Thụy nghen.
Thụy ngồi lại với Vân một lúc lâu rồi nhớ ra mẹ đang chờ, nó tạm biệt Vân, hẹn sẽ vào thăm bạn nữa. Thụy định hứa sẽ chép bài cho bạn nhưng chợt nhớ có Kiên, nó lại thôi.
- Vô giường nghỉ đi.
- Thôi, trong phòng ồn lắm. Ngồi ngoài đỡ buồn.
Thụy chẳng biết làm gì để an ủi bạn, nó đành gượng gạo cười toe một cái ra điều, ừ, nhà thương vậy đấy, chán nhỉ!
Vừa quay lưng, Thụy trở lại khoe:
- Ông Kiên kiếm đâu cho tôi mượn cuốn sách đạo.
Vân xác nhận:
- Cuốn nhỏ nhỏ, xíu vầy (nó đưa bàn tay không đau làm làm kích thước) phải không?
- Ờ đúng rồi.
- Chắc ảnh mượn của ai. Sách cũ mà!
- Ờ, thôi về nghen Vân.
Từ tít xa, khuất sau một cây cột, Kiên thỉnh thoảng nhoài đầu ngó chừng em. Nó thấy Thụy từ lúc Thụy và mẹ Thụy mới bước vào sân bệnh viện. Nó tránh mặt vì thế nó không biết làm sao để nhờ bạn chép bài hộ anh em nó. Mai Vân được bó bột, Kiên phải có mặt coi bác sĩ có dặn dò gì không. Khổ! Còn thuốc men nữa. Ăn uống thì sao cũng được.
Trên đường về, Thụy kể cho mẹ nghe hoàn cảnh anh em Kiên, nhân tiện nó cũng phải kể hết cho mẹ nghe về tính cách cá biệt của anh em nhà này so với các bạn trong lớp. Từ ấy, hai mẹ con tính chuyện giúp đỡ Kiên và Vân, nhân cơ hội Vân bị tai nạn thế này là có lý nhất, không cái thằng kỳ cục đó nó chẳng chịu nhận đâu. Kiểu này là tự ái lắm đây.
Cuối tuần, Thụy xin khất bài Giáo lý của sơ Vang cho. Bao nhiêu là việc, toàn việc không thể nói cho sơ biết, vì thái độ của Kiên.
Kiên không chịu cho lớp biết chuyện Vân bị té.
Kiên không chịu nhờ Thụy chép bài. Nó nhờ đứa khác. Nó chỉ nghỉ hai ngày, trả nợ vèo cái xong.
Kiên không chịu nhận sự giúp đỡ của mẹ Thụy.
Kiên không cho Vân nói chuyện nhà với Thụy và cuối cùng nó cáu tiết với Thụy vì Thụy đi thăm Vân tới …  hai  lần.
Cáu kệ nó chứ .
Hôm sau, chiều cuối tuần, Thụy hỏi thăm được nhà Kiên, Vân. Ở xóm trong, đi lối chợ. Có thế mà cũng  cam go, quanh co, dấu giếm như làm thám tử tư vậy, bởi sợ thằng hay phang … phang cho một quả. Này nhá, kịch bản như sau đây và đã được thực hiện y chóc:
Sáng qua, sau cái ngày mà  cả hai anh em Kiên và Vân đều nghỉ học, đến lớp, đầu tiên là Thụy phải thắc mắc vì  sao bạn gái Vân Trần vắng mặt. Chắc chắn  Lan Lớp trưởng sẽ bảo: ừ, không biết sao Vân nó nghỉ nhỉ? Hai ngày rồi. Không biết có xin phép Sơ Giám Luật không mà Lan chưa biết. Rồi mình lại bịa rằng cần đòi cuốn vở Toán Vân mượn  nhưng không biết nhà Vân. Lan sẽ hỏi Thụy muốn biết địa chỉ không Lan hỏi văn phòng cho. Dĩ nhiên là muốn, thế là đi theo Lan. Hai đứa vào văn phòng, nhờ sơ Thư ký mở hồ sơ cá nhân học sinh lớp í, tên như thế. Không lẽ tự dưng rảnh mà sơ làm theo lời hai đứa ngay tắp lự? Không bao giờ! Sơ sẽ hỏi để làm gì? Lan, lúc này  với danh nghĩa Trưởng lớp mới thưa rằng chúng con muốn tìm đến nhà bạn í  để hỏi thăm xem vì sao bạn í nghỉ học mà không xin phép (phải đổ cho Vân Trần như thế, nếu không sơ Thư ký sẽ bảo bạn nghỉ thì lên mà hỏi sơ Giám Luật vì sơ ấy giữ Sổ Điểm Danh).
Nhưng hôm sau, nhằm lúc sơ Thư ký bận gõ máy, mấy lại nghề sơ quen ngồi, muốn sơ nhổ rễ đứng lên rất khó, hai cô học trò  phải chờ. Các sơ đi tu trên mây không biết, ở  trần gian này không gì đau khổ cho bằng sự … chờ đợi. Đó là câu Lan thầm thì than vãn vào tai Thụy chứ Thụy không nói. Biết gì mà nói. Lâu ơi là lâu. Cuối cùng rồi Thụy và Lan cũng được như ý.
Phải chi Kiên là  một người bạn bình thường (nghĩa là đừng “bất bình thường”) thì Thụy đã không phải vất vả như thế này.
Thụy cứ nín khe, không hề nhắc Lan là còn một bạn nam nữa hôm nay cũng vắng mặt, đáng lẽ  Trưởng lớp có nhiệm vụ phải ghi sổ. May phước, Lan không đả động gì tới Kiên, cũng nhờ Thụy  mau chóng kiếm cớ thoái lui, không đồng hành với Lan nữa, kẻo vỡ chuyện. Không biết tự bao giờ, Thụy bắt chước hai anh em nhà Phang, làm gì cũng bí mật không ai   biết.
Thụy đi một mình đến nhà Kiên, Vân.
Đến tận nơi mới  công nhận nhà anh em nó nghèo.  Căn cuối hẻm. Không hàng rào. Qua mảnh sân nhỏ có trồng vài cây dâm bụt khô cằn ở góc  trái, đâu đó quăng lung tung mấy cái vỏ xe, ruột xe hư, mấy miếng giẻ dính đầy dầu mỡ đen nhẻm, Thụy vào đến nhà. Nhà không chật lắm nhưng cũ quá! Cũ rích hà! Thời buổi người ta xây nhà bằng …. trời mà nhà anh em nó còn nguyên vách ván, mái tôn, cửa liếp  gỗ miếng còn miếng mất. Cửa sổ hai cánh lung lay như răng ông cụ, gỡ ra có gió lùa vô mát hơn. Trong nhà chẳng có gì đáng … ngồi. Một tấm ri-đô hoa lá cành kiểu ba tàu  ba mươi năm không giặt được giăng ngang, chia căn nhà làm hai. Bên ngoài tục gọi phòng khách, bên trong dĩ nhiên được coi như là các thứ … phòng khác và bếp như mọi gia đình cần phải có. Theo lời giới thiệu của Vân Trần, nhà nó có bốn người: Chú nó, thím nó,  anh Hai nó và nó.
Thảo nào xe đạp thằng  Kiên ngó ngộ ngộ, hình như lắp ráp không giống … ai, bởi nhà nó có nghề sửa xe.  Chú thím nó sửa xe ngay trước tiệm tạp hóa Oanh đầu  hẻm, cuối chợ. Chú nó sửa, thím nó bơm.  Khi đông khách thím nó nhào vô rút căm, vặn ốc, bắt long đền. Đó là theo lời giới thiệu của Vân. Cũng theo Vân kể, nhà  anh em Vân ở đây từ lâu nên hai chú thím nó có nhiều khách quen, việc nhiều, làm không ngừng tay.
Vân đã  nhanh chóng được về nhà, chỉ sau có hai ngày ở bệnh viện. Cánh tay trái của nó bó bột trắng tinh, cứng ngắc, gập ngay khuỷu thành một góc vuông, được băng treo toòng teng quàng  qua cổ. May là bị tay trái, tay phải còn viết bài được, nhưng Thụy  hứa sẽ  giúp Vân.  Kiên biết nấu cháo cho em nó ăn, biết soạn thuốc dặn em uống, ra dáng anh Hai, làm Thụy cảm động.
Đang khi Thụy và Vân ngồi nói chuyện trong nhà thì Kiên ra sân, quanh quẩn  thu dọn ba cái  gì đó ở ngoài  rồi hồi ngó tới không thấy đâu. Hỏi thì Vân nói chắc anh tôi đi phụ chú thím sửa xe cho khách  rồi. Thụy lặng người,  thấy tội tội và  thầm phục  Kiên quá trời.
Thụy hơi ân hận vì trước giờ mình cũng nằm trong  số những bạn bè luôn muốn tránh né Kiên, có chút coi thường nó nếu không nói là còn muốn gạt nó ra khỏi danh sách bạn bè học cùng lớp. Đôi phút nhớ lại những lần nghe nó choảng con Xuân, thấy nó cũng có lý, bởi  Xuân đâu vừa! Một tay du côn trong ký túc xá đó chứ! Nếu  không có nó đứng ra làm bia đỡ, chắc có nhiều bạn bị  Xuân bắt nạt. Lần Tiến mập bị Xuân bắt dí đầu, úp mặt vào tường nhà vệ sinh để nó lục soát túi quần thằng này, nếu không có Kiên bắt gặp chắc Tiến cũng im thin thít chịu trận. Nghe đâu bữa đó, ngoài tiền mặt ra, trong túi quần Tiến  ta còn có một tờ vé số chưa sổ. Hú vía, không con kẻ cướp kia nó chiếm rồi. Xuân là con gái mà tai ngược, lưu manh. Nếu vậy đúng lý ra, lớp phải bầu  Kiên làm vệ sĩ mới đúng. Vậy mà  hồi nào tới giờ ai cũng coi nó như đồ .. bỏ đi. Tội hết sức!
Rồi Thụy lại miên man hồi tưởng vụ Kiên lì lợm, trước mặt sơ Giám Luật, nhất định không khai ra vì sao cái khăn trải bàn thầy cô lại biến mất từ đầu giờ học, mà nghe nói trước đó có bạn tới sớm thấy Kiên cầm mang đi đâu. Kiên bị phạt hai tội: tội thứ nhất là làm mất tài sản chung của lớp. Tội thứ hai là lì. Có gì đâu! Hôm đó chị Lụa bị sao mà vừa vô lớp thì muốn … ói. Mới thấy mặt  chị  tái xanh, nhợt nhạt như tàu lá, cái miệng  chị  muốn oẹ oẹ, Kiên vội chạy tới giúp đỡ, tiện ngang qua bàn giáo viên, Kiên với  tay giựt luôn cái khăn bàn mới giặt trắng tinh, tính lót cho sơ ói khỏi rớt ra nền nhà. Quả thật chính Kiên đã làm dơ chiếc khăn bàn, nhưng nó đã mang về giặt sạch để bữa sau mang trải lại  như cũ. Tội cho nó là lúc nó bị  đấng nhân danh luật pháp truy xét thì sơ Lụa lại đi về nhà Dòng nghỉ  bệnh rồi, chẳng có ai  làm chứng cho nó. Bây giờ, nghĩ lại, Thụy trân trọng thái độ im lặng của Kiên khi bị sơ Giám Luật tra hỏi, chứ  hồi đó, thấy nó lì lợm sao mà dễ ghét.   Nhớ đến chuyện này, Thụy đâm ra nể Kiên. Kiên giống như một vị anh hùng ẩn danh. Thụy thích con trai khí khái như vậy.
Bây giờ, chứng kiến Kiên  ân cần săn sóc người thân khi lâm nạn, Thụy lại càng có cảm tình với Kiên hơn. Thụy dự định sẽ kết bạn lâu dài với  anh em Kiên.
Thế nhưng, chỉ phút chốc  thằng này đã làm Thụy bực. Nó từ ngoài hẻm đi vô nhà, lẩm bẩm, nhỏ nhẹ  nhưng cộc lốc:
- Thôi , bạn về đi.
Cục tự ái đã ứ nơi cổ rồi đó nghe, trời ơi mình tốt với em nó vậy mà nó bất lịch sự ghê, làm như mình … thèm lắm á?
Thụy  về, để lại cho Vân một bịch trái cây và mấy hộp sữa. Mẹ Thụy mua cho đấy. Thụy cũng để lại cả cái cục tức vì không rỗi hơi mang về.
Hôm sau, rồi mấy hôm sau nữa, ở lớp, Thụy biết tính Kiên quái nên tế nhị không tham gia vào các câu chuyện bạn bè hỏi thăm  cánh tay bó bột của con Vân Trần, em nó. Vân Trần bỗng trở nên có nhiều bạn. Con bé vui hẳn ra, hoạt bát hẳn ra. Nó tươi hơn xưa rồi, nhưng thằng anh  em  sinh đôi  với nó vẫn là một tay cộc cằn, gắt gỏng và dĩ nhiên là hay phang. Dễ xa nhau! Thụy ngạc nhiên tại sao Kiên không thể hòa đồng hơn nhỉ?  Rồi lại tự trả lời , thôi, thông cảm cho nó, con người ta thường tự ti về cảnh nghèo. Nghèo như một cái tội, xấu xa và đáng che dấu .
Bỗng một ngày.
Chuyện gì thì chuyện, hễ mà cứ có mấy chữ “bỗng một ngày”, “bỗng dưng một ngày kia”, coi bộ hấp dẫn à nha!
Quả thật, bỗng bẵng đi  không lâu, hai tuần sau  thôi, một ông tướng nhà trời trông quen thuộc xuất hiện trước nhà Thụy sáng Chủ nhật, chính xác lúc đó… khoảng 8 giờ. Thằng đó làm Thụy suýt ngã  ngửa. Nó dựng chiếc xe đạp cũ vào tường nhà bên, cách xa mười bước, rồi đến trước mặt Thụy, dáng nghiêm túc nhưng  nụ cười tủm lộ rõ vẻ hãnh diện. Kiên Phang đấy. Tóc hớt gọn gàng, mặt mũi sáng sủa sạch sẽ, thằng Phang đang mặc trên người một bộ quần din áo pun hợp thời trang khôn tả. Chân nó mang đôi giày thể thao  Adidas trắng  tinh, phảng phất mùi  vải thơm phức, có lẽ mới lấy từ trong hộp ra. Rõ là một cậu thanh niên lịch sự, khỏe khoắn, điệu đàng. Nó đứng im, nhìn Thụy như chờ đợi.
Thụy  vừa  thoạt thấy bạn  đã  trợn mắt, la to:
- Ô.. hô.. , chu …!
Môi Thụy còn đang chu ra, không kịp phát  âm chữ “choa!“ thì Kiên quay ngoắt  người, nhảy phắt lên yên xe, vù một cái, thằng nhỏ biến mất.
Chả hiểu ra làm sao!???
Thằng này nó làm sao đây ta?
Sao tự nhiên nó sang trọng đột xuất vậy ta?
Chú thím nó trúng số?
Hay là nó bắt được tiền?
Hay là nó buôn bán ma tuý?
Thụy  cứ để nguyên đôi mắt to tròn nhìn, mỏ vẫn chu mãi mà không choa được, mà có choa thì chắc cứ há toác ra  hoài, không thu miệng lại được.
Dồn dập đủ thứ “hay là“ rồi vẫn chưa hiểu tại sao Kiên xuất hiện như thế trước nhà Thụy. Để làm gì cơ chứ? Thụy thần người, vừa đi vào nhà vừa  suy nghĩ  tới nỗi  trán  va vào cạnh cửa đau điếng, mới  biết mà đưa tay lên xoa.
A, khó khăn gì! Ngay lập tức, Thụy mò vào xóm nhà Kiên. Phải tìm gặp tận nơi thôi. Có lẽ giờ đây căn nhà tồi tàn  đó đã biến thành một biệt thự sang trọng, đèn nến thắp sáng trưng. Có lẽ chú thím Kiên đã trở thành một cặp ông hoàng bà chúa, áo choàng đỏ viền vàng, tay đeo nhẫn nạm ngọc. Có lẽ  mấy cây dâm bụt đã ra hoa bằng bạch kim. Có lẽ mấy cái vỏ xe, ruột xe đã biến  thành vòng  mã não, vương miện  kim cương hết rồi.
Thế còn Vân? Vân ơi, bạn  thì sao?
Có lẽ bạn đang mặc một chiếc váy xòe của công chúa bằng voan màu xanh chứ? hay hồng? Có gắn kim tuyến lấp lánh và một chiếc nơ xinh đằng sau lưng chứ?
