#Stats1 ul{margin:0;border:0;padding:0;height:32px;background:url(//goo.gl/ZHG881) no-repeat 0 -34px} #Stats1 li{margin:10px 0;border:0;padding:0 0 0 40px;list-style-type:none} #totalComments{height:32px;background:url(//goo.gl/ZHG881) no-repeat} #totalCount{height:32px;background:url(//goo.gl/ZHG881) no-repeat 0 -68px}

Thứ Hai, 21 tháng 10, 2013

CPCĐ 21 : ĐÔI ĐIỀU VỀ CA ĐOÀN-CA TRƯỞNG

NS.Antôn TIẾN LINH nhận hoa

ĐÔI ĐIỀU VỀ CA ĐOÀN VÀ CA TRƯỞNG
Trong những năm gần đây, phương tiện thông tin liên lạc đã trở nên nhanh chóng vì sự phát triển của internet.  Những kiến thức về đủ mọi lĩnh vực cũng dễ dàng được tìm thấy…  Trước kia, việc các thanh niên, thiếu nữ gia nhập ca đoàn xứ đạo có thể vì những lý do đơn giản như là vào ca đoàn để tìm kiếm bạn đời cho mình, hay vào ca đoàn để có chỗ ngồi mỗi khi có lễ trọng, hoặc vào ca đoàn để mỗi dịp hè được Cha sở cho đi nghỉ mát…  Nhưng giờ đây, ít nhiều cũng nhờ những phương tiện truyền thông, xem ra họ đã hiểu biết nhiều hơn.  Việc gia nhập ca đoàn bây giờ, các thanh niên, thiếu nữ đã có một ý thức cao hơn và đúng đắn hơn.  Và phần lớn các ca đoàn xứ đạo hiện nay dường như đã hiểu được rằng: tham gia ca đoàn phụng vụ là một việc làm tông đồ, việc Nhà Chúa.  Việc này chỉ đơn giản là việc hát và đàn để phục vụ Thánh lễ, và nói cho đúng, mục đích là để “Tôn vinh Thiên Chúa và thánh hóa các tín hữu” (Huấn thị về Âm nhạc trong phụng vụ 1967, số 4).
Bản thân tôi cũng nhờ mạng lưới internet mà tình cờ đọc được đây đó những bản nội quy dành cho ca đoàn, cả trong và ngoài nước.  Tôi đã sưu tầm và đọc được bảy bản nội quy ca đoàn.  Theo tôi, thì đa số bản nội quy đều tốt cả, không có vấn đề gì phải bàn đến.  Nhưng trong số đó, có hai bản nội quy đưa ra cơ cấu rất chặt chẽ để tổ chức một ca đoàn.  Cơ cấu ấy có điểm chung về phẩm trật quyền hành từ trên xuống dưới, gồm có đoàn trưởng, một hoặc hai đoàn phó (một lo đối nội và một lo đối ngoại), một ủy viên phụng vụ, ca trưởng, ca phó, quản lý, thủ quỹ, các trưởng bè và phó bè (gồm Soprano, Alto, Tenore, Basso).  Một trong hai bản có nhắc đến Cha linh hướng, nhưng không nằm trong cơ cấu tổ chức điều hành.  Vậy đoàn trưởng là người có quyền tối cao trong ca đoàn!   Ca trưởng là một thành viên được điều phối phân công!?  Thoạt nhìn, chúng ta thấy cơ cấu rất lý tưởng, nhưng đối với tôi đây là điều “tưởng là có lý”.