Mái tóc dài và khô  của bạn  giờ chắc  đã được gội chải  sạch sẽ và tết bím, thắt băng đô xinh xắn lắm chứ?  Mình vừa nhìn thấy ….. thằng anh công tử của nhà bạn đấy.
Xem nào! Như  đang tham gia vào một trò chơi trốn tìm bí ẩn, Thụy háo hức  bổ nhào vào con hẻm nhà Kiên. Tiệm  tạp hoá đây nhưng hôm nay không thấy chú thím Kiên  và  cái máy bơm xe. Cuối đường đây rồi, quẹo   phải.
Ô! Nhà đóng cửa, khóa  trái bên ngoài.
Thua rồi! Thụy thất vọng dừng  lại, đứng thở hổn hển  trước nhà Kiên sau  hơn mười phút chạy bộ.
Vẫn căn nhà xưa cũ mục nát.
Chẳng phải nơi đây vừa phóng ra một thằng con trai ăn vận rất Tây, rất mới  đó sao?
Nó đâu rồi?
Cả nhà nó đi đâu rồi?
Chắc chắn Vân cũng phải mặc đẹp như  Kiên, chứ chẳng lẽ  nhà có hai anh em, anh diện đồ mới, em vẫn mặc đồ bộ cũ mèm sao?
Chắc chắn bộ đồ Vân đang mặc, váy đầm chẳng hạn, phải mới tinh, và như thế sẽ phải đẹp hơn các áo của Thụy.
Anh em nó diện để đi đâu nhỉ?
Thụy đâm tức tối, lủi thủi  ra về. Trước sau vẫn chẳng hiểu ra làm sao cả !!!!!
Nhưng tại sao lại phải theo dõi, tìm hiểu anh em thằng Kiên làm gì? Kệ chúng nó. Nếu như chú thím chúng nó bỗng dưng giàu có, bỗng dưng nên sang cả thì mình mừng cho chúng nó chứ có gì đâu!
Thụy nghĩ vậy rồi yên lòng.
Suốt thời gian qua, Thụy mất nhiều thời giờ về anh em nhà này.
Ngày mai đi học, gặp nhau sẽ biết thôi mà.
Bây giờ ta lại trở về với ta.
Chuẩn bị bài vở thôi nào.
Giáo lý nữa  chứ.
Thụy giữ sự thinh lặng suy tư  đang khi phụ mẹ chuẩn bị bữa cơm trưa, khiến mẹ nó lấy làm  ngạc nhiên, tưởng  Thụy có chuyện gì, nhưng bà không hỏi, bà muốn tự con gái thổ lộ, một khi nó tự nói ra nó sẽ thật lòng. Cái tuổi này chúng nó vậy đấy! Lúc thì cười đùa hồn nhiên, phá phách ầm ĩ, lúc thì  cả ngày cạy miệng không nói nửa lời. Con Thụy dạo này lười đi chùa lắm. Mẹ Thụy muốn trách Thụy đôi điều nhưng nghĩ mãi không ra vì Thụy cứ chăm học và học giỏi. Suốt ngày chỉ quanh quẩn bên cái bàn học, hí hoáy vẽ vời hoặc siêng năng thì làm việc nhà, không thì lăn ra ngủ. Thế thôi được rồi, chứ chả lẽ ông già bà cả lên chùa cứ bắt phải có con mình  nó lẽo đẽo theo sau à? Túi xách đựng quyển Kinh, bộ áo, cái quạt giấy, cái kính, thì đeo lên vai mà đi, đâu cần con cái đi làm tiểu đồng ngọc nữ như  ngày xưa nữa. Thời buổi này chúng nó đi chùa ấy à, là phải đi với bạn này, đi cả đám cơ, mới vui. Kinh kệ gì, chúng nó lên chùa mà miệng chí cha chí choét, mò vào tận sân trong mà  trêu ghẹo các  thầy, các cô thì có. Mà các thầy các cô bây giờ cũng lạ, gặp lũ học sinh, sinh viên trẻ trung lên là vui tươi, hớn hở đón tiếp chúng như bạn bè chứ cũng chẳng phân biệt tu tục gì cả. Có những thầy, những ni cô trẻ, độ tuổi sinh viên, nói tiếng Anh với  tăng ni Phật tử ngoại quốc  nghe  ro ro, giỏi ra phết! Nghe đâu bây giờ đi tu cũng học tới cử nhân, tiến sĩ, bác sĩ mới … ngưng  đấy. Mà học gì chứ học làm bác sĩ thì nên quá đi, ni sư  trong chùa khỏi phải đi nhà thương, lại có nghề  chuyên môn cứu nhân độ thế. Văn minh là bằng cấp, trừ phi bằng giả. Thế cho nên, bậc làm cha mẹ cũng phải cố gắng theo thời, không nên để con cái nó cho rằng  mình cổ hủ quá! Riêng mẹ Thụy, thiếu điều bà còn nhận xét con gái mình  có phần quê quê. Co ro, củ rủ cù ru suốt ngày ở trong nhà, chả biết đua đòi ăn chơi như chúng bạn đồng trang lứa. Có thể bà sẽ bảo con gái, con không đi với mẹ thì rủ bạn bè đi. Nhớ ngày Rằm lên chùa cầu siêu cho Ông Bà.
Mẹ Thụy đã không nhìn thấy cuốn Kinh Nguyeän  bé bé trên bàn Thụy, Thụy để phía dưới mấy tập vở. Nếu trông thấy và nếu bà biết Thụy đang theo học khóa Giáo Lý nhập môn, không biết bà sẽ nghĩ sao đây? Con cái thế đấy! Đời nó, nó xoay cái rụp, bố mẹ cứ là vã! Khoå thaân  các bậc phụ huynh!  Nhưng bố ơi, mẹ ơi, cứ để cho tuổi trẻ chúng nó  thực hiện điều chúng muốn. Chiến đấu phải xông lên. Ngựa non không háu đá sao dám phóng, dám  phi? Tuy vậy, Thụy không hùng hổ với đời như thế đâu. Thụy lành lắm! Thụy chỉ là một hạt mầm nhỏ bé, muốn vươn lên, xòe cánh ra, hướng về phía mặt trời, múa một vũ khúc xinh xinh . ..
Tới tối, sau khi cả nhà đã ăn cơm xong, Thụy vừa ngồi vào bàn học thì  có tiếng mẹ  ơi ới từ ngoài cổng. Mẹ vừa đi vào nhà vừa bảo:
-  Anh em nhà  Vân đến tìm con đấy. Con mời bạn vào nhà chơi.
Không rủ nhé! Thế là các   ngươi tự nộp mạng cho ta. Bõ công sáng nay ta chạy bộ vào nhà các  ngươi mệt muốn chết. Thụy bật dậy  như chiếc ghế  có lò xo. Nó ngó ào ra ngoài cửa nhưng trời đen quá, đèn trong hẻm chưa bật, không nhìn thấy gì. À, thấy cánh tay bó bột trắng hếu của Vân rồi. Hai  anh em nó đi theo mẹ Thụy, đã vào tới trước cửa nhà. Vân Trần lên tiếng trước:
- Chào Thụy. Rồi nó cười hí hí.
Tiếng nói vui tươi và giọng cười nhí nhảnh lạ.
A, Vân mới cắt tóc ngắn, kiểu này coi gọn gàng và bỏ được phần đuôi tóc bị cháy vàng khô xấu xí của  nó.  Không biết ai đã cố vấn cho nó mà hay thế?
Thụy ngỡ ngàng trước y phục của hai bạn. Vân vẫn ăn vận bình thường (đồ bộ, vải cô – tông, hoa quê mùa, màu vàng ố, cổ áo sờn viền), Kiên  mặc chiếc áo  thun sọc xanh đã cũ, hôm Thụy  đến, thấy Kiên mặc ở nhà.(Bộ đồ thời trang sáng nay đâu rồi?).
Thụy cười đáp lại và nhìn  cả hai người, xã giao ngượng nghịu:
- Kiên,Vân vô chơi.
Cả ba cô cậu không hẹn mà cùng đớ người ra,  chẳng biết nói năng gì  khi  đã ngồi vào  ghế. Thẹn nhất có lẽ là Kiên, vì hồi sáng Kiên đã  gây bất ngờ cho Thụy. Nó ngồi im re, không ngó lơ, cũng không cười mỉm, cười xòe chi cả, như một ông khách già.
Thụy tròn mắt ngó hai bạn. Kỳ ta! Tới nhà người ta để ngồi căng cơ, cứng khớp như vậy đó hả? Ông kia, hồi sáng ông làm cái trò gì vậy? Ý ông là sao? Ông muốn nói gì nói đi chứ!
Lúc này Kiên  mở miệng nói thật:
- Xin lỗi nghe, hồi sáng tôi tính chào bạn mà bỗng dưng …
Thụy nín thở lắng nghe. Kiên chợt ngưng lời.
Vân ngẩn người, nhìn Thụy rồi nhìn Kiên. Ánh mắt hồn nhiên của Vân chứng tỏ Vân  không biết chuyện sáng nay rồi. Bây giờ thì Thụy nhắm chừng chuyện  đó quan trọng lắm cho nên Kiên phải tới tận nhà Thụy trình bày. Thụy hối:
- Nói đi.
Kiên chợt phì cười:
- Thì  lúc đó tôi đau bụng chứ sao.
Hai đứa con gái cùng buột miệng:
-  Dzô dziên! Rồi sao?
Kiên phân trần:
-  Đau quặn luôn. Phải chạy về nhà ngay lập tức. Bể kế hoạch.
Rồi nó nghiêm nét mặt trình bày tiếp, rất ư … dài dòng:
- Cái vô duyên của tôi làm tôi không thể mời bạn đi ăn sáng một bữa với  tụi tôi, cho nên  bây giờ mình đi uống nước nhé.
Cha! Bữa nay Kiên Phang ga lăng ghê. Thụy vui vẻ nhận lời ngay. Nó biết anh em Kiên đã  đón nhận  tình cảm, sự tốt bụng và thiện chí làm quen của Thụy cho nên chúng mới  cởi mở  thật lòng như vậy, chứ có bao giờ Kiên nói năng với ai được một lời tử tế đâu.  Biệt danh Kiên Phang mà lị!
Khi Thụy xin phép đi, mẹ dúi vào tay Thụy hai tờ giấy bạc, dặn dò. Thụy cũng có ý định  trả tiền chứ không để hai bạn ấy chi.
Cả ba kéo nhau vào một quán nước gần nhà Thụy. Nơi đây có món sinh tố Mít ngậy tuyệt vời.  Vân vẫn đeo toòng teng  trên cổ sợi dây băng có tác dụng nâng  cánh tay bó bột  trắng, to, tròn và cứng ngắc, khi ngồi xuống phải lưu ý, sao cho cánh tay bó bột nằm gọn trước ngực, trên hai đùi, trong lòng mình, để yên như vậy cho khỏi đụng chạm. Trông thì vướng và khổ nhưng Vân bảo bó bột  vào là không đau nữa, có đau cũng quên cả đau vì  lúc này  Vân rất vui. Dĩ nhiên! Ngồi trước một ly  trà sữa thập cẩm phong  phú, trong một nhà hàng  giải khát đầy màu sắc  sặc sỡ, ánh sáng lung linh, âm nhạc rộn ràng không vui sao được. Không gian hỗ trợ  cho  mấy cô cậu có thể nói chuyện thoải mái  hơn. Xen lẫn  trong điệu nhạc  trẻ trung xập xình, tiếng Thụy hỏi dò:
- Hình như  ông Kiên hôm nay cũng có điều gì vui bất thường phải không?
- Tôi vẫn vậy. Kiên  trả lời tỉnh bơ.
-  Khéo biện hộ quá ha! Mọi khi ông làm tôi đâu dám nói chuyện với ông. Í, mọi người sợ ông luôn.
- Tôi sao?
- Ông hay …phang.
- Phang ai?
- A.. tất cả những ai đó …
Kiên chợt hỏi:
- Phang là gì?
Làm Thụy ú ớ. Thụy quen cái biệt hiệu bạn bè đặt cho Kiên, nhưng chưa bao giờ Thụy suy nghĩ về nó nên nhấm nhẳng:
- Là nói những lời làm người khác có cảm giác như  bị ông … đập đó.
- Vậy ha? Tôi … có phang Thụy hồi nào không?
-  Tôi nói Kiên hay bất bình với người khác.
-  Đúng vậy ha?
Trời trời! Nói chuyện giã gừng với thằng này mệt quá hà. Nó cứ làm mình phải suy nghĩ, phải đắn đo. Nói gì nó cũng trả miếng được. Con trai gì mà đanh đá quá, chả bù cho cô em  hiền lành chỉ biết ngồi cười. Vân đã uống hết một ly trà sữa. Nó ngồi yên quan sát người chung quanh. Giờ này quán đông. Nhiều thanh niên, thiếu nữ nhưng đa số là học sinh  trung học  như bọn Thụy. Tất cả đều ăn vận  theo mốt, gọn gàng, trẻ trung, thoải mái và tính cách, thay cho những bộ đồng phục nghiêm chỉnh, nhàm chán phải mặc vào ban ngày khi đến trường. Bất chợt, Thụy để mắt liếc nhanh vào bộ đồ anh em Kiên mặc trên người, rồi chạnh lòng. Thụy muốn làm gì cho hai bạn nghèo. Thụy quý mến họ và thật lòng muốn giúp đỡ họ, cho dù Thụy không phải con nhà giàu, nhưng nếu xin  bố mẹ hỗ trợ chuyện này chắc chắn  bố mẹ đồng ý.
Thụy đứng lên, đi về phía tủ kính trưng bày hàng, chỉ trỏ, gọi thêm bánh ngọt và kem. Hôm nay Thụy mời.  Kiên thấy vậy  thản nhiên, tỉnh rụi.
Trở lại ghế ngồi, Thụy hỏi thẳng:
- Hồi sáng  ông đi đâu mặc đồ xịn vậy?
Đáng lẽ nó đặt câu hỏi như vầy: Hồi sáng sao ông  sang đột xuất vậy? cơ, nhưng kịp nhận ra kiểu hỏi đó có vẻ xúc phạm thằng  Phang, nên sửa lại. Kiên bị hỏi bất chợt về một chuyện tưởng đã được Thụy cho … chìm vào quá khứ  quên lãng, mặt đỏ lên, ấp úng:
- Ờ, thì …
Vân  nhìn Kiên dò  ý. Nó ướm lời:
- Nói nghe?
Kiên hơi cúi đầu nhìn xuống,  im lặng.
Vân  kéo lấy bàn tay trắng trẻo của Thụy về phía mình, nắm lấy, ân cần, lúc lắc, rồi nhỏ nhẹ tiết lộ:
- Thụy à. Tụi này tạm biệt Thụy nhé.
Thụy như  ù tai, cố lắng nghe, mặc dù nhạc trong quán lúc này không mở lớn, mặc dù Vân đang ngồi kế bên Thụy,  ghé sát vào mái tóc mỏng buông lơi của Thụy mà nói.
- Tụi này tạm biệt Thụy nhé.
Đây đâu như một thông tin lạ à nghen. Nó nhìn thẳng vào con Vân, như đợi con nhỏ nói thêm gì đó cho rõ vấn đề hơn. Vân tâm tình:
- Hồi sáng nay gia đình mình đi ăn điểm tâm lần cuối tại Sài Gòn. Hai đứa cứ buồn buồn  nên thím bảo ăn mặc đẹp đi cho vui đó.
Sao lại lần cuối?  Gia đình hai bạn đi đâu?
Cả Kiên và Vân đều hiểu ánh mắt của Thụy  lúc bấy giờ  là để  đặt  những câu hỏi như vậy. Kiên  lúc này mới thật lòng  tâm sự, cũng là thông báo cho Thụy biết ngày mai, ngày mai đây thôi, gia đình nó gồm chú thím nó, nó và con Vân sẽ đi  Mỹ. Đi theo diện của chú nó, định cư luôn bên đó. Chào Thụy. Thụy ở lại học giỏi, mai mốt tụi này về chơi. Bây giờ qua chắc phải học lại một niên khóa, thua Thụy rồi. Chúc Thụy luôn vui. Hai anh em chúng  kể lể nhiều nữa, cứ rủ rỉ rù rì bên tai, Thụy như mụ mị đi, không nghĩ đây là sự thật xảy ra cho Kiên và Vân. Đang khi Thụy chuẩn bị sắp đặt trong đầu một kế hoạch giúp đỡ anh em nhà Kiên sao cho họ có điều kiện về vật chất, về thời gian để cuộc sống được dễ chịu hơn, đỡ khổ hơn, tinh thần họ được vui hơn , hòa đồng với các bạn trong lớp hơn,  thì thực tế, họ đang lên đường  đi tới một  xứ sở văn minh,  đầy đủ nhất  thế giới. Ôi trời,
Vân vui tít lên kìa! Kiên oai hẳn ra. Các bạn ngon lành hơn tôi rồi đó nghen. Thụy bỗng thấy ghen, đâm ra trách móc bạn. Mai đi mà bây giờ mới nói tôi. Thụy ngồi lì, mắt cứ chằm chằm nhìn đi đâu, trong đầu hiện ra cảnh hai anh em Kiên ăn mặc đẹp (Kiên bận bộ đồ hồi sáng, Vân lòe xòe chiếc áo đầm đã được … thiết kế trong tưởng tượng của Thụy), bước xuống  taxi, đẩy va li  tiến vào phi trường Tân Sơn Nhất, rồi vẫy tay, rồi biến mất sau phòng kính cách ly …. vui tươi, hớn hở ….
Đang khi Thụy còn rơi vào cơn mộng du về  một tương lai  chắc chắn, sáng lạn và gần xịt của hai anh em Kiên, thì Kiên đứng lên thanh toán tiền nước tại quầy thu ngân.
Vân thấy tội cho bạn, thấy Thụy buồn ra mặt  nó cũng đâu có vui gì! Vân kéo Thụy về thực tế, khiến Thụy giật mình, vội vàng đứng lên, thò tay vào túi  áo. Vân trì lại:
- Thụy à, ông Kiên trả rồi.
Thế là mọi toan tính của Thụy đều bị hố.
Thụy tức cái gì mà muốn khóc.
Không biết nên tức cái gì!
Anh em Kiên đâu có làm gì lỗi với Thụy đâu nhỉ!
Họ tốt đấy chứ, và  họ quý  mến riêng Thụy đấy chứ! Họ xứng đáng với lộc ông Trời cho đấy chứ!
Rồi họ sẽ học giỏi với bằng cấp này bằng cấp nọ  từ trường Mỹ; rồi học sẽ giàu sang (ngay lúc này đã có tiền khao mình rồi đấy!), rồi họ sẽ  về nước  với cái mác Việt kiều ai chả mơ.
Thôi! Được rồi, thế là từ nay mình không phải lo cho họ nữa.  Hồi nào giờ là mình  lo họ phải nghèo khổ này, tự ti mặc cảm này, buồn bã  này, sống cách biệt quá  đâm ra lập dị này, điên  khùng  hay  phang  này, quần áo hai anh em thấy mà … gớm này …
Ui cha! Bỗng chốc Thụy trở nên một mụ phù thủy cay nghiệt, ghen tức … và giả dối. Mụ thiết tha:
- Chúc Kiên,Vân  bay bình an nhé. Ráng học giỏi. Mong sớm gặp lại.
Thêm vài  lời tạm biệt xã giao  nữa, trời đã tối lắm rồi,  một  cơn gió hơi se lạnh ngang qua, Thụy chia tay Kiên và Vân, lòng lạnh băng.
Một nửa vòng trái đất xa lắc xa lơ, không tưởng tượng nổi, sẽ chia cắt mối tình bạn bè thời  hoa niên  đẹp đẽ mới chớm này. Thụy không thể biết  được trái tim người ra đi ủ rũ đến đâu đâu … Ước sao ngày trở về còn nguyên vẹn chân tình tươi thắm, Kiên bâng quơ  suy nghĩ vậy. Biết ra sao ngày sau!
Vân Trần vô ưu nhất, chỉ chăm chăm  nghĩ về mấy bộ đồ thím nó mới sắm cho, đi Mỹ phải mặc đồ mới chớ! Mai ra sân bay mình mặc quần jean, áo thun body cho tiện. Ngồi trên máy bay lâu chắc mệt lắm! Bởi vậy, thím nói Vân  mấy ngày trước đi tiệm cắt tóc ngắn cho rồi.
Thím mua cái áo khoác  cho mình đắt gớm, ngốn gấp đôi giá bộ đồ tây của ông Kiên  chứ ít gì. Vân tự hứa  qua Mỹ ráng học giỏi, lớn lên đi làm kiếm tiền trả ơn chú thím, sẽ không bao giờ bỏ chú thím vô nhà nuôi người già. Chú thím là ba má rồi, bởi đâu biết ba má là ai. Chỉ nghe chú keå, chuù nhỏ hơn ba hai tuổi, má bằng tuổi chú.  Ba má chết liền nhau, má chết  hồi má sinh đôi hai anh em, sau đó ba bị  tai nạn xe đụng chết luôn, biết vậy thôi. Nghĩ mình  có chú thím cũng còn sướng hơn mấy nhỏ mồ côi ở với  ông bà. Ông bà  chúng nó già, đâu có biết sửa xe, đâu  có tiền sắm quần áo cho mình đẹp như vầy  và chắc chắn tụi con nít mồ côi đâu có được một người  cha có lý lịch đi Mỹ như chú mình.
Vân lấy làm hài lòng với cuộc sống. Không như anh nó. Sinh đôi mà  Kiên,Vân không giống nhau, cả về ngoại hình lẫn tính cách.
Thụy chợt nhớ tới cuốn sách Đạo Chúa đang giữ của Kiên. Không biết Kiên cho Thụy luôn hay chỉ cho mượn đọc thôi? Theo lời Vân nói thì đâu phải của Kiên, vậy Kiên phải trả lại cho người  ta chứ? Không lẽ bây giờ phải chạy vô nhà đưa nó sao? Mất công quá đi. Mà mình đã đọc đâu! Thôi kệ, hễ nó nhớ thì nó đòi, không  đòi mình cứ giữ làm kỷ niệm. À mà không, làm …. con tin. Để coi, ông có … nhớ tôi không  ấy mà! Nghĩ vậy rồi Thụy lẳng lặng vào nhà, không màng trả nợ. Thụy kể mẹ nghe chuyện nãy giờ ở quán, mẹ Thụy mừng cho hai anh em nhà Phang lắm, trong giọng nói của bà  có pha đầy vẻ an tâm, hài lòng, làm như bà đang trút được một gánh nặng trời ơi. Quả thế, lúc mới biết được gia cảnh cùng túng của chú thím Kiên Vân, bà cảm thấy có lỗi nếu không có gì giúp đỡ họ, cho nên bà cứ băn khoăn tìm cách. Bây giờ nhẹ hẳn lòng.
Mẹ Thụy nhẹ lòng, còn Thụy, cũng nhẹ nhưng  sao chơi vơi, bồng bềnh, mênh mang lạ. Như vừa làm mất  một cái gì  rất thương yêu trong đời, như vừa tuột  rơi một món quà xinh xinh ra khỏi hai bàn tay bé bỏng. Thụy trở về với chiếc bàn học  thân quen hằng ngày. Có gợi nhớ, chỉ còn lại một cuốn sách cũ nho nhỏ  kia.
Cuốn sách ố vàng, từ ngoài bìa vào đến trong. Mấy góc cạnh sờn quăn, từng trang giấy nhăn nhúm như có lần bị  thấm nước. Cũng may, chữ nghĩa còn đọc được cả. Đây là  một cuốn kinh của  đạo  Chúa.
“KINH NGUYỆN“, hai chữ đó được in to trên mặt bìa mầu nâu  của cuốn sách, cổ kính, khô khan và nghiêm chỉnh. Bên trong gồm những bài kinh ngắn chỉ độ vài câu, ngắn hơn kinh Bát Nhã; những kinh dài hai, ba trang,  nhưng gồm những lời cầu ngắn: “Cầu cho chúng con”, hình thức đại khái giống như tập Kinh mẹ Thụy mang đi chùa (có ai đó bảo: “Đạo nào cũng là đạo”. Chắc vậy!), song sách Kinh Phật in chữ lớn hơn nhiều, lại  có xen lẫn hình Đức Thích Ca Mâu Ni, Phật Bà Quán Thế Âm Bồ Tát, in màu đẹp.
Thoáng vẻ biếng nhác, Thụy chưa muốn đọc cuốn kinh Công Giáo, nếu Kiên đòi, Thuïy seõ  trả ngay, nhưng thoâi, dù sao, đây cũng là một … kỷ niệm, Thụy muốn giữ  lại.
Còn bây giờ, học bài thôi. Thụy gạt những viên sỏi ngũ sắc dễ thương lăn lóc trên bàn học vào chiếc rổ con xinh xắn. Không nghịch nữa, để chú tâm vào bài học.
  
     8. LEN QUA SỎI ĐÁ
 Đất tốt dịu dàng, mềm mại, cho phép hạt mầm luồn lách, len lỏi, sao cho có thể ngóc đầu lên. Chẳng e ngại gì sỏi đá. Nhưng phải có sỏi đá  để thấy sức sống  nơi mầm. Mầm phải  tự uốn khúc, cong queo, để tìm  ngày ló ra, khoe mình  trong ánh mặt trời, bởi vì mầm lớn được  không chỉ nhờ vun tưới mà còn nhờ nắng vàng chói chang.
Lớp 10 B của Thụy từ  ngày vắng Kiên thấy yên hẳn ra, buồn hẳn ra. Anh em Kiên  vắng mặt ít lâu cả lớp mới biết lý do, vì Thụy không nói. Sơ Vang  biết, sơ Vang cuõng khoâng nói. Sơ Vang biết  cả chuyện  cuốn Kinh Nguyện  nhưng  sơ chẳng hỏi Thụy. Còn Thụy, tuần sau, trước lễ  Mông Triệu, Thụy sẽ được lãnh nhận bí tích Rửa tội. Không ngờ sự kín miệng, ít nói của Thụy  trong việc này trở  thành tai nạn. Ba không cho Thụy  theo đạo Công Giáo. Sát ngày rồi sao đây? Mẹ chẳng biết gì để bênh vực cho Thụy, cũng chẳng muốn Thụy thờ Chúa. Giờ chỉ còn biết tâm sự với một người duy nhất, đó là sơ Vang. Sơ luôn vui tươi, lạc quan  và tin tưởng. Sơ nói:
- Chị sẽ cầu nguyện cho em. Em cứ thành tâm tìm kiếm, Chúa sẽ gọi em theo đường  của Ngài.
Đường của Chúa là đường gì, Thụy không biết, vì thế Thụy nhất quyết tìm hiểu. Đôi lần chị sơ dẫn Thụy vào ngôi nhà nguyện của Dòng, cùng Thụy cầu nguyện, lòng Thụy khi ấy bằng yên lạ lùng. Đức Chúa Giêsu trên Thánh Giá luôn dịu dàng nhìn xuống, lắng nghe. Thụy có cảm giác Chúa luôn lo lắng  về Thụy. Chúa sợ Thụy  bỏ đi, sợ Thụy nhụt chí, sợ Thụy không dứt khoát. Thụy phải an ủi Chúa:
- Con sẽ cố gắng không nản lòng. Chúa yên tâm, con sẽ đi theo Chúa, miễn Chúa đừng bắt con hy sinh nhiều.
A, đã biết đi tu là hy sinh mà còn trả giá như vậy thật quá đáng!
Cũng như hạt mầm đòi đá sỏi phải tránh  lối cho nó đi qua.
Thế mà Chúa cũng chiều. Chúa thật dễ thương!
Chúa bảo người này hy sinh một chút, người kia hy sinh một chút cho em nó, vì em nó còn  nhỏ dại, chưa biết gì.Và thế là  các chị sơ thay phiên nhau vất vả ra đi. Chỉ trong mấy ngày, sơ Vang hai lần, sơ Giám Luật  một lần, đến tận nhà, gặp ba  mẹ Thụy, thuyết phục dài  cả miệng, khô  cả cổ, cuối cùng, ba Thụy la lên:
- Thôi, mấy bà muốn làm gì thì làm.
Cám ơn Chúa, các sơ ra về vui mừng hớn hở, như thợ gặt gom lúa  được mùa.
Không ngờ sơ Anê trông  lạnh lùng khó ưa  thế mà cũng giỏi hùng biện quá ta!  Thắng được ba Thụy không dễ vì ông nổi tiếng gia trưởng  và  quen tính tự tôn. Nhưng , ba  mẹ Thụy  không đi dự lễ  Nhập đạo của Thụy.
Một mình Thụy tiến lên cung thánh lãnh nhận bí tích  Thánh Tẩy. Nước được đổ trên đầu nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, rửa mọi tội lỗi cho con được trắng trong như chiếc áo con đang mặc đây, để con được tinh tuyền trước mặt Chúa và trước mặt cộng đoàn. Từ nay, con được gọi là Maria, con thuộc về Chúa, con là con Chúa, con được tham dự vào đời sống các vị thánh chiến đấu ở trần gian. Vị linh mục rửa tội cho Thụy giảng  những lời đẹp đẽ như thế.  Hôm ấy, các sơ trong Dòng chưng hoa  trắng  trên tòa Chúa thật đẹp  để  đón mừng  một con chiên mới  vào đoàn. Các sơ hát bài “Lòng trinh trong dâng Chúa, con vui sướng tiến lên…”. Đàn nhà thờ trổi vang, những giọng ca thiên thần êm dịu, thánh thót, thiết tha, nghe như âm thanh từ cõi trời nhẹ nhàng vang  vọng xuống.
Dạ  vâng, con tiến lên  gần Chúa đây. Đường theo Chúa thật  thênh thang  dễ chịu và tràn đầy tiếng hát. Con như chú chim non với đôi cánh trắng sẵn sàng vươn vút lên trời, không lo âu sợ hãi vì có Chúa làm chủ đời con. Thụy cầu nguyện như thế.
Các chị sơ ra khỏi nhà thờ chúc  mừng:
- Em Thụy có thể bay lên thiên đàng ngay lúc này được  đấy.
Và thế là Thụy bay .
Thụy từ biệt gia đình và chiếc bàn học thân thương để nhập Dòng.
Một thời gian cho nếp sống Thỉnh tu, nhẹ nhàng và dễ chịu . Các sơ lớp chị hướng dẫn nhiều điều cho các thỉnh sinh như Thụy làm quen với đời sống tu trì.
Sau đó, Thụy được gia nhập đội  Tập Tu rất sớm.
Cô được trao chiếc lúp màu trắng, từ nay che dấu mái tóc  thề  đen mượt  buông dài, hàm ý  cuộc đời cô từ nay cũng được ấp ủ  dưới bóng Chúa,  nơi mái nhà Chúa  để người thế gian chẳng còn ai  có thể nhìn thấy cô  được nữa.
Cô Tập mới chuyên cần, hăng say học hỏi, tìm hiểu Chúa, Đấng từ khi sinh ra, nay cô mới được nhận biết. Chẳng phải là cô đang đi theo một Đấng đó sao? Chính Đấng đó  đã từng là một  con người sống chết cho nghĩa Yêu Thương hoàn hảo  giữa mọi người  trần gian. Rồi, vì là Tình Yêu, là Toàn  Năng, Chúa đã sống lại và vẫn cứ mãi mãi ở cùng nhân loại. Cô đang đi theo một Con Người chứ không phải là giữ những chữ, tập những bài dạy cho người ta đi theo một thứ  vẫn được gọi là  “đạo”. Cô hiểu ra rằng không phải đạo nào cũng là … đạo. Không!  Không phải như mẹ cô nói!