Như đã nói ở trên, nhiệm vụ chính của ca đoàn là lo việc đàn hát sao cho đúng cho hay, để có thể xứng đáng mà “Tôn vinh Thiên Chúa và thánh hóa các tín hữu”.  Ngoài việc này ra, không có gì khác quan trọng hơn.  Ý tôi muốn nói đến những việc linh tinh khác: như thăm bệnh nhân, viếng,  đọc kinh cho người quá cố, đi công tác từ thiện…  Vậy có thể nói, người chịu trách nhiệm chính cho công việc quan trọng này là ca trưởng.  Nói cách khác, tất cả mọi thành phần trong ca đoàn, mọi hình thức cơ cấu tổ chức được làm ra cũng chỉ để hỗ trợ, vun đắp, giúp đỡ cho ca trưởng nhằm mục đích chăm sóc ca đoàn, để hoàn thành trách nhiệm đàn hát này.  Còn nếu như việc đàn hát không phải là chính yếu, thì lúc bấy giờ, ta nên kiếm cái tên gọi khác để thay cho chữ ca đoàn.
Vậy ca trưởng phải như thế nào?  Thật vậy, để đúng vai trò người ca trưởng, thì có rất nhiều đòi hỏi… Theo ý tôi, để được mọi thành phần trong ca đoàn nhịp nhàng sát cánh, không nhiều thì ít, trước hết, ca trưởng phải có năng khiếu âm nhạc; kế đến, phải được học hành chuyên môn một cách tử tế, phải có lòng đạo đức, phải tha thiết với công việc phục vụ; và cuối cùng, là phải hết lòng yêu mến, tin tưởng và tôn trọng ca viên của mình.  Tôi chợt nghĩ, có lẽ vì một số các ca trưởng không đủ kiến thức, hoặc không có các yếu tố như tôi vừa nói, hoặc hát ca đoàn lâu năm rồi mọi người bảo lên đánh nhịp, và cũng có thể vì hoàn cảnh bó buộc phải làm ca trưởng nên mới sinh ra chuyện nội quy “lý tưởng” này…, mà từ đó, đoàn trưởng hoặc ban điều hành có thể mời ca trưởng nào khác về giúp, để luân phiên hoặc thay thế đánh nhịp!  Theo như tôi hiểu, những ca trưởng này hình như chỉ là những người thợ đánh nhịp hoặc giữ nhịp cho ca đoàn hát khỏi phải lộn xộn.  Có thể nói, đây là những anh chị mà “không mợ chợ cũng đông”.  Nhưng ca trưởng thực thụ thì phải là người nắm giữ linh hồn của ca đoàn, mà qua đó thể hiện được linh hồn của tác phẩm mà ca đoàn muốn trình bày.  Vì vậy, thông thường ca đoàn chỉ có một ca trưởng là như thế.  Theo như tôi biết, hầu hết các ca đoàn hoặc dàn nhạc danh tiếng trên thế giới cũng như thế.  Ca trưởng phải quí trọng thời gian của mọi người đã hy sinh đến học hát, cần phải coi buổi học hát là một bữa tiệc âm thanh mà mình có bổn phận phải làm cho phong phú, phải làm cho nó mới mẻ mỗi ngày, để mỗi lần đi học hát là mỗi lần các ca viên có thể học thêm được một cái gì đó, không riêng phương diện chuyên môn mà cả những mối tương quan thông thường nữa.  Vì thế, nếu muốn ca đoàn phát triển cách bền vững thì các ca trưởng thực thụ phải hy sinh nhiều, phải cố gắng không ngừng về mọi mặt, để làm sao cho các ca viên yêu thích việc đi học hát.
Theo một số thông tin ghi nhận bấy lâu nay, phần nhiều các ca đoàn khi bắt đầu thành lập, thì người tuyên bố thành lập thường sẽ là ca trưởng; bởi vì họ chắc chắn phải là người có khả năng ít nhiều trong việc dạy hát…  Tuy là cũng có những trường hợp do ai đó thành lập xong, rồi mời ca trưởng nào đó về huấn luyện.  Nhưng có thể nói là đa số các ca trưởng hiện nay trong các ca đoàn lớn nhỏ ở xứ đạo đều là người thành lập ca đoàn và họ tự chăm sóc.  Thông thường, những ca trưởng này sẽ rất yêu quý ca viên của họ và làm việc một cách tận tình, như vậy mới có thể tốt đẹp được.  Khi đó, ca trưởng hiểu hết các ca viên của mình, biết khả năng hoặc giới hạn của mỗi ca viên và ngay cả những tâm tính của họ nữa.  Từ đó, ca trưởng dễ có cái nhìn tổng quan và dễ dàng có những giải pháp này khác để phát triển ca đoàn.
Nhân đây, xin kể hai câu chuyện nhỏ có thật: một là, tôi có người bạn cũng là nhạc sỹ.  Anh cũng thành lập một ca đoàn đến nay đã hơn mười năm.  Cũng như tôi, anh đã hết lòng yêu quí từng ca viên trong ca đoàn, tha thiết vun đắp mỗi tuần; nào là dạy nhạc cho ca viên; sáng tác bài hát cho hợp phụng vụ; làm sách hát…  Ca đoàn ngày càng phát triển nhân sự, hát ngày càng tốt hơn.  Vì nghĩ rằng muốn cho công việc trôi chảy hơn và có người chia sẻ, nên anh thành lập ban điều hành.  Ban điều hành có đoàn trưởng và hai đoàn phó, một lo nội vụ một lo ngoại vụ, thủ quỹ, mà chưa có các trưởng bè.  Thời gian đầu, những người này rất nhiệt tình, năng nổ.  Việc gì anh ca trưởng đề ra, họ cũng sẵn lòng làm, không nề hà chi.  Chẳng qua, anh đoàn trưởng cũng chẳng biết tí gì về âm nhạc.  Trước đây, anh được ca trưởng kêu gọi vô hát trong ca đoàn là phúc lắm rồi.  Giờ đây, anh được cắt cử lên chức đoàn trưởng!...  Nhưng không lâu sau, một buổi tối, đang khi anh ca trưởng dạy hát cho ca đoàn, anh đoàn trưởng đề nghị tạm nghỉ giữa chừng.  