Mỗi khi mở Kinh Thánh, cô hồi hộp, run rẩy, vui sướng  như được chạm vào Điều Thiêng Thánh nhất. Những Lời Chúa ban cho cô như bánh ngọt ngào, như rượu ngây ngất. Cô đón nhận tất cả với lòng thành, lòng  mến yêu. Sử dụng khả năng Tạo hoá ban cho, trong những giờ riêng tư rảnh rỗi, cô vẽ  rất nhiều bức  họa  chân dung Đấng cô thờ phượng. Mỗi bức  nói lên một thần thái, chất chứa một tâm tình. Năng khiếu của cô nổi bật, được chú ý và được  nâng đỡ, được phát triển. Ngoài việc dọn Lễ, dọn Chầu, học tập đạo đức, các Bề Trên giao cho cô một số những công tác thích hợp với khả năng của cô và cô thực hiện tốt đẹp. Càng ngày, nét vẽ của Thụy càng sắc sảo, nhất là những bức truyền thần. Trên nền giấy trắng, nét chì đen của nghệ nhân diễn tả rất  rõ rệt những chi tiết nhìn như thật. Như ảnh chụp.  Có sơ kia đi xa về, khi nhìn vào một bức họa  truyền thần Thụy vẽ chân dung bà sơ già ở phòng cuối nhà hưu dưỡng, đã ồ lên gọi đúng tên người trong tranh. Thụy  được gọi là họa sĩ rồi. Chị em xúm xít  đưa ảnh mẫu xin  cô vẽ  lớn, hoặc rón rén đề nghị cô vẽ chân dung. Em ơi, vẽ cho chị xin một bức để chuẩn bị ngày Chúa gọi chị về. Em ơi, chị không có tấm ảnh  nào rõ và đẹp  cả, em vẽ chị ngồi trước mặt em đây này. Em ơi, nhăn nhúm, xấu xí cũng được. Người nào cũng muốn có một tác phẩm cho mình nhưng chỉ sợ Bề trên la là quấy rầy Thụy. Cô có thể vẽ suốt ngày mà không chán, nhưng vì chương trình đã sắp đặt trong tu viện, cô phải dừng bút bất cứ lúc nào nghe tiếng chuông leng keng báo  đổi giờ. Cô có thể đắm đuối trong nghệ thuật không bao giờ  vơi để tưởng nghĩ đến Chúa, nhưng một chị tìm đến, một chị khác cậy nhờ, cô phải dừng tay để tiếp đón. Các vị bề trên trong dòng luôn đặt tinh thần đời sống chung lên cao và  nhắc nhở chị em nhiệt tình tuân giữ. Yêu Chúa, yêu người. Khẩu hiệu. Thụy cảm thấy khó khăn và áy náy khi có lúc làm một chị nào đó buồn vì không  hoàn thành được  cho chị ấy một  bức vẽ  theo yêu cầu. Các chị ơi, em đâu phải là thánh!
Thụy dần dần hiểu ra hy sinh là gì.
Một năm Tập tu, rồi hai năm trôi qua mau chóng. Giờ đây chị  Maria Thụy  đang chuẩn bị vào nhà Khấn. Cũng trong nhiệm kỳ  này, chị Mát-len La Vang  được  cắt đặt làm Giám đốc Khấn viện.  Bà Anê, sau nhiều năm công tác tại trường  học, nay trở về Dòng để nhận chức vụ Tổng Bề Trên theo luật bầu.
Chiếc lúp, trong ngày Khấn Lần đầu trọng đại của  Maria Thụy  đã  được thay bằng vải đen. Màu  lúp đen tuyền càng  làm nổi  bật ý nghĩa  cuộc đời xa lánh thế gian  của các nữ tu  lên tuyên khấn. Chiếc lúp che kín mái tóc, nền nã, nhu mì; tấm áo Dòng tượng trưng khiên mộc bảo vệ tâm hồn, thân xác các chị được an toàn trong trắng, xứng đáng làm của lễ  tận hiến cho Chúa, lại  như muốn dấu ẩn dùm cho các chị Dòng mọi hy sinh, chịu đựng, đau khổ  âm thầm. Chị Maria Thụy  được huấn dụ như vậy. Chị can đảm, nhất quyết đón nhận đời tu như ngày đầu chị  xin thưa con đi theo Chúa.
Năm nay không có tên chị Lụa trong danh sách khấn lại. Chị ấy khóc gần hết nước mắt. Ai cũng bảo,  người một tháng ốm hết hai mươi  ba ngày  thì làm sao tu được. Thôi, âu cũng là niềm an ủi cho chị ấy. Nào ai muốn  sức khỏe yếu  bao giờ! Miễn không phải vì lỗi này lỗi nọ là được rồi.
Lên nhà Khấn, chị Maria Thụy nhận công tác dạy vẽ cho một lớp năng khiếu mới được khai giảng trong dòng, dành cho tất cả những chị em nào yêu thích nghệ thuật hội họa. Rất đông người ghi danh vào học. Có những  em  Thỉnh tu  còn trẻ, lại có cả những sơ già  nhà hưu cũng háo hức xin cho được một tập giấy crô-ki, bút chì và  tẩy  để vào lớp.  Thật bất ngờ là chính  bà Tổng Bề trên và  sơ giám đốc Khấn viện cũng đến ghi tên xin học vẽ. Ai cũng thiết tha mong ước sẽ tự tay mình  vẽ được chân dung Chúa Giêsu, Đức Mẹ, thánh Giuse,  thiên thần Bổn mạng   v.v. … dù chỉ là “sao chép“ cũng thỏa lòng, nhưng trước hết, bởi đã qua quá trình thưởng thức sáng tác  của chị Maria, ai cũng tỏ  ra hoàn toàn tín nhiệm vào tài năng của họa sĩ bậc … thầy này mà rên xiết lên: ôi em  ơi, dạy cho chị vẽ với nào! Thế là sơ Thụy làm thầy. Lớp  học vẽ  sầm uất ngay từ buổi đầu, vui như Tết. Dĩ nhiên không phải ai cũng  mau chóng phóng bút một cách tài tình ngay được, nhưng sơ Thụy khích lệ một lời, chị em phấn khởi vẽ  và  dĩ nhiên, vẽ … lung tung. Qua buổi học đầu vẽ tự do, sau đó ai nấy vào chương trình ABC. Chuốt  bút như thế nào, căn giấy  ra sao, phải học cả. Rồi nhắm một mắt, nhìn bằng con mắt kia, đưa thẳng tay ra, đo khoảng cách  để đưa vào giấy nhé, bằng mấy phần ạ?  Vâng, đúng  rồi, cứ  thế nhé.  Ôi, sao méo thế! Ối, sao  tẩy rách cả giấy rồi này! v.v… Lúc đầu chỉ là những hình khối, những mẫu đơn giản  như lọ  hoa,  cái ly, cái bát, cái hộp giấy … Chao ôi, cả thầy lẫn trò đều  bận rộn và thích thú. Ai cũng hí hửng học để mong được thầy cho vào môn truyền thần. Các sơ mới bập bẹ mà cứ thích vẽ người (sao không vẽ ma? Vẽ người khó nhất trần đời).
Sơ Thụy vừa dạy vừa sáng tác. Hội họa trở thành  “bài sai” của sơ rồi. Ngoài những giờ kinh nguyện, sơ dành tất cả thời gian cho môn nghệ thuật này. Sơ phải thẩm định, sửa chữa và cộng tác vào nhiều bài tập của các chị em đã nộp.
Ngoài việc dạy vẽ cho chị em, sơ Thụy  được bề trên giao cho một công tác trường kỳ, đó là họa chân dung tất cả  các thành viên trong Dòng, từ lớn tới bé, từ già tới trẻ, từ  Khấn Trọn cho tới Khấn Tạm, tính theo  ngày, tháng, năm  sinh, để chuẩn bị cho một  cuộc triển lãm  vĩ đại  và đặc biệt của Dòng. Như vậy, người đầu tiên được ngồi làm mẫu vẽ là bà Niên Trưởng, sơ già Lucia Ro, chín mươi mốt tuổi, thuộc nhà hưu. Với chiếc lưng còng và cây gậy  ở bên, bà ngồi yên cho  sơ em vẽ. Bức  ảnh sống động vì khuôn mặt của một cụ bà đầy vết thời gian, nhăn nhúm, dúm dó, lại toát ra vẻ thanh thản, hồn nhiên như  trẻ thơ  bởi đời  tu vô tư  lự.
Bức thứ hai, người mẫu Têrêsa Cậy, tám mươi bảy tuổi, nhà hưu, ngồi xe lăn. Lúc đầu, bà Cậy cứ đòi móm cũng được, con cho bà cười. Nhưng bà chỉ  ngồi cười được mươi phút, kêu thôi không cười nữa, mỏi mồm rồi. Sơ Thụy sửa miệng bà thành nghiêm nghị, nhưng vẫn tươi. Các cụ móm mém  đến buồn cười,  nên trông thường tươi.
Bức thứ ba, rồi bức thứ tư, thứ năm …
Ngày qua ngày …
Sơ Thụy vẽ không thời hạn, tính đến nay đã hoàn tất được chân dung của gần hết các Vị Nữ tu trọng tuổi trong Dòng. Tên Thánh, tên thật và  năm sinh các Vị được ghi ngay dưới bức ảnh. Như di ảnh. Thật là một lưu niệm vô giá và là  niềm an ủi cho tuổi già  một đời  dâng hiến.
Đêm về, đôi mắt của sơ  Maria Thụy mệt mỏi vì công việc kéo dài suốt ngày không ngừng nghỉ. Có lần, sau một ngày dài miệt mài với công việc, trên đường đi về phòng riêng, sơ mệt mỏi  tới độ không lê nổi bước chân, ngã bổ nhào bổ nháo, phải lồm cồm bò dậy đi tiếp.
Nói về lớp vẽ, thấm thoát đã qua mấy lượt trưng bày tranh nội bộ. Những tác phẩm bài tập  có trình  độ, xuất sắc và tiến bước khổng lồ được thực hiện gần đây nhất là những bức truyền thần của vài học viên có năng khiếu rõ rệt. Cũng không ngờ, trong số đó có cả những tranh  do chính tay  bà Bề Trên  và giám đốc Tập viện  vẽ.
Bên ngoài đám đông học viên ngưỡng mộ môn họa hấp dẫn của sơ Maria, có một người. Người này không … thích  học vẽ.
Đó là sơ Thơm.
Sơ Thơm giỏi  nhạc, đàn  hay.
Sơ không cần học vẽ. Với lại sơ không có thì giờ để học thêm môn này. Từ khi còn học cùng lớp với sơ Thụy ở ngoài trường, sơ Thơm đã biết năng khiếu của bạn, nhưng đối với sơ, hội họa  thật mơ hồ, vô nguyên tắc, không bài bản như âm nhạc. Rõ ràng là  anh muốn vẽ thì cứ cầm bút lên mà vẽ, vẽ đi rồi bảo đấy là cái gì mà chả được. Picasso đấy!  Dĩ nhiên cũng có chủ đề thôi, nhưng hoàn toàn chủ quan nhé! Mắt mà anh bảo là mũi, thiên hạ cũng phải chịu  thôi.
Ở một bức họa nào đó có tên là “Giọt lệ”, nghĩa là phải vẽ nước chảy từ trong mắt ra, phải trong, mềm và ướt, thế mà nhìn vào đó, người ta chỉ thấy họa sĩ vẽ nhăng nhít toàn là những ô cửa vuông cứng và vô số những chi tiết sắc nhọn  chập vào nhau, với đầy những màu sắc kinh dị. Eo ôi! Ở âm nhạc của chúng tôi không hề! Có luật, “và cứ theo luật ấy thì“… anh phải học  chứ không thể tự nhiên đặt bút xuống ngoáy ngoáy mấy cái là ra một nhạc phẩm được. Học chết luôn ấy chứ. Đàn  nhà thờ đây cũng tập rền hàng tháng mới ra một tác phẩm của Bach, cuûa Handel. Có   đâu dễ như  vẽ!   Bởi! Người ta  bảo: Vẽ vời! là vậy.
Sơ Thơm nhận thấy có một số thành viên mê hội họa , chỉ sau một tháng học vẽ  đã tỏ ra bê trễ công tác hằng ngày. Vài chị  em  để quên quần áo bẩn trong chậu giặt cá nhân. Có người, sáng tinh mơ, nghe chuông dậy, trốn tập thể dục để  nhìn ngắm tác phẩm trên giấy của mình mới vẽ tối hôm qua còn chưa xong, không lẽ mới ngủ dậy, mồm miệng còn hôi đã lại cầm bút, mà không sửa chỗ này, lòng không yên. Thế thì làm sao chuẩn bị tinh thần tham dự thánh lễ? Dành cho Chúa cái gì nào?
Sơ  Thơm cũng hơi khó chịu khi thấy bề trên cứ phớt lờ mọi bất ổn trên, làm như ngài không thấy. Phải thấy chứ, vì nó rõ ràng cả ra đấy, bề dưới như mình còn thấy, huống hồ. Hay là chính ngài cũng mê vẽ quá đâm ra dễ dãi với các loại  tội phạm trên! Ôi, nếu quả thật thế thì  luật nhà chẳng còn ra cái thể thống gì nữa! Tuần nào họp mặt  giờ Trao Đổi, giờ Thông Tin cũng phải có đả động đến “tranh“ một tị. Ơ kìa! Đời sống  tu chứ có phải hội đồng của một cái ga-lơ-ri nào họp  baùo đâu, hay thật đấy! Rồi còn bày vẽ  ra (cái tính  ưa vẽ vời trong nhà “Ròng” chẳng hay ho gì đâu! Ố, mà đâu chả vậy!) nào hay ta bày tranh bán lấy tiền làm công tác xã hội, giúp trẻ em nghèo; nào hay ta tổ chức đấu giá tranh gây quỹ giúp người già cả, đói nghèo cơ nhỡ. Chị em Nước Hằng Sống nấu tiệc phục vụ, chúng ta vẽ … vời phục vụ, cũng tốt thôi! Cả tỉ việc cần tiền. Chị em  sáng tác nhiều vào, vẽ hăng lên!
Sơ Thơm giận lắm, giận từ Bề trên giận xuống.
Sơ không thèm liếc mắt vào cái phòng vẽ nhăng nhít ấy. Sơ không muốn nhìn thấy sơ Thụy. Từ khi khấn ra cái Thụy chưa phải di chuyển đi phục vụ ở bất cứ một nhà Nhánh nào. Quanh năm ngày tháng, chỉ ăn trắng, mặc trơn; suốt ngày mưa không đến chân, nắng không chạm đầu, chân tay lúc nào cũng sạch boong, cái chổi không phải đụng tới, chỉ việc đi đi lại lại trong phòng dạy người này, chỉ bảo người kia, lại còn được mọi người gọi là thầy. Sướng thế  chẳng chóng thì chầy cũng … hư thôi.
“Cái” Thụy  nó có  hai cái ô lớn! Sơ Thơm ngẫm nghĩ, bởi Mẹ Nhà và chị Giám đốc Tập tuy là Bề  trên, nhưng về nghề vẽ lại là … học trò của  nó, thân thiết với nó . Sẽ chẳng bao giờ nó phải vất vả thức khuya  dậy sớm, áo quần nhem nhuốc bùn lầy  cùng nông dân miền truyền giáo cày sâu cuốc bẫm hoặc nhịn đói nhịn khát,  vượt cả trăm cây số đến với người lương, người dân tộc. Sùi bọt mép ra mà giảng Lời Chúa. Lao vào nương vào ruộng, vào cả rừng cả kênh  mà truyền giáo. Cứ thử cắt hắn đi Sở xem! Ở  đấy, cho nghe cha Xứ mắng  mỏ, nhiếc móc, rủa sả xem có đủ nhân đức không, chứ ở nhà Mẹ  sướng đến tận lông chân, không bằng vua thì cũng phải như công chúa .
Quả thế, ai vất vả cho bằng sơ Thơm. Khấn ra là đi giúp  xứ thẳng, trừ tuần Phòng mỗi năm, sơ  không có một ngày nào thảnh thơi  trụ  ở nhà Chính. Sơ Thơm  đi xứ vị chi đã được  bảy năm rồi. Biết  bao  vất vả, cực nhọc sơ đã trải qua. Những năm học cấp Ba, sơ  phải tranh thủ thời giờ, vừa coi Thiếu  Nhi vừa đến trường học, bởi sơ đi tu từ khi còn bé.  Phải chi mình biết vẽ  ta! Sơ nhếch mép, ối! mà  thôi, không  ham! Thật tình có được bề trên làm hậu thuẫn cũng ngon , nhưng   thấy hèn sao á.
Và  thế là, trong nhà Dòng xảy ra một mối hiềm khích. Nhưng  sơ Thụy chẳng biết đến cái khoản chiến tranh này một tí gì, bởi sơ quá bận rộn với công việc. Dạo này, cứ trời chiều ngả bóng là sơ Thụy quáng gà, chẳng nhìn rõ cái gì, dù đã cắt kính mới. Và mỗi sáng, khi  thức dậy, đôi mắt họa sĩ đâm ra có .. ghèn. Thế mà công việc chẳng buông tha. Cái nghề vẽ truyền thần, ngoài năng khiếu  ra, nó còn đòi hỏi  người nghệ sĩ phải  có tính kiên nhẫn, chi li, tỉ mỉ, cẩn thận, chăm chút, bởi những đường nét tinh vi, sắc sảo hoặc mơ hồ, mờ ảo đều phải nằm trong sự diễn tả một vẻ đẹp có thật. Không bịa được. Có bịa cũng chỉ bịa  chi tiết phụ. Bạn phải vẽ cho  đúng đôi mắt trong chân dung này. Hơn thế nữa, bạn phải  diễn được thần thái  của đôi mắt ấy mới là thành công. Vì thế, thị giác của họa sĩ truyền thần quan trọng  nhất. Chả thế mà  báo  đăng  mấy chuyện  quá hay. Có chàng họa  sĩ mất cả hai tay, vẫn vẽ. Vẽ  bằng miệng. Có cô gái bẩm sinh đã chẳng có hai chi trên, vẫn vẽ. Vẽ bằng chân. Những nghệ sĩ này còn đôi mắt. Ta chưa thấy  người mù vẽ, đây là nói vẽ  chân dung, vẽ truyền thần. Dĩ nhiên, mắt không thấy  người mẫu, sao nhìn, sao  ngắm, sao căn, sao đo, sao vẽ, sao diễn tả được, trừ khi người mẫu cũng cùng cảnh ngộ khiếm thị giống người cầm bút. Thôi thế cũng được. Họ sẽ vẽ nhau bằng tình  cảm. Chuyện này mà có mới là hay nhất đấy.