Ca trưởng hỏi lý do, anh trả lời rằng: để ca đoàn đi viếng đọc kinh cho người quá cố trong xứ đạo!   Sau chốc lát ngập ngừng vì sợ ca viên bị hoang mang, anh ca trưởng cũng thuận theo, nhưng trong lòng bao nhiêu bối rối băn khoăn…  Tuần lễ sau, chính anh đoàn trưởng đưa cho anh ca trưởng hai bản nội quy sưu tầm trên mạng, và còn nói thêm rằng: Cha sở đã duyệt và lệnh cho các ca đoàn trong xứ đạo tuân theo kể từ hôm nay.  Thế là quyền tuyệt đối của vị đoàn trưởng được Cha sở chuẩn nhận.  Vài ngày sau đó, anh đã nghe các ca viên xầm xì rằng: đoàn trưởng đang mời ông này, ông kia về dạy nhạc và đánh nhịp cho ca đoàn hát, nếu anh ca trưởng không chịu tùng phục quyền đoàn trưởng của anh ta!  Thật nghiệt ngã!  Tôi được nghe anh ca trưởng tâm sự.  Anh cho rằng nếu mình ra đi lúc này, thì có thể nhiều người sẽ nghĩ mình coi trọng cái “quyền” bấy lâu nay; mà ra đi thì đau đớn lắm!  Điều đó, như cắt đi khúc ruột của mình vậy, vì anh xem ca đoàn cũng như con của mình với biết bao tình yêu dành cho nó… Còn nếu ở lại, thì đúng là không thể làm việc được.  Anh sợ rằng, Cha sở thấy lộn xộn mà giải tán ca đoàn.  Đó là điều mà anh không muốn nhìn thấy.  Tôi đã khuyên anh cứ kiên trì thêm xem.  Bình thường thì các Cha sở thương ca đoàn lắm, không mấy ai nỡ giải tán ca đoàn đâu.  Có thể, Ngài sẽ có một giải pháp nào đó tốt đẹp hơn mình nghĩ…
Ban Hợp xướng Pio X
Chuyện thứ hai là trường hợp của chị ca trưởng nọ, cũng là môn sinh của tôi.  Chị làm ca trưởng một ca đoàn cũng trên dưới mười năm.  Chị không phải là người sáng lập ca đoàn, nhưng là người kế nhiệm.  Chị không biết quyền của đoàn trưởng là thế nào với một ca đoàn chỉ được trên mười người…  cho đến một buổi dạy hát gần đây, đang khi dạy hát thì có một anh ca viên tự nhiên đứng lên ra về, mà không nói cho chị biết gì cả.  Rồi tuần kế tiếp cũng xảy ra chuyện tương tự như vậy, nhưng là một ca viên khác ra về.  Chị thấy như thế là không ổn.  Dẫu sao thì trong một lớp học, nếu học viên có điều chi cần kíp, thì theo phép lịch sự tối thiểu cũng phải xin phép giáo viên đứng lớp trước khi ra ngoài vào giữa giờ.  Đàng này thì không, nên chị đành phải nói đôi lời về việc này.  Đang khi nói, thì anh đoàn trưởng đã ngắt lời rằng chị là ca trưởng thì chị chỉ có việc dạy hát thôi!  Còn những chuyện khác để đoàn trưởng lo!  Anh lấy lý do rằng: các ca viên ra về là đều đã xin phép anh rồi, và khi anh đã cho phép thì cứ việc ra về, không cần phải nói cho ai nữa kể cả ca trưởng trong lúc đang dạy hát…  Đây không phải là vấn đề của quyền hành, nhưng điều này đã làm tổn thương đến uy tín và danh dự của chị.  Chị thấy rằng, không thể tiếp tục được nữa và đã xin nghỉ hẳn ca đoàn, vì theo chị, nếu cứ tiếp tục như thế này, chị sẽ không thể kiểm soát được tình trạng của ca viên, hoặc không thể biết được sự hiện diện của họ, để ước lượng thời gian học hát.  Như vậy, chỉ có phí sức, mà ca đoàn cũng sẽ không thể phát triển nổi!
Đúng thật!  Phải là một ca trưởng mới có thể thông cảm thấu đáo cho một ca trưởng.  Để có một bài hát đưa ra tập cho ca đoàn, cần biết bao nhiêu thứ để chuẩn bị, biết bao tiêu chuẩn phải cân nhắc.  Còn những người khác, nói một cách hàm hồ là chỉ có việc hát hoặc đánh đàn theo như những gì được chỉ dạy của ca trưởng, chẳng cần phải nghĩ ngợi hay lo lắng điều chi.  Chuẩn bị bài hát nghĩa là ta phải tìm kiếm, hoặc sáng tác hoặc chọn bài hát có sẵn, sao cho phù hợp với ý ngày lễ, phù hợp hình thể âm nhạc, phù hợp với động tác phụng vụ lúc đó, phù hợp với khả năng của ca viên, phù hợp khả năng người chơi đàn.  Nếu bài nhạc khó, phải tính đến thời gian tập luyện là bao nhiêu lâu, liệu rằng tất cả ca viên đều có mặt trong các buổi tập theo thời gian được dự tính không, hay là buổi thì người này xin vắng, buổi thì người kia xin nghỉ…  Như vậy, nếu ca trưởng không biết hoặc không quản lý được tình trạng nhân sự, thì sẽ không thể ước tính được thời gian tập luyện phù hợp.  Điều thật dễ hiểu!  Đối với lương tri của ca trưởng, thông thường, không bao giờ dám mạo hiểm cho ca đoàn mình hát những bài hát hoặc bài đàn mà chưa được tập dượt kỹ…  Vì nếu có xảy ra sự cố sai hỏng, thì người bị chê bai trước tiên chính là ca trưởng.  Thật xấu hổ lắm thay!  Đâu mấy ai nói rằng, lỗi này là tại ca đoàn hay là tại ban điều hành!   Nhưng nếu hát tốt, đàn tốt, thì người ta sẽ khen ca đoàn đàn tốt, và hát tốt, chứ đâu có mấy ai nhắc đến những khó nhọc của ca trưởng - người dày công sắp đặt mọi thứ, lo lắng mọi thứ, thời gian tập luyện, nhân sự, ráp nối, dàn dựng, xử lý tác phẩm…!  Nhiều việc như vậy, nhưng thật sự không thể chia sẻ công việc đó cho một ai khác.  