Sơ Thụy cảm thấy  thị lực của mình càng ngày càng  kém dần, yếu dần. Đôi mắt sơ sao mau mệt mỏi quá. Một ngày dễ chừng sơ phải nhỏ thuốc đau mắt cả … trăm lần. Nói quá đấy nhưng cứ suốt ngày nhỏ, hơi tí nhỏ, chả trăm lần cũng chín chín. Sơ sợ sơ sớm phải  rời giá vẽ. Sơ cũng đã phải từ từ  giao việc  hướng dẫn lớp cho vài chị em có năng khiếu. Bất lực với chính bản thân rồi.
Một lần, khi ngắm bức chân dung đang được đặt họa trên giá, trong phòng Maria Thụy, chị Giám Đốc Tập Mát-len Vang  hốt hoảng la lên:
- Ngày thứ ba rồi đó sao em?  Thụy ơi, chị hồ nghi em  đang muốn thay đổi  phong cách vẽ  đấy.
- Sao cơ chị?
- Em không thấy sao? Linh tinh quá!
Chị Thụy  điềm nhiên lắng nghe:
- Chị nói sao, em chưa hiểu.
- Em ơi, chị không nhìn ra được những đường nét chính? Tất cả đều là phụ. Tất cả đều lem nhem.
Giống như một bản phác thảo cẩu thả. Dù chị Thụy cho biết đã vẽ từ  hai ngày trước. Thụy vẽ Thánh nữ Têrêsa  Hài đồng Giêsu ngày chưa vào tu, tóc búi cao nhìn nghiêng, diễn tả vẻ già dặn … giả vờ của một cô bé mới lớn, với chủ tâm làm tăng tuổi mình lên  để được nhận vào dòng.
Ngày hôm sau, chị Vang trở lại để ngắm bức  chân dung ấy. Đây không phải khuôn mặt thánh nữ Têrêsa rồi. Chưa bao giờ thánh Têrêsa Nhỏ  xinh xắn, đơn sơ, giản dị lại  “bị“ phác họa như thế này. Chưa bao giờ có ai dám vẽ  chân dung Chị thánh Têrêsa  theo phong cách cải tân  rắc rối, mù mờ, phức tạp, hỗn loạn cả.
Nghi ngờ, chị lại gần, nhìn  thẳng và sâu  vào đôi mắt  sơ họa sĩ  trẻ:
- Thụy có nhìn rõ chị không?
- Chị như trong sương.
Vừa nghe vậy, chị Vang ứa nước mắt:
- Em ơi, ngưng  vẽ thôi. Đi khám bệnh. Mắt em có vấn đề rồi.
- Em cũng  nghĩ vậy. Từ mấy tháng nay em không nhìn rõ sự vật.
Không chỉ thế, Thụy dấu bệnh. Lâu nay  đôi mắt  của  sô thường gây  nhức nhối và nóng ran.  Những biện pháp thể dục,  mát  xa không xoa dịu,  chaúng  eùp -pheâ.
Nhà Dòng vội vã sắp xếp để  chị Maria Thụy đi chữa mắt.
Một hồ sơ ảnh dày cộm, chụp xét nghiệm  đủ các thứ. Kết quả:  Giác mạc bị tổn thương nặng vì …. thuốc bào mòn.
Cần một ca mổ.
Có bác sĩ nói: khó phục hồi.
Có vị khác bảo: hy vọng.
Thụy là con cưng của Dòng,  phải lo cho Thụy chu đáo. Thế là  quyết định mổ.


   9. DÂNG ĐỜI  CÂY
Ca mổ là một thành công  lớn đối với các bác sĩ  vì  không làm cho não bộ bị tổn thương. Nhưng đối với bệnh nhân, thế là thất bại.
Thị lực của  nữ  tu họa sĩ chỉ còn 10 %.
Xuất viện, chị Maria Thụy không vẽ được nữa!
Chị dò dẫm tập bước đi chập chững, chầm chậm.
Lớp vẽ  đã trưởng thành và vẫn hoạt động, nhưng   cô giáo  đã ngưng phụ trách.
Chị đi vào đời tu kín. Kín bưng. Xung quanh chị  cứ là  mờ  mịt. Chị  lắng nghe, phỏng đoán, nhờ người kiểm chứng.
Chị nghe các sơ lớn tuổi đến an ủi, khích lệ.
Chị nghe các chị cùng lớp đến hỏi han, vỗ về.
Chị nghe các học viên lớp vẽ  kể chuyện thành quả học tập. Và chị nhớ cây bút chì.
Chị  muốn vẽ. Chắc chắn sẽ là vẽ  trong bóng  tối, với hồi ức. Chị nhớ lại tất cả các khuôn mặt chị đã từng gặp gỡ trong cuộc đời, tất cả những bức truyền thần chị đã thực hiện. Các đôi mắt  trên những chân dung ấy đang nhìn chị. Chị và họ nói chuyện với nhau bằng sự thầm lặng và tưởng tượng.
Hôm  ấy, một buổi  sáng khí trời thu hơi ẩm ướt. Nghe tiếng bước chân nhẹ qua  cửa phòng, chị Thụy ở trong  gọi vọng ra:
- Chị … Thơm.
Đúng là  tiếng chân chị Thơm. Một tiếng chân quen mà lạ, lạ mà quen vì chị Thơm chỉ mới trở về nhà Chính mấy tháng nay. Tiếng chân chẳng mấy khi gần gũi, nhưng không lẫn vào ai bởi tiếng lết đế  dép, tiếng  xoẹt áo chùng, một trong những  đặc .. trưng của mỗi sơ, từng sơ. Các sơ sống chung đều thuộc lòng … đặc điểm của nhau. Hai chị em Thơm và Thụy lại đã từng biết nhau từ khi còn học chung những năm Trung  học cơ mà! Chị Thơm ngại ngùng nhưng cũng phải bước vào:
- Chị đây. Thụy có nhìn  rõ không mà biết là chị?
- Không! Em chỉ nghe tiếng chân.
- Mắt em tệ thế ư?
- Vâng. Thấy mờ mờ chị ạ.
Chị Thơm  chăm chú nhìn thẳng vào đôi mắt  nom có vẻ bình thường của Thụy. Đôi mắt  đen nhánh còn nguyên nét thanh xuân, tinh khiết của tuổi trẻ nhưng hóa ra không còn ích lợi gì cho chủ nhân của nó nữa. Nó cứ trơ ra, lom lom mà không nhìn  rõ vật gì cả. Vậy mà  rồi, nó đã lay động được con tim chị. Chị thấy tội cho Thụy. Thụy còn trẻ. Ngay trong phút  chốc, chị Thơm nhớ lại tất cả những kỷ niệm chị em từng có với nhau, dù chỉ là ngắn ngủi. Chị Thơm chợt thấy thân thương với Thụy. chị Thơm thầm nghĩ: nếu có đánh đổi những thánh giá trong đời tu của chị để  lấy đôi mắt vô tri này thì không bao giờ Thơm chịu. Thế  ra mình còn hạnh phúc hơn Thụy đó sao? Chị  cầm nắm đôi tay cô em lớp sau, im lặng không nói. Chị không quen biểu lộ tình cảm, nhất là tình thương mến. Vất  vả, nhọc mệt, chịu đựng  với muôn vàn công việc trong sinh hoạt  nhà xứ đã nhào nặn chị thành một bức tượng cứng rắn, chai lì. Nhưng qua cái siết tay dịu dàng, Thụy cảm được tấm lòng  ấy. Sơ Thụy tâm sự cởi mở:
- Chị. Đôi khi em nghĩ chắc Chúa chỉ muốn em ở đời tu cho tới đây thôi. Em sợ mù thì không tu  được. Em nản và buồn quá!
Chị Thơm bóp nhẹ tay chị Thụy an ủi:
- Chị không nghĩ thế. Có nhiều cơ hội. Thứ nhất, là bề trên có thể tiếp tục cho Thụy đi chữa bệnh. Thứ hai, là em sẽ được cắt làm những công tác thích hợp với sức khỏe. Thứ ba là em có thể học chữ Braile như những người khiếm thị khác, họ vẫn làm việc tốt được cơ mà.
- Nhưng …
- Nhưng em muốn vẽ, phải không?
Thụy cười, nụ cười rất tươi vì  có được người hiểu lòng mình.
- Chị nghĩ Thụy vẫn có thể vẽ. Em lại vẽ đi nào!
Chị Thơm dành trọn buổi nói chuyện để khuyến khích Thụy. Tình thương hoán cải tất cả. Bây giờ thì chính chị Thơm lại là người đứng ra vận động các bề trên  lưu tâm đến bệnh nhân Thụy để giúp đỡ cô vượt qua khó khăn thử thách. Chẳng ai có thể thay đổi lòng dạ con người ta, mà là chính Ơn Chúa, chính Chúa.
Chị Thơm chuẩn bị, sắp xếp chì, than, giấy, màu, cọ, nước, tất cả  theo một thứ tự cố định và có giao ước với họa sĩ.  Mọi vật dụng cho việc vẽ tranh được đặt vào chỗ của nó, ngay tầm tay chị Thụy.
Nhờ sự  giúp đỡ của bề trên, của chị Thơm, chị Thụy vẽ lại. Chị  không vẽ truyền thần được nữa, nhưng chị cứ vẽ với tất cả niềm đam mê như  cũ. Màu nước, màu Acrylic, lụa, sơn dầu, phấn tiên, sơ được phép bề trên chiều chuộng và cho  xử dụng tất cả. Lờ mờ trên mặt giấy, mặt toan, mặt vải, chị vẽ phong cảnh, vẽ người, vẽ những ý tưởng tận hiến. Và rồi chị lại có những Chúa Giêsu, Đức Mẹ, thiên thần, các Thánh, chị Nữ Tu v.v. . Mỗi bức tranh lại có những sắc thái, tinh thần khác với những  tác phẩm trước, chị Thơm nói vậy. Bây giờ  cảm hứng của sơ Thụy còn hướng về  những hình ảnh được  diễn tả trong Thánh Vịnh.
Sơ vẽ  “Đồng cỏ xanh” với đàn chiên theo một Chúa chiên, trong đó:
Người đưa tôi tới dòng nước trong lành
     và bổ sức cho tôi “. (Tv. 22)
Sơ vẽ  “Cửa đền”, trong đó có hình ảnh Đức Vua vinh hiển đang ngự vào:
Đức Vua vinh hiển đó là ai?
     Là Đức Chúa mạnh mẽ oai hùng
     Đức Chúa oai hùng khi xuất trận“ (Tv 23)
Sơ vẽ  “Con nai khát“ trong Thánh vịnh 41, “Mùa gặt“ của Thánh vịnh 125, “Mỏi mòn“ diễn tả tình cảnh khốn khổ của vua Đa vít khi sáng tác Thánh vịnh 68 ..v..v..
Một vài bức  tranh mới  được vẽ trong thời gian sau này được mẹ Bề Trên và chị Vang khen nức nở vì độc đáo với những đường nét mới lạ, cách dùng màu, pha màu không giống ai. Dĩ nhiên! Người ta  nhận định: một người mù sẽ nhìn  thế giới, cách khác một người sáng. Sơ Thụy được nâng đỡ để tiếp tục làm việc. Dĩ nhiên, thời gian đầu vẽ lại , rất nhiều bản vẽ  đã  bị tác giả vứt bỏ không  thương  tiếc,  nhưng sơ Thơm thì  tiếc. Sơ gom tất cả lại, bỏ vào chiếc thùng giấy, ngoài ghi một chữ: Lưu.
Sơ Thụy cứ cố gắng, rồi lại nản lòng. Chiến đấu rồi lại  nhụt chí. Nháo nhào vào vẽ, rồi có lúc buông xuôi, vo ném tất cả. Bởi vì sơ không  nhìn thấy được thành quả việc mình làm.
Sơ đã phải trải qua một thời gian dài dường như khủng hoảng và thất vọng  tột cùng. Sơ cho rằng đây chính là đòi hỏi cao giá nhất của đời tu. Sơ cho rằng thánh giá của sơ nặng quá đỗi, sơ phải từ bỏ, phải hy sinh quá sức mình. Nhiều đêm sơ lặng lẽ khóc.
Chẳng bề trên nào đuổi một chị em vương bệnh nặng ra khỏi nhà Dòng. Thế mà lại tủi thân.Chẳng ai chê  bai tác phẩm của sơ Thụy bây giờ không còn nghệ  thuật nữa. Thế mà lại đau khổ. Nghe những lời khen thưởng và khích lệ của bề trên và chị em, sơ không tin, nhưng rồi  sau đó, điều sơ xác tín duy nhất là  không bề trên, không chị em nào lại đi nói dối, khen dối sơ cả! Đi tu là  phải sống thành thật.
Nhưng lại có những lúc sơ cảm thấy mình vô dụng cho nhà dòng. Đấy chính là những ý tưởng nặng nề, hành hạ sơ nhiều nhất.
Cứ như thế mà  sơ cảm thấy bối rối quá, tới  nỗi  đâm ra lẩn thẩn, cho rằng hình như lỗi  tại mình trước đây mải mê vẽ, thay vì để  giờ cầu nguyện, nói chuyện với Chúa, thì lại dành thời gian cho nghề vẽ  nhiều quá, cho nên Chúa buồn, Chúa không bằng lòng. Chúa … phạt. Trong Cựu ước,  caùc ngoân söù đã chẳng tiết lộ Chuùa là  Vị Thần hay ghen  đó sao!
Sơ không biết phải làm sao cho Chúa vui.
Mẹ  Anê  bảo:
- Thụy hãy xin, điều gì thay đổi được thì xin Chúa thay đổi. Điều gì không thay đổi được thì xin Chúa cho con biết đón nhận.
Và chị Thụy nhẩm lời nguyện ấy trong lòng rền rĩ ngày đêm. Trong đau khổ, chị xin  vâng theo Thánh Ý Chúa.
Trên đĩa thánh của chị Thụy, chữ Hy Sinh  đang rỉ máu.
Kể ra, giáo hội có được một nữ tu trẻ có tinh thần như sơ Maria Thụy thế này thật đáng quý.
Chẳng phải  ai đi tu cũng yêu mến Chúa tận tình, tận hiến cho Chúa cả. Nhiều vị đi dần  đến sự  sa đà, để rồi về cuối đời, sống không hơn không kém một miếng giẻ rách. Tự xét thôi!

   10.  MƯA BÃO 
Một vài bác sĩ quen biết không cải thiện được bệnh tình đôi mắt của sơ Thụy. Ba mẹ của sơ bàn với nhà dòng để gia đình đưa sơ đi ngoại quốc chữa trị. Họ muốn bán căn nhà đang ở, lấy tiền chữa bệnh cho con gái. Ban cố vấn nhà Dòng  bàn tính với tất cả sự e dè, cẩn trọng vì chưa bao giờ các ngài gặp phải trường hợp để người tận hiến phải lụy thuộc gia đình, hay nói cách khác, để cho gia đình người tu sĩ phải chịu trách nhiệm về chị ấy. Cuối cùng, các Bề trên quyết định xin phụ huynh sơ Thụy hợp tác với Quỹ nhà Dòng năm mươi phần trăm chi phí vào việc này. Xem  thế  để  thấy đây là  một trường hợp được yêu chiều, đặc cách biết bao và việc chữa mắt  cho sơ Thụy không phải là chuyện nhỏ.
Về phần sơ Thụy, sau khi nghe biết dự định của Dòng và cha mẹ chị như vậy, chị đi vào im lặng, ở đó, chị không vẽ nữa mà  dành trọn thời gian để cầu nguyện  và suy nghĩ. Thật vậy, chị không thể không suy nghĩ, bởi thương cha, thương mẹ, bởi từ bao ngày tháng nay, nhà Dòng  đã phải vất vả lo lắng, tốn kém thời giờ, tiền của vì chị rồi. Chị rất buồn. Chị không muốn trở nên gánh nặng cho mọi người thêm nữa.