Đó là những việc mắt xích bắt buộc phải làm của người chỉ huy; và chỉ một con người chỉ huy phải làm tất cả những việc đó mới có thể đi đến một kết quả như mong muốn.  Nói đến đây, chắc cũng sẽ có người chất vấn rằng: ca trưởng lo nhiều việc như vậy, thì phần nhân sự hãy để cho đoàn trưởng và ban điều hành quản lý cho; nếu thiếu người thì ban điều hành sẽ kêu gọi thêm cho đủ số ca viên…  Tôi không nghĩ như vậy là ổn.  Chắc chắn các ca trưởng có lương tri cũng giống như tôi ở điểm này rằng, ca trưởng thực thụ không quản lý ca viên bằng những con số, nhưng quản lý và chăm sóc họ bằng cách nhận diện rõ mỗi người là một gương mặt đáng yêu và khả năng cụ thể của từng người là như thế nào, giọng ca của mỗi người cao - thấp - trong - đục ra sao, ca viên nào hơi dài hơi ngắn…  Ca trưởng biết rõ ràng từng con người.  Nhờ vậy, ca trưởng mới có thể phân bổ, dàn dựng và xử lý cách hát ở các bè sao cho hay, cho đúng.  Thật vậy, trong mỗi buổi học hát của ca đoàn, nếu có vắng bất kỳ ca viên nào ca trưởng cũng đều biết cả.  Vì mỗi một ca viên là một chất giọng, là một gương mặt, là một khả năng nào đó mà người ca trưởng đã phải hình dung cũng như định đoạt sẵn trong chương trình làm việc của mình.
Cũng có thể sẽ có những ý kiến khác cho rằng, đa số các ca đoàn xứ đạo bây giờ cũng chỉ hát những ca khúc, mà những ca khúc này cộng đoàn già trẻ lớn bé đều quen thuộc cả, lâu lâu mới có một số ít tác phẩm mới, lúc đó mới cần phải tập cho tử tế thôi.  Nói như thế, việc dạy hát một ca khúc một bè hoặc hai bè cũng đâu có phải khổ công nhiều.  Chỉ có những khi gần đến lễ trọng như Giáng sinh, Phục sinh, thì ca đoàn mới cần tập những bài lớn có nhiều bè.  Vậy thì bình thường đi học hát là chỉ để ôn lại những ca khúc, mà nếu có tập luyện để hát mạnh nhẹ, xem ra cũng chẳng cần thiết nữa, bởi vì hầu hết tất cả các bài hát của ca đoàn dùng trong thánh lễ khi hát lên thì cộng đoàn cũng có thể hát theo rồi!   Nếu thế, quả thực người ca trưởng và ca đoàn trong hoàn cảnh này chẳng có gì để bàn.  Họ cũng không thuộc phạm trù lý tưởng của ca trưởng trong bài viết này.
Hơn nữa, chúng ta cũng có thể nói đến một thái cực khác.  Giả như các ca viên và ca trưởng đi hát ca đoàn được trả thù lao xứng đáng với công sức của họ, thì lúc đó mọi thành phần trong ca đoàn sẽ phải có một trách nhiệm nhất định.  Ca trưởng phải được học hành chuyên môn để có thể làm đúng phần việc của mình.  Ca viên được tuyển chọn phải xướng âm giỏi và phải có giọng ca phù hợp với bè của mình, người chơi đàn cũng vậy...  Và như vậy, việc đàn hát của ca đoàn chắc chắn phải là một việc làm nghiêm túc của mọi người trong ca đoàn.  Theo ý tôi, lúc đó mọi cơ cấu tổ chức điều hành dù đơn giản hay phức tạp sẽ dễ dàng được chấp nhận.  Trường hợp này có lẽ là lý tưởng thật, nhưng chắc phải còn lâu lắm ở các cộng đoàn giáo dân Việt Nam chúng ta mới có thể thực hiện được, kể cả các cộng đoàn Việt Nam tại hải ngoại.
Để kết luận, nếu ca đoàn xứ đạo nào có một cơ cấu giống như hai trong số bảy bản nội quy ca đoàn mà tôi đọc được trên mạng, gồm đoàn trưởng, đoàn phó, ca trưởng, trưởng phó bè… để điều hành.  Trong đó, ca trưởng là người chuyên môn, là người có trách nhiệm chính trong vai trò chính của ca đoàn, cũng được chỉ định phân công bởi cơ cấu này.  Như vậy, tôi nghĩ nó chỉ phù hợp với nơi nào không có người có khả năng làm ca trưởng thực thụ, phải nhờ đến những anh chị em “lão làng”, hoặc nhờ những người biết một chút nhạc, hoặc phải nhờ những ca trưởng ở địa phương khác đến giúp…, thậm chí có ca đoàn mời cả sinh viên nhạc viện về làm ca trưởng, mặc dù em này không có đạo!...  Còn đối với một ca đoàn đã có một ca trưởng được học hành chuyên môn một cách tử tế, đáp ứng được những đòi hỏi của một ca trưởng thực thụ thì không thể áp dụng cơ cấu ấy như đã bàn giải ở trên.  Điều này giống như việc đặt lưỡi cầy trước con trâu vậy!   Khi nhìn đến cơ cấu của Hội đồng mục vụ giáo xứ của một xứ đạo, chúng ta cũng thử nghĩ xem, để xứ đạo tốt đẹp thì Hội đồng mục vụ giáo xứ phục tùng Cha sở hay ngược lại?  Tôi nghĩ, giả như có chuyện chẳng lành, Cha sở phán một lời thì Hội đồng cũng chẳng còn ai.  Đó mới là điều bình thường mà không thể có chuyện ngược lại.  Chỉ đơn giản rằng, Hội đồng mục vụ giáo xứ được lập ra để phụ giúp Cha sở chăm sóc xứ đạo.  Theo tôi, ca trưởng thực thụ của một ca đoàn phụng vụ cũng giống như vậy, hoặc có thể nói ca trưởng là một thừa tác viên được Thiên Chúa mời gọi, phú bẩm năng khiếu và tuyển chọn cách riêng mà không phải ai cũng thay thế được.
Ngày 27.5.2013

An-tôn Tiến Linh
(tài liệu từ NS. AntônTiến Linh)
NS.Antôn Tiến Linh và ban Hợp xướng Pio X.
(ảnh: từ Internet)

TÔN VINH ĐỨC MẸ

Ủy Ban Thánh Nhạc: Thánh ca tôn vinh Đức Mẹ
Bài: Xuân Đại & Ảnh: Văn Chức - Văn Thân
T5, 17/10/2013 - 07:15
WGPSG -- “Tôi có cảm nghĩ mang tính chủ quan: Tôn giáo nào mà có khả năng đi vào trong văn hóa nghệ thuật và cụ thể là âm nhạc, thì đấy là dấu chứng, niềm tin tôn giáo ấy đã ăn sâu vào trong tâm hồn của con người”.

Trên đây là chia sẻ của Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm, Giám mục phụ tá TGP TPHCM, trong đêm Thánh ca tôn vinh Mẹ Maria, diễn ra vào lúc 19g00 ngày 14.10.2013, tại Hội trường GB Phạm Minh Mẫn, Trung tâm Mục vụ (TTMV) TGP TP.HCM, với chủ đề “Kính mừng Maria”, nhằm ngợi khen chúc tụng Mẹ Maria trong tháng Mân Côi.
Khoảng 500 người đến thưởng thức đêm nhạc, ngồi chật kín hội trường lớn của TTMV, tạo nên bầu khí đại gia đình giáo phận hướng lòng về Mẹ Maria. Đặc biệt hiện diện trong đêm nhạc có Đức cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản -  Giám mục Giáo phận Ban Mê Thuột - Chủ tịch UBTN/HĐGMVN, Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm - Giám mục phụ tá TGP TP.HCM, Cha Rôcô Nguyễn Duy - Trưởng ban Mục vụ Thánh nhạc TGP - Tổng Thư ký Ủy ban Thánh nhạc thuộc HĐGMVN, Cha Andrê Đỗ Xuân Quế - nguyên Trưởng ban Thánh nhạc (TBTN) TGP TP.HCM, Cha Phêrô Mai Tính  (Linh mục nhạc sĩ Mi Trầm) - TBTN giáo phận Nha Trang, cha Matthêu Nguyễn Văn Hiền, TBTN giáo phận Vĩnh Long, quý cha đang phục vụ tại TTMV và quý tu sĩ nam nữ, cùng đông đảo các bạn trẻ đến từ khắp nơi trong giáo phận.
Ban hợp xướng cùng dàn nhạc Piô X, dưới sự điều khiển của nhạc sĩ kiêm nhạc trưởng Tiến Linh, đã đem lại cho cộng đoàn một bầu khí cầu nguyện thật sốt sắng qua các bài thánh ca nhẹ nhàng, êm dịu, như chia sẻ của Đức cha Phêrô: “Khi các anh chị hát “Trên con đường về quê”, “Kìa ai dong duổi đường gió bụi”, thì tôi thấy lòng mình cũng hát lên, không phải là hát trên môi miệng mà là hát trong tâm hồn. Và như vậy là tôi đang cầu nguyện”.
Chương trình diễn tả qua 2 phần chính. Phần một gồm những bài thánh ca ngợi khen Mẹ Maria của các nhạc sĩ Việt Nam. Phần hai, gồm những nhạc phẩm Magnificat (Kinh Ngợi khen) bằng tiếng Latinh của Johann Sebastian Bach (nhạc sĩ thiên tài người Đức).
Trong phần một của đêm nhạc, cộng đoàn đã được tận hưởng không khí âm nhạc thật nhẹ nhàng qua những bài thánh ca: “Nào cùng hợp lời”, “Lời Mẹ nhắn nhủ”, “Kìa ai”, “Sao biển”, “Mẹ vinh quang”, “Lạy Đức Mẹ Mai Khôi”, “Kính mừng Maria”, “Trên con đường về quê”. Những cảm xúc tuy nhẹ nhàng nhưng sâu đậm tạo nên bởi những bài thánh ca Việt Nam này đã làm nhiều người rưng rưng nước mắt khi hồi tưởng về cả một thời thơ trẻ được gắn bó với Mẹ Maria kính yêu nhờ những bài hát này.
Trong phần hai, khi trình diễn 11 phần của nhạc phẩm Magnificat do Johann Sebastian Bach sáng tác, Ban hợp xướng đã cho cộng đoàn thấy những nét rất điêu luyện và vẻ đẹp thật hùng vĩ của thánh nhạc - như nhận xét của Đức cha Phêrô.
Đêm nhạc được khép lại lúc 20g30 với những lời chúc mừng và tri ân. Đức cha phụ tá Phêrô Nguyễn Văn Khảm đã bày tỏ cảm tưởng và, thay mặt gia đình TTMV cùng Ban Tổ chức, cảm ơn các ca viên trong Ban hợp xướng đã dày công tập luyện để có được đêm trình diễn thánh ca thật “thịnh soạn”. Trước phép lành kết thúc đêm nhạc, Đức cha Vinh Sơn đã thay mặt Ban Tổ chức tặng hoa cho nhạc sĩ, kiêm nhạc trưởng Tiến Linh.
Trước khi ra về, các khách quý đã chụp chung tấm hình lưu niệm với Ban hợp xướng.
NGUỒN : (tại đây)
Mời nghe Audio toàn bộ chương trình (Anh Tuấn thực hiện ) : (tại đây)

Chủ Nhật, 20 tháng 10, 2013

TUNG THEO GIÓ BAY


 Bạn sưu tầm trên Internet,gửi cho mình bài dưới, mình đọc là nhớ lại như in hôm mẹ mình nằm ở phòng cấp cứu bệnh viện đa khoa Tân Bình. Mẹ hôn mê suốt đêm, sáng ra mở mắt hỏi đây là nhà mình hay bệnh viện, mừng quá mở Ensure định pha cho mẹ nhưng tối đi vội không kịp mang phích. Đi tìm khắp khu, xuống cả căng- tin cũng chưa bán nước nóng. Thân nhân giường bên bảo ra cổng. Ngay cổng bệnh viện có hàng cà phê bình dân, trong góc quán có ấm nước đang sôi bốc khói, mình hỏi mua nửa ly nước nóng, vợ chồng chủ quán cà phê nhất định không bán...Nhất định không bán là không bán. Mình đứng sững, nhìn kỹ vào mặt hai anh chị. 
Người Saigon mình học thói lạnh lùng từ bao giờ vậy ta !
Thôi không muốn kể tiếp nữa. 
Chuyện gì người làm cho ta buồn hãy tung theo gió bay....
ht.

                         NƠI LẠNH NHẤT...