Gánh nặng. Chúa ơi, con là gánh nặng! Thật khốn khổ cho nhà Dòng và cha mẹ.
Chị có ý định làm một cử chỉ gì để thoát khỏi hoàn cảnh tù túng, quẫn bách này. Còn gì là phục vụ khi một tu sĩ  đã trở thành người khuyết tật? Có chăng  là để người khác phục vụ mình. Còn mình ngồi đó mà  chờ được hầu hạ.
Rời khỏi đời tu?… ………
Chị muốn chịu thua số phận dường như không cho mình  tiếp tục sống đời  tu Tận hiến. Có phải đây là ý Chúa không? Có phải chỉ là sự cám dỗ của satan  không? Có phải ta đang bị bệnh bối rối? Chị không thấy câu trả lời từ phía nào cứu giúp. Chị đang ở trong bóng đêm, cả nghĩa đen cùng là nghĩa ẩn dụ. Chị khóc nhiều, mỗi  sáng,  mỗi đêm, khiến cho cặp mắt chị  sưng húp, đỏ kè, mệt mỏi. Chị gọi:
Chúa ơi , xin  cứu con!
   Nhiều lần, nhiều lần như thế.
Chị thưa với Chúa những lời cầu chan chứa  lệ. Chị mượn các Giờ Kinh chị em Dòng vẫn đọc  mà thốt lên thành lời, làm tâm tình của riêng  mình:
Lạy Chúa,
   Ngài không để con khép mi chợp mắt,
   lòng xao xuyến, con chẳng nói nên lời.
   Hồi tường lại bao ngày xa cũ,
   tâm hồn ấp ủ những năm xưa,
   suốt canh khuya, trong dạ nhủ thầm,
   và suy gẫm, trí lòng  con  tự hỏi:
   Phải chăng Chúa ruồng bỏ đến muôn đời,
   chẳng bao giờ còn dủ lòng thương đoái?
   Tình yêu Chúa phải chăng nay cạn hẳn
   và Thánh ngôn chấm dứt đời đời?
   Hay Thiên Chúa đã quên thương xót,
   vì giận hờn mà khép kín từ tâm?
   Tôi tự bảo: điều làm tôi đau đớn
   là Đấng Tối Cao chẳng còn ra tay nữa.
   Lạy Chúa,
   Con tường nhớ bao việc Ngài làm,
   tưởng nhớ những kỳ công thuở trước.
   Mọi hành động của Ngài con nhẩm đi nhắc lại,
   sự nghiệp của Ngài con sẽ gẫm suy.
(Tv 76)
Rồi chị cảm thấy cảnh tượng  được mô tả sau đó trong Thánh vịnh này thích hợp với tình trạng tinh thần chị  lúc này quá sức:
   Mây tầng đổ mưa, mây tầng vang tiếng,
   ngang dọc khắp trời, tên lửa Ngài bay,
   tiếng sấm của Chúa ầm ầm vang dội,
   ánh chớp chói lòa soi sáng thế  gian,
   khắp địa cầu lung lay rung chuyển.


Chị Thụy nhận ra chị đang nằm trong tay Chúa.
Chúa nhân từ nhưng đầy quyền uy, Ngài có thể làm mọi sự  và mọi sự ở  trong tay Ngài.
Ở trong tay Chúa, như hình ảnh chú chim sẻ nhỏ bé, yếu đuối, nằm gọn trong lòng một bàn tay  gân guốc nhưng dịu dàng, khoẻ mạnh, cứng cát, ôm  ấp chú để bảo vệ chú, ai đó đã vẽ bức tranh ấy nhỉ?
Rồi chị nhớ đến con đường thơ ấu của thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Cứ hãy đơn sơ như trẻ nhỏ, chả biết làm cái gì cho ra hồn, nhìn lên Chúa, để được Chúa chăm sóc, lo lắng cho.
Chị nghe mưa dịu tiếng, bão ngừng rơi. Chị  tự nhủ, chính mình mới là tác nhân gây bất an cho chính mình. Sao không  biết phó thác nơi Chúa?:
Hạt cát nhỏ làm xôn xao biển cả,
   Cánh chim non  xô  náo loạn  tầng  xanh.
   Hãy nằm yên nghe  bờ ru  sỏi đá,
   Ngừng  bay trông  mây trắng gọi mộng lành.
   Chẳng là gì, chẳng là chi Chúa ạ,
   Sao con  ngồi đợi gió vút lên cao?
   Thử nhìn lên ,  qua mấy vòm cây lá,
   Nào có vui như nép dưới nụ hiền.
( Anna )


Thật  thú vị với những vần thơ nhẹ nhàng, êm ái, như  tiếng mẹ ru con vào giấc ngủ say mơ.
Tâm hồn  người tu nữ  trong giây lát được ủi an, xoa dịu. Hưởng nếm  an bình, chị chắp tay tạ ơn Chúa.  Chị  xác quyết :
Lạy Chúa, con tín thác nơi Chúa.
Con xin vâng theo ý Chúa qua ý bề trên.
  
   11. CHUYỂN GIÔNG
    Đúng lúc ấy, một thông tin nghiệt ngã được đưa  từ nhà Khách vào đến tai chị Thụy. Ba mẹ chị Thụy bị tai nạn giao thông nghiêm trọng.
Trời chuyển giông. Con thuyền bé chao nghiêng , lảo đảo. Lòng người nữ tu cồn cào dậy sóng. Hốt hoảng  và thất sắc, chị nắm chặt tay Bề trên:
-   Mẹ ôi, mẹ ôi, con phải làm sao?
-  Hãy cầu nguyện thôi con ơi. Chúng ta phải đợi  thông tin  cho chính xác.
Buổi chiều hôm ấy, một buổi chiều tang thương. Người ta đã đưa được  những  nạn nhân trong vụ lật xe vào bệnh viện. Mấy người bị thương  nặng. Cha và mẹ của sơ Thụy chết ngay trên đường đưa đi cấp cứu. Tin tức rõ ràng tới độ các báo đăng cả hình ảnh chiếc xe đò cũ kỹ  ấy đổ nghiêng, dập móp, nát  cả một bên sườn.
Đôi chân chị Thụy đổ khuỵu xuống.
Từ trong tu viện, chị khóc thương cha mẹ bằng cặp mắt mù lòa và một trái tim tan nát. Bóng đêm bao trùm vạn vật và bao trùm cả cuộc đời chị.
Chị không thể cầu nguyện được. Chị cũng không  đủ sức để nấc lên được một tiếng cho nhẹ lòng.
Mọi ủi an ra vô nghĩa.
Chị Thơm  run rẩy, đấm ngực  như  đang  phải  đứng trên đồi  Can-vê chứng kiến  “mặt trời ngưng chiếu sáng. Bức màn trướng  trong Đền Thờ  bị xé  ngay chính giữa“. Chị ôm lấy Thụy, nước mắt tuôn ròng. Chị không biết nói lời gì với Thụy lúc này cho xứng.
Chị hiểu nỗi đau của Thụy là gì  rồi. Là thất vọng vì chẳng còn cơ hội cho Thụy đem Chúa giới thiệu với ba  mẹ. Là hoang mang chẳng biết làm gì cho tròn chữ hiếu. Là nhìn kìa, đám tang nhà ma sơ không có Thánh giá nến cao, không có trướng Đức Bà.
Các Bề  trên cũng lặng câm trước nỗi đau quá lớn của sơ Thụy. Hai “thiên thần“ Kinh viện được giao công tác ở bên chị Thụy,  phụ với chị Thơm săn sóc sức khỏe tinh thần chị nữ tu khốn khổ ấy, kể cả  trong những ngày chị Thụy được phép về nhà đội tang  song thân.
Tang quyến ruột thịt chỉ có vợ chồng con cái cô Thương  từ tỉnh về.
Cuộc sống công nhân vất vả, thời giờ gò bó, không cho phép cô Thương về thăm ba mẹ và em thường xuyên. Ngày nghe tin em gái phải mổ mắt, cô cũng chỉ về thành phố được đúng một ngày chờ tin em nơi bệnh viện rồi lại phải vội vã theo chuyến xe đêm ra đi, mang theo nỗi niềm thương xót vô hạn và bất lực.
Giờ đây, ngồi bên em, trong hoàn cảnh đau đớn tột cùng, cô chẳng biết nói gì hơn là thinh lặng mà đón nhận tất cả. Cô là biểu tượng của một người phụ nữ nhẫn nhục và chịu đựng. Cuộc hôn nhân của cô cũng không được hạnh phúc, nhưng cô không bao giờ tâm sự, thổ lộ với bất cứ ai, kể cả cha mẹ, nhất là đối với Thụy, em gái cô. Nó đi tu. Tu  là cội phúc. Nó không thể nào hiểu hết những đau khổ, ngang trái  xảy ra  trong đời sống vợ chồng. Thôi cứ để yên cho nó sung sướng. Nhưng giờ thì cô cảm thấy cả hai chị em cô đều chất đống muộn phiền, biết ai chia sẻ cho ai vơi bớt?
Dù gì thì kẻ dâng mình cho Chúa cũng còn được thảnh thơi chuyện chồng con hơn cô. Hai đứa con cô Thương đang tuổi mới lớn, cần có cha mẹ dạy dỗ, chăm sóc, không những lo cho chúng cơm ăn, áo mặc, mà còn phải lo cho chúng học hành những gì? Lưu ý chúng chơi với lũ bạn ra sao? Tương lai của chúng? Ôi, sự khó ngày hôm nay, từng ngày,  đã quá đủ cho cô  vất  vả, cô chẳng biết ra sao cái ngày mai vô định. Người chồng lầm lì, ít nói, đi làm về là cắm đầu vào máy vi tính. Anh  ta chắc hy sinh nhiều lắm khi phải rời xa cái computer mấy ngày, đi theo vợ con lên đây chịu tang ông bà nhạc. Nói  tệ cho anh ta đấy chứ, đám tang này thực sự là một cú sốc kinh khủng cho cả nhà.  Nhìn vợ con khóc lóc, anh không  thể không  xót  xa, thương cảm. Anh nghe đứa con gái nhỏ  sụt sịt, tiếc nuối:
-  Quốc Khánh nghỉ tới ba ngày liền, nhà mình không về thăm ông bà, giờ hết dịp rồi ba ôi!
Anh không có can đảm nhìn sơ Thụy lần mò bước. Anh thấy mọi đau khổ của những người thân  quanh anh  thật đáng kính trọng. Và anh thấy thương vợ con anh, tội cho  dì  Thụy, dì ấy còn quá trẻ. Những phụ nữ này vừa mất đi nhiều phần của cuộc đời.
Đôi lúc anh suy nghĩ: Sống là như chịu bị rứt từng miếng thịt trên cơ thể mình ra  như thế, cho đến chết đó sao? Ông Tạo có thấu cho nhân gian không? Tại sao con người phải hy sinh những gì họ yêu quý? Đây có phải là những nghiệp chướng, nợ nần kiếp trước  chăng?  Chẳng biết. Anh  bên Phật nhưng cũng không lưu tâm đến giáo lý nhà Phật cho lắm, thờ là thờ, thế thôi. Đời này khổ không hết, vui chưa đủ, nghĩ chi đời sau. Chết  là hết!!!! Đấy, thường chúng sinh nghĩ vậy. Người anh rể  của sơ Thụy cũng không khác, nhưng biến cố tang tóc hôm nay cho anh một cái nhìn  mới. Bất chợt anh thấy đời là hư vô. Đêm cuối cùng bên quan tài nhạc phụ nhạc mẫu, người ta thấy anh con rể này phủ phục suốt, cúi rạp người, thay vợ lạy tạ  khách viếng tang gia.
Trong một đám tang rưng rức tiếng khóc, tiếng rên xiết khổ đau, có những nỗi  niềm cho chính mình, có những nỗi  niềm cho kẻ khác, lại có những  thở than,  van vỉ  thấu lên tận trời. Thế, để cho kẻ hạ giới hiểu rằng kiếp này chỉ là ở trọ. Thôi, một ý tưởng thế cũng đủ rồi. Đủ lắm rồi. Làm sao bắt họ hiểu được ý nghĩa của lễ người  Nữ tu dâng trên đĩa thánh cuộc đời, khi mà chính các chị Nữ tu chưa chắc đã nghiệm đủ hay chưa sống đủ.
Rồi thì những ngày tang chế cũng qua.
Kèn  trống, cờ  quạt, kinh mõ đã dứt tiếng.
Những  của nả anh chị gửi xuống cha mẹ đã hóa vàng. Những tờ giấy bạc công đức đã bay tứ tán.
Đứa con  gái đột ngột mất  cả cha mẹ  cùng một lúc, giờ  đi đứng như kẻ vô hồn. Dù đã khấn dâng cuộc đời cho Chúa, ai cũng là con người với đầy đủ những tình cảm yếu mềm, tự nhiên thôi. Bởi khóc nhiều, mắt chị Thụy giờ chẳng còn nhìn thấy gì nữa. Chị rũ liệt, không thiết sống nữa. Đã đến lúc mẹ Anê phải lên tiếng. Chị Giám đốc Tập Vang  thương  lắm cũng phải rầy  la. Để huấn luyện một tâm hồn tận hiến đi theo đúng Ý Chúa trong mọi hoàn cảnh của  cuộc đời. Để vực dậy một cây non vừa lớn  đã gặp phải cơn giông bão kinh hoàng.
Một buổi sáng, mẹ cho gọi sơ Maria Thụy lên phòng mẹ. Mẹ yêu cầu chị tự đi tới với một chiếc gậy trong tay, không có người dẫn. Thật ra mẹ cũng sợ chị vấp ngã cho nên đã giao một em Thỉnh sinh làm thiên thần đi khẽ khàng phía sau, không để chị Thụy biết. Dĩ nhiên mọi tu sĩ đều nằm lòng đường nẻo, lối đi trong Dòng, cho nên cuối cùng sơ Thụy cũng lò dò tới đích. Chỉ lâu. Con bé Thỉnh tu theo sau sốt ruột, thót tim khi sơ Thụy suýt vấp phải đá.  Nó bụm miệng cười  khi sơ định hướng  sai, thay vì  phải đụng thêm một cây cột  trên dãy hành  lang nữa mới quẹo phải, sơ  lại cứ tìm cách trèo cho qua được cái  gờ  dưới chân giàn hoa   giấy, cho tới khi đầu gậy khua nhằm đám gốc lằng nhằng, sơ mới nhận ra mình đi sót đường.
Lần ấy, và nhiều lần sau, Bề trên cho gọi chị Thụy lên phòng riêng để luyện cho chị tập mò đường, đồng thời cho chị có dịp phơi nắng, tắm nắng, hít khí trời, để cho chị có người nói chuyện, hỏi han, kẻo không sớm thì muộn, chị ấy sẽ trở thành một cọng giá héo hon thiếu mây nước và mặt trời. Chỉ đầy nỗi buồn, nỗi đau thân phận. Chẳng nên tí nào! Giam mình trong    phòng, chui nhủi trong lều bạt hay ngậm tăm giữa một cộng đồng đang hoạt động, thảy đều sẽ làm con người ta trở thành  tự kỷ, điên khùng. Đến ngay như những chị em già nua, bệnh tật  cũng còn có nhà hưu, nhà  nuôi bệnh  chăm sóc nữa là! Đã là người Khấn, mọi chị em đều có quy chế được Dòng lo lắng, nuôi nấng từng ngày trong đời. Dòng không được quên điều khoản   này, bất kể vì lý do gì. Chị Vang  kể, ngày xưa, bố mẹ  chị có của nên dâng lễ mừng con gái khấn lần đầu biết bao nhiêu quà. Không thường đâu nhá, đô có, vàng có, bằng cả căn nhà. Ấy là thân sinh chị nghĩ như của hồi môn cho con mình về nhà chồng.  Lại có trường hợp,  gia đình chị Khấn kia, (xin không nêu tên), chẳng có gì. Cũng xong. Thế thì nhà Dòng phải tính sao? Không tính sao cả. Phải cư xử với hai trường hợp trên như nhau. Nhà Dòng không được nhìn vào của cải vật chất của chị em mà xét đoán, đối đãi. Nhà Dòng cũng không được ưu đãi các chị em có địa vị xem ra là cao trọng trong xã hội. Giáo sư, tiến sĩ  ư?  Không khác điều dưỡng, bếp ăn. Các sơ đều là con cái của Dòng, kẻ trước người sau, hoàn toàn dâng hiến, hoàn toàn phục vụ, cả đời họ. Bề trên phải rất công bằng. Cấm thiên vị. Cấm bỏ rơi (döùôi moïi hình thöùc). Điều này thật bình thường. Làm ngược lại mới là bất  nhân.