Một buổi sáng... 
Thằng bé mặc bộ quần áo rách phong phanh bước chân sáo trên đường mặc gió lạnh. 
Nó ghé vào một hàng phở nhỏ, nghèo nàn bên góc phố, đường hoàng nói lớn:
- Dì bán cho con tô phở ba ngàn đem về.
Bà hàng phở nhìn nó rồi lại cụp đầu xuống. 
Tưởng bà không nghe, nó nói càng to hơn. 
Nào ngờ, bà mắng xối xả:
- Tao không bán. 
Mới sáng mà mày đã tới ám tao hả thằng ăn mày! 
Mua ít vậy sao tao bán? 
Nó cúi gằm mặt, nắm chặt mấy tờ bạc lẻ nhàu nát trong tay rồi lầm lũi bước đi. 
Nó chỉ muốn mua cho mẹ một tô phở nóng, nên để dành mãi từ số tiền ít ỏi bán vé số hàng ngày. 
Mẹ nó đang bệnh..
"Nơi lạnh nhất không phải Bắc Cực, mà là nơi không có tình thương".

Nguồn: Internet

Thứ Bảy, 19 tháng 10, 2013

NGẮM HOA-YÊU HOA


Đọc "Nụ cười - Nụ hoa" của cha Hậu xong, chợt nhớ ra mình cũng đã từng "Ra vườn hoa ém chơi", trồng hoa và được ngắm hoa. Ai chả thích ngắm nụ hoa nhỉ! Ngắm nụ cười càng yêu hơn. Mọi người, ngay cả những bệnh nhân tự kỷ, ai cũng thích người khác cười với mình, miễn là cười cho tự nhiên, cười thành thật, chứ đừng cười ni-lông, cười đất sét, ấy là kiểu ví von hoa thật-hoa giả. Ước gì hai bên đường đầy hoa, hoa nụ, hoa hàm tiếu, hoa nở xòe....("Hoa nào heo héo thì hái bỏ đi , chớ để làm chi ứ ư ư ừ hoa tàn").


1. 
Mình nhớ ngày còn bé, lên tám lên mười, hai chị em mình hay chành chọe cãi nhau. Mỗi lần tức với Cu Vê, mình hay gào khóc , la hét , đuổi theo nó mà rằng : "Mày cứ liệu hồn tao". Mỗi lần nghe câu ấy, cả nhà  lại nhìn mình phì cười. Mình ngạc nhiên lắm, quên cả giận thằng em, cứ tròn mắt  ơ kìa hay nhỉ, sao cả nhà không bênh vực mình là con gái mà quở phạt nó đi, nó là em mà cứ trêu chị , lại còn cười nhạo mình gì vậy, không hiểu. Nhưng sĩ, không hỏi. Không  lẽ bảo sao bố mẹ anh chị lại cười con ư ! Chỉ sợ hỏi thế cả nhà càng cười to hơn thì Cu Vê đắc ý, khoái chí, tức lắm đành chịu. Mãi sau, một lần mẹ mới chỉ cho cách mắng em : "Ngố quá, phải nói là mày cứ liệu hồn mày mới đúng chứ". Nghe ra, lúc ấy ngượng quá thể ! Thảo nào !
 Bây giờ nhớ lại, thấy vui, hóa ra chỉ vì cái sự ngố ấy, cả nhà  mình không ít lần đã trở thành những vườn hoa lung linh lung linh...

2.
Phượng kể, chồng Phượng có lần bực bội, làu bàu mắng cháu Nội : "Hư quá, bị đòn thôi, ra đây ông đánh cho không một cái roi nào vào mông". Hỏi, thế cháu nó có hiểu không, bạn bảo hiểu, nó cười rũ, chả sợ ông nữa. Cả nhà lại cười. Lại một vườn hoa nhà Phượng rung rinh rung rinh....

3.
Một lần nọ, sáng sớm hai cha con trông thấy nhau. Cha Bài gút - mo - ninh mình :
- "Chào chị Hải Triều. Sao, hôm nay chị có bớt mạnh khỏe không ?"
Nghe lời chào ấy của cha, bấy nhiêu người có mặt liền nở hoa ngay tắp lự. Hôm ấy những nụ hoa xòe hết cỡ, to đùng, chẳng có ngọn gió nào lung linh, rung rinh nổi, nghe vang cả nhà kakakakakakakakaka, cha vui tính quá ! 

Cứ thế, hoa nở tự nhiên, làm đẹp mọi nơi, làm tươi mặt mọi người.
ht.

Thứ Năm, 17 tháng 10, 2013

NỤ CƯỜI – NỤ HOA


NỤ CƯỜI – NỤ HOA

Lm Piô Ngô Phúc Hậu
Trích BGCN/TGPSG tháng 09/2012

1.Trong căn phòng nhạt nhòa ánh đèn trong đêm, bà cụ già ngồi xếp bằng, thì thầm lần hột. Bỗng có tiếng gõ cửa dồn dập.
 - Đứa nào vậy?
- Thưa mẹ, con đây.
- Cái ông này lại phá người ta rồi. Làm linh mục mà vẫn nghịch như giặc… Để cho mẹ đọc kinh.
- Con biết mẹ đang đọc kinh, nhưng con có chuyện khẩn trương, xin mẹ cho con vào.
- Ừ thì vào đi.
 Cha Quỳnh đẩy cửa đi vào, ngồi bên mép giường của mẹ. Ông chắp tay xá mẹ một cái.
 - Mẹ ơi, con có một chuyện bức xúc quá, không nói ra thì không chịu được. Mẹ đừng giận con, đừng đánh con nha.
- Ai mà dám đánh ông. Đánh ông để mang vạ tuyệt thông hả.
- Mẹ ơi, con là con trai út của mẹ. Con không có em, con thèm muốn chết, mà bố thì chết mất rồi. Vậy con đề nghị mẹ bước thêm bước nữa để con có thằng em trai.
- Thằng quỷ, làm cha rồi mà còn nghịch như quỷ vậy.
   Bà cố vơ vội cái quạt giấy đánh liên hồi vào lưng ông con. Vừa đánh vừa cười.
 - Mẹ ơi, mẹ tha lỗi cho con nha. Từ lâu con đã hứa với Chúa rằng mỗi ngày con phải làm ít nhất cho một người vui cười một lần. Nếu không thì không được đi ngủ. Hồi nãy khi xét mình con thấy ngày hôm nay con chưa làm cho ai cười. Vì thế con nghỉ đến mẹ. Bây giờ con đã làm cho mẹ cười. Thế là con đã chu toàn bổn phận của con đối với Chúa. Con xin phép mẹ đi ngủ. Chúc mẹ ngủ ngon.
  Nói xong cha Quỳnh lủi về phòng riêng, vừa đi vừa cười. Còn bà cụ, mẹ của cha Quỳnh thì tủm tỉm cười mãi cho đến khuya.
  Bà cứ nghĩ mãi về đứa con trai út. Khi còn ở trong bụng mẹ, nó là một thai nhi chòi đạp nhiều nhất. Khi ra chào đời, nó là đứa bé khóc dữ nhất. Khi bú mẹ thì nó vừa bú vừa nhún nhảy như muốn đánh đu. Miệng thì mút chụt chụt, còn tay thì vỗ vỗ, đập đập. Khi biết lẫy, biết bò và biết đi chập chững, thì cái miệng lúc nào cũng cười toe toét. Khi vào học ở chủng viện thì chuyên môn chọc cười thiên hạ. Khi đi cải tạo thì chung vui cho anh em đồng cảnh. Bây giờ vì thời thế phải tạm thời về bên cạnh mẹ già thì cũng chăng biết buồn là gì… Đây là đứa con mà bà có nhiều kỉ niệm nhất, được bà thương nhất. Bà thầm gọi nó là một thiên thần tung hoa. Cánh hoa rơi lả tả trên đầu, trên vai của mọi người. Cánh hoa rơi đầy trên cả lối đi khúc khuỷu của cuộc đời.

***

2. Tại một vùng nông thôn hẻo lánh, vừa rất sâu, vừa rất xa, lại mọc lên một dãy nhà lá mà người ta cứ gọi là trạm xá. Nó tọa lạc ngay trong khuôn viên của nhà thờ. Cha sở không có bằng tiến sĩ về y khoa, nhưng người ta cứ gọi là ông bác sĩ giám đốc. Dường như ông không theo học tại một trường y khoa nào. Dường như ông chỉ học mót, học lóm với mấy người thầy thuốc có tài. Mót mãi mót mãi ông có được một ôm kiến thức về y khoa. Y khoa bên Đông, y khoa bên Tây. Rồi bỗng dưng ông có bằng “lương y”. Ông mặc áo blouse trắng, ngồi coi mạch, chẩn bệnh, kê toa và phát thuốc nhân đạo.
 Bệnh nhân nghèo tìm lại được sức khỏe mà không tốn tiền. Uy tín của ông bay lên như diều. Diều cao, có gió kêu vi vu. Thế là cái trạm xá bé tí bỗng phải cơi nới. Một trăm, hai trăm, ba trăm bệnh nhân từ khắp nơi dồn về. Trạm xá phải miễn cưỡng trở thành bệnh xá. Y sĩ, y tá, y công gia tăng trở thành đội ngũ nườm nượp đi ra đi vào, đi tới đi lui. Ban hậu cần phải hì hục nấu cơm cho năm trăm phần ăn, cho mỗi bữa, cho mỗi ngày. Ân nhân từ trong ra tới ngoài nước đều vui vẻ mở hầu bao và mở từ tâm….
 Bỗng có một biến cố xảy ra.
 Tít bên sông, ngay trước cổng nhà thờ, hai anh y tá khiêng một bệnh nhân cần cấp cứu đi vào bệnh xá. Cái cáng khiêng bệnh nhân được đặt nằm giữa phòng. Hằng mấy chục bệnh nhân đang nằm viện vội vàng ngồi dậy, chạy ngay đến chỗ đặt cái cáng để xem. Bệnh nhân cấp cứu nằm im re, chăn phủ kín từ đầu đến chân. Mọi người xì xào hỏi hai y tá:
 -         Ai đấy?
-         Bệnh gì vậy?
-         Đàn ông hay đàn bà?
-         Mời cha sở xuống ngay ngồi tòa và xức dầu cho người ta kẻo không kịp.
 Hai anh y tá lầm lầm lì lì không thèm trả lời. Bầu khí căng thẳng quá chừng!
 Bỗng bệnh nhân cấp cứu tung chăn, đứng phắt dậy, giang tay, cười hề hề. Đó là cha sở, giám đốc bệnh xá. Cả nhà cười ầm lên, cười đến bể bụng luôn.
 Chẳng biết trên hành tinh này đã có ông giám đóc bệnh viện nào đùa nghịch như thế không? Tưởng là chuyện tiếu lâm. Thế mà lại là chuyện thật. Người tò mò đến tận nơi để chất vấn cha sở:
 -         Tại sao cha là linh mục, là giám đốc bệnh xá mà lại đùa giỡn một cách quá đáng như vậy?
-         Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ.
 Ông giám đốc bệnh xá chỉ trả lời gọn lỏn có bấy nhiêu.
 Mà đúng thế thật. Cười là hạnh phúc. Hạnh phúc cho ta sức khỏe. Một nụ cười chẳng tốn xu nào. Mười thang thuốc trị giá một túi tiền. Kiếm tiền đâu có dễ. Cười và làm cho người ta cười là con đường ngắn nhất để đưa ta tới sức khỏe và hạnh phúc. Nụ cười là nụ hoa.