Vậy đã rõ lý tưởng, mục đích của Dòng.
Chị Thụy cũng biết, nhưng chị sắp hóa rồ , không  còn nhận ra tình thương nhà Dòng dành cho mình. Chị hồ  nghi thái độ của  Mẹ Bề trên. Chị cho rằng các chị em trong nhà đã quên chị, hoặc có nhớ, cũng tìm cách lánh xa chị bởi bây giờ chị chẳng còn làm ích được cho ai nữa rồi.
Satan là cái thằng nhỏ nhen hết sức.


12 .  LẶNG GIÓ, HƯƠNG YÊU
 Cả tuần nay, sao Mẹ không gọi  Thụy  lên phòng Mẹ nữa?  Cũng bằng ấy ngày, sao chị Vang không sang thăm Thụy? Chị Thơm càng biệt tăm?  Bây giờ mình phải tự lập thôi. Đừng mong có ai ở bên mà dựa dẫm. Người ta có việc của người ta, giúp đỡ thì cũng có lúc,  có kỳ, nếu không phải vì công tác bắt buộc, ai kiên tâm mà  dành thời giờ lo cho một kẻ mù vô tích sự như mình!
Chị Thụy cứ nghĩ thế mà buồn, mà tủi.
Chị tập lẩm nhẩm lời nguyện:
“Dầu cha mẹ bỏ con rồi , hãy còn có Đức Chúa Trời đỡ nâng”. Lạy Chúa, đi tu là hy sinh cả  ước muốn được yêu vì. Con dâng Chúa.
Chị mò bước ra ngoài hàng hiên. Mặt  sầu như dạ quỳnh về sáng.  Chị mong có ai đó đi qua để hỏi  thăm, nhưng lúc này là giờ lao động, ai vào việc nấy, không nói chuyện.
Chị lại lần vào phòng. Căn phòng hơi rộng so với một bệnh nhân như chị, nhưng sau mấy tháng cư ngụ kể từ ngày  đi mổ mắt về, Thụy đã quen thuộc tới nỗi chị đi trong phòng thoải mái, không cần nhìn. Chợt chị có ý nghĩ: Tại sao mình lại phải ở trong một căn phòng như thế này? Tại sao mình lại phải sống cách biệt với chị em thế này? Tại sao người mù lại không được tham dự đời sống  chung? Mắt mờ có phải là một thứ bệnh truyền nhiễm đâu? Mờ mắt có phải là xấu  đâu?
Nghĩ rồi, chị  quay trở ra.
Như khách lạ, chị tự đi tìm người để hỏi thăm.
Thì ra Mẹ Bề Trên bệnh. Chị Giám Tập và chị Thơm phải thay nhau lên bệnh viện nuôi Mẹ. Cả nhà bận bịu vì các chị Phụ Trách phải nhận thêm những việc Mẹ nhờ giúp cho xong đúng thời hạn. Sự phân chia công tác vào hoàn cảnh có sự cố bất chợt luôn gây xáo trộn trong gia đình. Ở trong một tu viện cũng y như thế. Chị em mải lo cho Mẹ trong cơn bệnh, quên mất hay không có thời giờ ngó ngàng đến người em nhỏ. Cũng nên lắm, vì Mẹ Annê đáng kính, đáng yêu, đáng trọng. Mẹ là một vị bề trên thánh thiện, đạo đức chưa từng có. Mẹ không  chỉ yêu thương  một chị Thụy vì hoàn cảnh khiếm thị của chị. Không, Mẹ yêu mọi người chị em trong Dòng như nhau. Yêu như họ là người ruột thịt của Mẹ. Yêu như Chúa dạy. Bên trong vỏ bọc nghiêm trang, cứng cỏi là một quả tim nhạy cảm chan chứa tình thương. Từ khi Mẹ lên làm bề trên, trong nhà Dòng bớt hẳn những chuyện xích mích, những mối giận hờn giữa các chị em với nhau. Trong mọi trường hợp những chị em nào được Mẹ mời vào phòng cho Mẹ gặp gỡ, tiếp xúc đều ra về với một tâm trạng an bình, nhẹ nhõm và muốn giao hảo cùng người khác. Giữa một thế giới tuyền phái nữ, đặc tị hiềm, lắm ghen tương, chia rẽ, Mẹ làm được việc của một sứ giả hoà bình.
Mẹ hay gần gũi, thăm nom người liệt lào, rù rì tâm sự với quý bậc hưu trí tới nỗi nhiều chị em thắc mắc không hiểu ở chức vụ Bề trên Dòng, Mẹ Anê kiếm đâu ra thời giờ và bằng cách nào Mẹ có thể chu toàn được công tác quản trị, điều hành Tu viện?
Nhưng bây giờ …
Mẹ bệnh rồi!
Cả nhà buồn bã. Chị Thụy lủi thủi về phòng riêng.
Tính ra, đêm nay là đêm thứ chín chị Thơm không ghé mình, đâm ra nhớ cả chị. Sơ Thụy bỗng nảy ra một sáng kiến giải sầu: Thu dọn va li sách vở, quần áo.  Quá hay! Ta sẽ thực tập bài học nhìn sự vật với thị giác của trí nhớ:
Chiếc va li da cũ mềm và sờn góc hơn xưa nhiều nhưng dây kéo bên trong còn tốt nguyên. Đây là chiếc áo cánh trắng đã bai mỏng cả phần lưng, gượng thôi kẻo banh nhẹ dám rách. Đây là cái quần sa tanh đen. Sa tanh thì không thể lẫn với vải được. Vải là bộ quần áo cô-tông xanh nhạt mặc trong áo dòng đây. Khăn, lúp, mu-xoa, vớ;  eo ơi, sao lại  để khăn tay ở cạnh vớ thế này? Bên phải va li Thụy cất quần áo nhỏ cùng là các thứ linh tinh, chúng bọc lấy một cục xà bông thơm phức mùi … Mỹ, ai cho mình ấy nhỉ?
Thụy dập nắp va li, cài then hai bên xuống, thở dài một cái  rồi lần ra chiếc kệ gỗ để sách. Nó đây. Nhớ được tên tất cả các cuốn sách trên kệ này thì được thưởng nhé. Thế là chị Dòng mù hào hứng tham gia một trò chơi do chính chị bày ra với một tâm trạng vui vẻ, say sưa chưa từng có. Chỉ trong loáng cái, chị duyệt qua hết ngăn trên cùng. Dễ thôi, vì toàn sách về Kinh Thánh, cuốn nào cũng bìa cứng, gáy dày cộm lại hay xử dụng nên đã quen tay.
Ngăn dưới linh tinh lắm. Sách đạo đức có, thơ có, truyện có. Chúng thường được in một khổ giống nhau, bìa từa tựa như nhau. Lâu nay chị Thụy không đọc, sờ  thấy là lạ. Đây là Gương Chúa Giêsu, bản in mới, ngoài bìa có hình chân dung Chúa Giêsu rất hiền,  hình thức, độ dày giống cuốn Bên Chân Chúa Của Gaston Courtois, Đây là cuốn sách sờn bìa, quăn góc Hạt giống chiêm niệm, cũ lắm rồi vì đã được chủ nhân nó đọc đi đọc lại nhiều năm. Kế bên Hạt Giống Chiêm Niệm phải là Không Ai Là Một Hòn Đảo Thôi, nhưng Thụy không thể biết được đâu là cuốn 1 bìa nâu, đâu là cuốn  2 bìa xám. Màu sắc để phân biệt đối với Thụy bây giờ là  vô ích. Khua xuống đống  sách khổ lớn nằm sát đất, đa số về hội họa,  điêu khắc, nghệ thuật trang trí v.v. , tiện tay Thụy dọn dẹp mấy tập nghiên cứu hội họa cổ điển khổ A4 cho gọn. Có một cuốn sách nhỏ vừa rớt ra khỏi chồng tài liệu vẽ. Cuốn gì nhỉ? Nó không cũ không mới; không dày  không mỏng; hình như nó cũng không đẹp không xấu. Cuốn gì quên mất rồi? Của mình hay của ai? Thụy đưa tay soạt qua độ dày của tập sách mấy đường như để ước đoán nội dung của nó.  Ôi tập sách đáng  thương!
Ký ức chợt về trong tâm khảm. Thụy bồi hồi nhớ. Ừ, phải rồi, có lẽ đây là … nó: cuốn sách năm xửa năm xưa, trước khi chia tay, Kiên đã gửi cho Thụy  giữ. Thụy đã nhanh chóng đọc và cũng nhanh chóng cất  giữ vào kho lưu. Chỉ là một tập  Kinh nhỏ bé và bình thường dành cho những người chuẩn bị gia nhập Đạo Công Giáo thôi ấy mà! Nhưng, hình như đối với  Kiên là cả một tấm lòng. Thụy mơ hồ hồi tưởng và nhận ra vẻ ân cần, tha thiết của Kiên bên trong cử chỉ trao gửi vội vàng, lơ đãng của … hắn. Tự nhiên Thụy cảm thấy hết sức thú vị khi nhận ra mình còn đang sở hữu một kỷ niệm của thời thơ ấu  xa xưa thật đẹp, thật dễ thương. Nhiều năm qua rồi, hình ảnh Kiên Phang chợt trở về trong trí nhớ khiến Thụy tủm tỉm cười một mình. Bây giờ mà gặp lại … nó chắc vui lắm nhỉ! Cái thằng!… Ô,  không. Bây giờ Kiên chắc đã  ổn định cuộc sống từ lâu! Hơn ba mươi tuổi cả rồi.Vậy chứ ai biết được, với tính khí kỳ khôi ấy,  lỡ bây giờ nó trở thành một tên  … cướp nhà băng cũng nên!  Không đâu! Những ngày cuối còn ở gần nhau, thấy cách cư xử của Kiên  đối với  em gái, với bạn bè  và hiểu nhau  hơn, Thụy cam đoan, Kiên  sẽ phải là người tốt, rất tốt nữa là đàng khác.Vẫn còn cầm tập sách nhỏ trên tay, Thụy miên man nhớ lại những chuyện năm xưa, thời học trò ngây thơ,  giản dị. Thụy nhớ cả Vân, em gái Kiên. Không biết bây giờ Vân ra sao? Cánh tay gẫy năm xưa có di chứng cho Vân không?  Phút chốc, niềm vui đến với người tu nữ hiền lành, sao nhẹ nhàng, êm êm lạ, như trong đêm chờ đợi, tới giây phút ta đê mê ngắm được Quỳnh Hương lay động rồi dần dần lẩy cánh.
Chợt nghe lao xao bên ngoài hành lang. Thụy đặt nhẹ tập sách nhỏ lên ngăn kệ gần nhất, đứng dậy lắng nghe. Tiếng chị Thơm thân quen vọng đến gần:
- Hê, Thụy ơi.
- Dạ, em đây. Sự lạ gì  đang đến với em thế?
Chị Thơm ùa vào phòng Thụy như cơn gió mát, theo sau có cả chị Vang nữa:
- Chị Vang đây Thụy ơi.
Thụy mừng rỡ dang rộng tay như muốn ôm người chị thân thương vào lòng. Chị Vang vội bước đến sát bên  để nắm chặt lấy hai bàn tay Thụy, bởi nhiều ngày qua chị em không có cơ hội gặp gỡ nhau. Hai chị em Thơm, Thụy như sau cả một mùa xa cách dài dằng  dặc, có nhiều chuyện để hàn huyên. Chị Vang, chị Thơm  tìm đủ cách giao lưu trực … thị với Thụy để hai chị có thời gian vừa nói chuyện vừa ngắm đôi mắt bệnh tật của người bạn nhỏ đồng tu với niềm hy vọng và phó thác cho Chúa. Thật ra lúc này Thụy vui chứ chị Vang, chị Thơm  chẳng vui, đúng hơn là không vui  trọn vẹn được. Có những giây phút chạnh lòng nghĩ đến một người vắng mặt nào đó, hai chị ủ rũ ngồi im, làm cho Thụy phải lên tiếng phá tan bầu không khí trầm buồn. Sơ vừa mò tay lên ngăn kệ, vừa nói:
- Hai chị! Em có quyển  sách này? Em vừa tìm thấy nó trong đống tài liệu cũ của em đấy. Đố hai chị  biết chủ nhân của nó là ai nào?
Chị Vang và chị Thơm nhận  lấy vật trên tay Thụy  để xem, chợt hai chị  ồ to:
- Hay quá! Của chị .
- Sao cơ?  Vì sao hai chị đều nhận là của mình?
Chị Vang nhớ lại:
- Năm chúng mình cùng học chung, một hôm , Thơm hỏi mượn chị  một cuốn Giáo lý. Chị có nhưng không cho mượn, mà là đưa cho Thơm luôn, nhớ không?
- Dạ – chị Thơm xác nhận – và em cho Kiên, vì Kiên cần.
Thụy ngắt lời :
- Kiên lại chuyển qua em.
Hai chị đồng thanh:
- Ấy , và thế là hoàn  thành “phương án Hoa Huệ” năm xưa chúng tôi cầu nguyện với Thánh Cả Giuse cho cô được ơn nhận biết Chúa đấy cô em ạ.
Thì ra thế. Giờ Thụy hiểu các chị thương Thụy biết bao! Chị Thơm bàn:
- Chị có ý kiến, bao giờ gặp Kiên, mình đưa nó giữ đi nhỉ, chứ chúng mình đi tu có cả một tủ sách thư viện thế kia rồi.
- Đồng ý nhé.
- Vâng, đồng ý. Nhưng hai phương trời cách biệt, biết bao giờ chúng mình gặp lại các bạn cũ thời trung học hở các chị?
Chị Vang nháy mắt với chị Thơm đang tủm tỉm cười:
- Ừ, biết bao giờ! Nhưng thôi, quên cuốn sách nhỏ này đi. Chị có một chuyện cần kể với Thụy đây. Giọng chị Vang nhẹ nhàng nhưng không dấu vẻ cần thiết.
- Dạ.
- Em lắng nghe nhé Thụy.
Thụy lặng im chờ đợi. Một giây nóng cả lòng.
- Mẹ Anê sợ … không qua khỏi.
Thật bất ngờ!  Hai hàng mi của Thụy cụp xuống, đôi bàn tay nhỏ bé  bỗng run run, dò hỏi:
- Mẹ sao rồi chị?
- Em ngồi xuống đây cho chị trình bày. Nào. Đừng lo lắng thái quá. Không sao đâu em. Mọi sự nằm trong Ơn  Chúa quan phòng. Mẹ bị ung thư giai đoạn cuối, Mẹ đau nhiều nhưng đầu óc vẫn tỉnh táo và luôn cầu nguyện xin vui lòng đón nhận  Thánh Ý Chúa. Mẹ nhớ mọi người. Mẹ nhớ riêng em đó Thụy.
Nghe vậy, đôi mắt ma sơ nhỏ bỗng đỏ hoe như chực trào lệ.  Mặc thế, chị Thơm kể nhiều cho Thụy nghe về những gì Mẹ Bề trên tâm sự cuối đời với chị và chị Giám tập La Vang là hai người con túc trực bên giường bệnh Mẹ:
- Mẹ Anê rất thương Thụy.
- Dạ, em biết. (Thụy nói vậy rồi nhớ lại có lúc mình lên cơn phiền trách  Mẹ).
- Mẹ muốn em tu cho đến trọn đời. Em là một trường hợp rất đặc biệt, em sẽ làm tông đồ bằng khả năng Chúa ban cho em. Mẹ muốn em lại tiếp tục vẽ để rao giảng Lời Chúa qua hội họa.
Thụy ngơ ngác:
- Vậy ư chị? Thế nào được?
- Mẹ muốn em làm tông đồ qua nét vẽ.
Thụy nín thinh như nghe chuyện bông đùa, vì  vấn đề thực tế khó lòng thành sự.
Chị Vang ân cần, thong thả nói tiếp:
- Em sẽ được ghép giác mạc mới để nhìn thấy được.
Thụy lặng thinh. Nghiêm trọng đây, không đùa đâu.
- Em sẽ lại được phẫu thuật, phải không chị?
- Ừ, em có hy vọng không?
- Ơ, dạ, có chứ.
- Coi bộ không tin tưởng lắm. Em còn băn khoăn điều gì?
Thụy nói ngay ra những điều sơ lo nghĩ, bởi những chị em đi tu chẳng bao giờ quanh co. Sơ thổ lộ nào là bây giờ tiền đâu mà mổ; bây giờ Mẹ Bề trên đang  ốm, nhà Dòng phải lo cho Mẹ; bây giờ hai chị còn ở trên nhà thương với Mẹ, em nhờ cậy vào ai, v.v. .
Hai chị lớn hết lời khuyên nhủ, trấn an Thụy.
Rồi thì buổi “làm việc” cũng tạm ổn.
Bỗng Thụy thắc mắc:
- Hai chị có biết ghép giác mạc là như thế nào?
Chị Vang giải thích như chị là bác sĩ nhãn khoa, làm sao cho Thụy yên lòng, nhưng sơ Thụy ngập ngừng hỏi tiếp, câu hỏi như không mong được trả lời:
- Em sẽ dùng giác mạc của ai?
Quả vậy, câu hỏi bâng quơ ấy làm hai chị lớn ngậm ngùi, ắng lặng.
Chị Vang nắm lấy tay Thụy, dặn dò:
- Em ráng giữ vệ sinh mắt. Cầu nguyện và cầu nguyện. Thế thôi. Nhớ đến mẹ Anê trong bệnh viện.
Lời khuyên dặn ấy thật có ý nghĩa, bởi chỉ  mười ngày sau, Mẹ Anê qua đời trong tay chị Vang. Trước đó, Mẹ đã tâm sự với chị Vang như di chúc: Mẹ về với Chúa, sẽ hiến tặng đôi mắt cho Maria Thụy.
Liền sau đó, sơ Thụy được đưa tới phòng Phẫu thuật để nhận quà của bệnh nhân vừa mới qua đời. Ôi , biết bao lệ trào  khi người ta chiêm ngưỡng ân tình của những Vị  Tu nữ dành cho nhau mà chỉ khi một người khuất đi, người kia mới nhận ra được. Ở đây, quà tặng âm thầm tới độ người nhận chẳng biết ơn mình đón nhận từ đâu.
Vị hiến dâng thị giác  mong muốn người  em mù lòa trong cộng đoàn  của mình phải biết hướng lên trời, tạ ơn Chúa và chỉ  duy có Thiên Chúa là Đấng nhân lành ban phát mọi nguồn ơn.
Người ta nói, ngày tháo băng mắt của bệnh nhân  mù như một ngày, hoặc rực rỡ tái sinh, hoặc  .. cứ thản nhiên  bình yên đi trong hầm tối. Không! Kết quả  lần mổ thay giác mạc này của sơ Thụy là … rực rỡ chói lòa. Tạ ơn Chúa. (Dường như sau biết bao nhiêu lần phải thố lộ ra mối tình yêu thương chứa chan không thể che dấu mãi trong tim Thượng Đế, như một bà mẹ nuông con hư, lâu lâu, Thiên Chúa vẫn thèm được  nghe vài câu nói tử tế nơi miệng con cái nhân loại dành cho Người). A ha! Người nữ tu hoạ sĩ lại được nhìn  thấy bức họa cuộc đời  hiển hiện rành rành ra trước mắt mình, rõ ràng và thật sự.
Sơ mở mắt ra, đôi môi mấp máy gọi đúng tên người thân đang đối diện trước mặt  sơ, khiến hai vị bác sĩ phẫu thuật và toàn ê-kíp mổ sung sướng nghẹn ngào.
Rồi tới lượt chính bệnh nhân nghẹn ngào, sung sướng. Xem  nào, trước mặt sơ là những ai, sơ hồi hộp đưa mắt nhìn kỹ từng khuôn mặt. Ôi, kỳ diệu và tuyệt vời làm sao! Chị Vang, chị Thơm thân yêu và kia, hai người mặc áo blue trắng: Ai như … và .. ai như .. .   Phải! Không lẽ!  Nhưng  đúng  rồi, hai bác sĩ  đang ở bên Thụy  đây chính là ….
Thụy nhìn trân trân, la lớn:
- Chị Lụa. Kiên. Có phải không?
Mọi người vỗ tay hả hê.
Ngồi trên giường bệnh, sơ Thụy mừng rỡ  nhào người tới, ngỡ ngàng, dồn dập hỏi:
- Chính  chị Lụa và Kiên mổ cho em ? Oâi! Hai người từ đâu ra đúng lúc quá vậy?  Ôi, kể cho Thụy nghe hết đi nào.
Và họ kể cho nhau nghe việc kỳ diệu Chúa làm.
Niềm vui lan  toả. Những bàn tay ghì  xiết, nắm chặt nhau  thay lời muốn nói. Họ chỉ biết vui sướng hô lên câu Haleluia để ngợi khen Chúa đã ban cho họ những ngày mà họ gọi là Ngày của Chúa, như  xưa,  ngày Chúa đưa dân Chúa  xuất hành  vượt qua Biển Đỏ vào đất Hứa:
  Nào cảm tạ Chúa vì Chúa nhân từ,
  Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.
( Tv 117 )
Cho tới khi sơ Thụy nhận ra,  vì sơ, vâng,  chính vì sơ, Thiên Chúa đã di chuyển bạn Kiên và bạn Lụa, từ đây đến kia, cho họ gặp nhau  tại đó, làm việc nọ, để rồi  lại cùng trở về đây lo cho Thụy. Chính xác vì Thụy, Thiên Chúa đã làm như vậy, sơ Thụy không thể nghĩ khác được nữa. Sơ cứ rưng rưng, rưng rưng, trìu mến nhìn mọi người, thấy được tình yêu Chúa dành cho mình, khôn tả!
Mọi người tổ chức một liên hoan hội ngộ, mừng ngày chị  Maria Thụy nhìn thấy ánh sáng.
Trong tiệc vui ấy, sơ Vang giới thiệu  bác sĩ Kiên và bác sĩ Lụa, nay đang là nhân viên của tổ chức Y Bác sĩ Phi Quốc Gia. Họ  đã và đang đi qua nhiều nước.
Chị Lụa yếu ớt, bệnh tật, từ khi xuất dòng không ốm ngày nào. Chị theo Y, mê mải làm việc thiện nguyện quên hạnh phúc riêng. Chị  nghĩ, Ơn gọi của chị có lẽ là  độc thân, vì chị yêu và cần nếp sống này.
Sơ Vang và mọi người không hề nhắc  tới đám tang Mẹ  Anê, như để cuộc vui được trọn vẹn.
Sơ Thơm có lúc ghé tai sơ Thụy thầm thì điều gì đó  rồi người ta thấy sơ Thụy mau chóng đi về phòng riêng mang ra  một quyển sách nhỏ đã cũ. Sơ vui vẻ trao nó lại cho bác sĩ Kiên, nói là để kỷ niệm ngày bạn bè gặp lại nhau sau bao năm xa cách. Tất cả mọi người trong bữa tiệc hào hứng nâng ly, trìu  mến hô to tên  Kiên Phang sau khi được nghe nhắc lại những câu chuyện hồn nhiên, thân ái thời học trò trường Dòng của họ, đồng thời cũng là sự tích cái biệt   danh “Phang” của Kiên.
Bác sĩ Kiên rất vui, anh vuốt nhẹ tay lên bìa cuốn sách nhỏ, cảm động không thốt nên lời.
Kiên bây giờ đã là một người đàn ông trưởng thành, học thức, giỏi giang, trầm lắng và kiên nghị.
Trong suốt bữa cơm thân mật  với các Nữ tu thân quen ấy,  nếu có ngừơi để ý chút, sẽ thấy bác sĩ Kiên thường kín đáo lưu tâm đến sơ Thụy cách đặc biệt.
Chẳng phải chính anh là người đã phẫu thuật và đem ánh sáng đến cho đôi mắt  nhà nữ tu nghệ sĩ đó sao? Anh mong kết quả hoàn hảo để sơ Thụy được trở lại vẽ và …vẽ , vì anh đã biết khả năng tuyệt vời này của cô bạn cũ từ thuở xửa xừa xưa.
Chẳng phải Thụy năm xưa, thời học chung lớp, đã là một đối tượng mà Kiên … rất thích  và anh đã mang hình bóng cô ấy trong lòng mãi cho tới giờ đó sao?

13 .   THIÊN Ý
Người như cây cỏ. Chẳng ai bảo cây này sống tốt, cỏ kia gian tà . Trước mặt Tạo Hóa toàn năng , vạn vật  vươn mình mỗi sáng hít thở không khí trong lành của ban mai sương sớm như nhau.
Ấy, con người ta cũng vậy.
Cây có phận như người. Đẹp như Hồng, như Huệ, nên thơ như hương bá Li – băng, ủ ê như dương liễu, sừng sững như đa, đề, vào danh sách quốc túy như tre, như trúc v.v…
Nhiều người đặt tên con là Thảo. Nhiều người chọn bút danh, nghệ danh có chữ Thảo. Là cây, là cỏ  đấy. Tôi thích cái ý đó vì tôi thích làm một ngọn cỏ trước mặt Đức Chúa Trời, hay nói đúng hơn là sống như một ngọn cỏ xanh  trong đồng  nội của Chúa.
Thử nghĩ xem. Những loài cây cỏ có danh, có tiếng  thì sướng gì?  Có biết sướng khổ thì chúng cũng than rầm trời. Lên Đà Lạt mà ngắm rừng thông. A! Mà khóc rừng thông.
Nói thật lòng, tôi cũng chẳng thích làm Huệ,  làm Hồng. Một bình hoa cắm nghệ thuật  Ê – ki –ba – na  lộng lẫy, duyên dáng , hỏi đẹp được mấy ngày ? Và sau đó mùi vị …” hẳng ra mô?”
Còn như ngọn cỏ nhu mì, xanh xao lả lướt  vẫn  rầm rì hát ca. Màu xanh của cỏ làm dịu lòng người. Kẻ ác ở đồng nội mới ác dữ, bởi nó vô  tri vô tình cùng cỏ biếc. Thân nhỏ mỏng manh cũng là tạo vật Chúa dựng nên. Thú ở chỗ  không tên, chẳng ai tìm. Nó nỏ cần. Nó chỉ cần Chúa biết nó hiện diện.
Dễ thương ghê!
Thụy, vì nhãn quan quan trọng nên sau khi mổ phải duy trì chế độ nội trú, có sự kiểm tra tái khám của bác sĩ. Chính bác sĩ phẫu thuật ca mổ ấy chịu trách nhiệm và có bổn phận làm tốt hơn khả năng nhìn của bệnh nhân, nhất là trong   thời kỳ hậu phẫu.
Kiên để Lụa  theo  thời khóa biểu  của  phái đoàn sang Lào  khám bệnh. Anh  ở lại săn sóc trường hợp sơ Thụy.  Bổn phận và tình thân.
Thân tình, lại thêm thương cảm, xót xa cho hoàn cảnh của Thụy, thời gian ngắn ngủi ở bên  các sơ, Kiên được nghe biết tất cả các biến cố  đã xảy ra  cho đời Thụy. Thụy mồ côi rồi, giống anh.
Về sau, trong nhật ký của sơ Mát- len Vang, có những đoạn nghĩ lại phải trào nước mắt, thắt ruột gan khi sơ nhắc đến chuyện đôi bạn trẻ này như:
“Ước gì  phái đoàn có K. đừng ghé qua VN”, nhưng phải thế  …..
Hay:
“Chúa sắp xếp … kỳ quá! Sao để đôi mắt bệnh tật của T. sinh ra lắm chuyện oái oăm con chẳng ngờ! “.
Rồi:
‘T. ơi, em có biết em đang nhìn K. bằng đôi mắt của ai không? Người đó trước khi  chết  đã kỳ vọng vào em biết bao! Nhưng thôi, riêng chị hoàn toàn tin vào Thánh Ý Chúa. Chúc em  “xuống núi“ yêu đời, vui vẻ“.
……
Quả có thế, mấy tháng sau, người ta hay tin sơ Thụy được phép hồi tục. Sợi dây xe kết Kiên và Thụy bởi một chuỗi những sự kiện gọi là duyên phận. Chính Thụy không ngờ cuộc đời chị xoay chuyển nhanh chóng như vậy. Không  ai biết khi quyết định thay đổi lý tưởng, chị đã khóc nhiều  hơn hồi cha mẹ chị qua đời. Không ai biết chị  vật vã bao đêm để tìm cho ra ý nghĩa “hy sinh“. Không ai biết chị đã từng có ý định làm … mù  trở lại  để tránh xa nhân thế.
Tại sao phải thế nhỉ?
Không!
Chính lúc này mới là lúc mắt linh hồn chị sáng lên để nhận ra được rằng: Khi tình yêu ngự trị, hy sinh trở thành vô nghĩa, có như không. Tình yêu làm cánh bay.
Bởi thương xót một đời Maria Thụy đi tìm  ý nghĩa hư hao, bèo bọt, vô bổ, Tình Yêu phải đến để kéo chị ra khỏi bệnh mù màu của con tim chị. Tim  chứ không phải  mắt.
Cuối cùng chị nhận ra tình yêu đứng đắn, chân thành, nhân ái, thiết tha nơi người bạn trai cũ đã đem ấm áp, bình an đến cho lòng chị.
Tình yêu đến, nhẹ nhàng, giản dị  thế thôi.
Kiên, sau bao vất vả, cực khổ, cô đơn ở xứ người, giờ đây là một người đàn ông thành đạt và mẫn cảm. Anh nhận ra Thụy là một nửa Chúa dành cho anh, và anh nâng niu, tôn trọng một nửa ấy. Một nửa ấy, trước giờ anh chưa hề tìm thấy ở đâu nơi xứ lạ quê người. Anh xác tín Chúa trao Thụy cho anh chăm sóc và chia sẻ mọi thăng trầm, sướng khổ trong đời. Anh sẽ không chỉ  có bổn phận và trách nhiệm trong ca mổ mắt cho Thụy thôi, mà còn cho suốt đời Thụy.
Bên nhau, họ tràn trề niềm vui.
Họ lắng nghe tiếng lòng của nhau nhiều ngày, nhiều đêm. Họ tìm đến Đấng tự xưng là Tình Yêu, Đấng yêu thương họ, và họ hỏi ý Ngài.
Trăm ngàn vạn  lần, họ chỉ nghe Chúa nói:
- “Thầy là Tình Yêu“ .
-  “Các con  hãy yêu  thương  nhau “.
Tình Yêu nhẫn nhục chịu đựng. Tình Yêu  khai  sáng. Tình Yêu đợi chờ. Tình Yêu không sai lầm.
Chính Thụy mới sai lầm khi  cứ cố đi tìm xem hy sinh là gì. Chưa có vị tu sĩ nào nên thánh vì đánh tội nhiều cả. Các cây roi gai có bảy móc sắt thời nay đâu còn được ưa chuộng nữa!
Nhưng! Có lẽ chúng ta cần một cái.
Tận  rất sâu thẳm  nơi  tâm hồn nữ tu Maria Thụy có một  cái nhọt của  lòng kiêu. Cần phải lấy móc sắt, moi  nó ra, ném nó đi, mạnh vào!
Tình Yêu làm được vì Tình Yêu mãnh liệt.
Vậy rồi một hôm, Kiên nhận được điện tín của Vân từ Rôma báo về, đưa cả Thụy xem:
Gia-cô-mô  vừa sang được một galery khá  gần Roma – via Druso- (*), đúng như anh em mình mong ước bấy lâu. Anh Hai  mang tranh VN qua  cho tụi em.
Bán tranh là nghề của Vân Trần. Cô sinh sống tại Ý bao lâu nay, kể từ khi lập gia đình với  Gia-cô-mô, một anh chàng Ý giỏi kinh doanh và lí lắc (bù lỗ cho vợ).
Đôi bạn Kiên Thụy mơ hồ nhận ra con đường sắp tới họ có thể song hành bên nhau trong đồng  cảm, vui vẻ, hạnh phúc  và … no đủ.
Nhiều năm sau, dầu  muốn kết vui mấy, câu  chuyện này,  đến  đây cũng còn  cứ  lưu  luyến, vấn vương một hình  ảnh thương thật thương: Nơi  ghế    đá  trong  khuôn  viên nhà ….  ròng,  có  hai “ bà Xưa “  đã ở độ tuổi  lọ mọ, thường  hay ra  ngồi  ngắm cảnh  vu vơ  …
Nhiều lớp trẻ tu sau vẫn phải nghe hai bà kể  đi  kể  lại  rằng:
- Ngày xưa, ngay chỗ  kia, trong nhà Dòng  có trồng một cái cây  nọ, đẹp lắm ! Bứng cho  đi rồi.
ANNA
——————————
(*) đường Druso