***

3/                                
“Ra đường thì gặp công nông
Về nhà gặp vợ, vợ không nói gì”
 Đó là câu ca dao phổ biến tại miền Bắc vào thời đang bước vào “đổi mới”. Xe công nông là xe cải tiến và tự chế, không có trong danh sách của cảnh sát giao thông. Đi nghênh ngang và chở đồ cũng nghênh ngang làm khổ người đi đường. Gặp nó thì bực bội, nhưng chẳng làm được gì nó. Khổ thì cắn răng mà chịu. Cãi và đánh nhau với nó, thì từ bị thương đến bị thương. Không chết, nhưng chết dở. Đó là cái khổ của đàn ông khi ra sống giữa trường đời.
 Cái khổ giữa đời là thế. Còn một cái khổ nữa hiện hữu và trường tồn ngay trong gia đình. Đó là bà vợ “không nói gì”. Người đàn ông đầu tắt mặt tối trên cánh đồng, trong nhà máy… để kiếm tiền nuôi vợ con. Mỗi lần về nhà mà thấy vợ tíu tít, toe toét, thì mồ hôi thôi chảy, cực nhọc tan biến. Nhưng nếu chẳng may về nhà thấy vợ lầm lầm lì lì, chẳng nói, chẳng rằng… thì khổ ơi là khổ.
 Một cụ già trải qua năm mươi năm sống đời vợ chồng đã tâm sự với bạn bè một cách tếu táo thế này:
 -         Khi nào vợ tớ mà lầm lì  không nói, thì tớ phải làm cho bà cười hi hi tớ mới thôi.
-         Cậu làm cách nào để cho vợ cười?
-         Tớ cứ cù vào nách. Nếu không chịu cười thì tớ cứ cù mãi cho tới khi bà phải đầu hàng thì tớ mới thôi. Chồng cười, vợ cười, con cái cười. Thế là bao nhiêu buồn phiền đều tan đi như mây khói.
 Ông già ấy bây giờ không còn nữa, nhưng cái trò cù nách vợ để kiếm nụ cười thì vẫn còn được áp dụng lai rai trong xóm làng. Đau khổ vẫn hiện hữu nhưng không chiếm hữu. Hạnh phúc vẫn bị đe dọa, nhưng không bao giờ đầu hàng. Chỉ vì nụ cười vẫn nở như nụ hoa.

***
4/ Một linh mục đi tù. Hỏi tại sao, ông chỉ cười trừ. Ông ngồi ăn cơm với bảy đồng cảnh. Tám người ngồi xếp bằng trên sạp, tạo thành một vòng tròn đẹp. Giữa vòng tròn là một thau cơm và một hũ muối. Cơm gạo lứt có mầu tím sám. Muối hột không trắng không đen. Ông bới một chén cơm vơi vơi. Ông chậm rãi và một miếng nho nhỏ. Ông nhai, nhai mãi. Nhai để tập thể dục cho hai hàm răng đang thiếu canxi. Nhai để cảm thấy vị ngọt đang rỉ ra và thấm xuống họng. Ông gắp một hột muối bỏ vào miệng. Ông cảm thấy vị mặn thấm vào chân răng. Ông thầm nghĩ: phải có mặn mới có mặn mà; muối mặn làm cho đời thêm mặn mà. Hoan hô muối! Tiếng muối vỡ vụn nghe rạo rạo. tạo nên một thứ âm thanh đơn điệu nhưng rất vui. Vui giữa bầu khí buồn man mác.
 Ông vừa nhai hết chén cơm vơi vơi thì các đồng cảnh đã buông đũa. Mỗi người đều ngốn hết từ ba đến bốn chén. Thấy đồng cảnh ăn nhanh và nhiều như thế, ông linh mục cười thầm trong bụng. Cứ cười thầm thôi cũng đủ biến ngục tù thành vườn hoa. Nụ cười là nụ hoa.

MỘT HỌC TRÒ CÓ NHIỀU THẦY CÔ


MỘT HỌC TRÒ CÓ NHIỀU THẦY CÔ
Lm Piô Ngô Phúc Hậu
Trích từ BGCN TGP/SG tháng 6.2012

1/ THẦY SẦU RIÊNG
Mình đi dạo lang thang trong vườn Đan viện Xitô. Vườn mà mênh mông như rừng. Bỗng xuất hiện một hàng sầu riêng. Mình đếm một, hai, ba, bốn…. đếm mãi mới hết. Lá sầu riêng lưa thưa không che được cái lõa lồ của trái. Kẽ nách này một chùm. Kẽ nách kia một quả. Không muốn giấu giếm, không thèm che đậy. Mình cười thầm trong bụng: “Khoe của”.
 Mình thì thầm đếm. Mình im lặng ngắm. Trên màn ký ức xuất hiện biết bao kỷ niệm vui buồn về trái sầu riêng. Bất giác mình thốt lên: ”Chào thầy”.
 Mình vẫn coi trái sầu riêng là bậc thầy dạy mình rất nhiều về nhân tình thế thái. Trên thế giới hiện nay có bảy tỷ người, thì có lẽ 95% chẳng biết trái sầu riêng là gì. Còn lại 5% thì chia làm hai phe. Phe này ca tụng sầu riêng là: “ngon tuyệt vời”. Phe kia thì chửi sầu riêng là: “thối như xác chết”. Phe ca tụng thì lầm lầm lì lì cứ ngồi ăn hì hục. Vừa liếm láp vừa mút mát. Liếm mút đến trơ trụi cái hột, đến nhẵn nhụi mười đầu ngón tay. Ăn rồi vẫn tiếc hùi hụi…
 Phe chửi thì ấm ĩ, mạt sát không tiếc lời. Lại còn ví von để bêu diếu: “Vàng vàng như…, nhão nhão như…, thum thủm như….”
 Mình đứng ở giữa không theo bên nào nhưng vẫn tự hỏi: “Ai đúng ai sai”. Ai cũng bảo mình là đúng và họ nói với tất cả tấm lòng thành của mình. Cuối cùng mình phải hỏi trái sầu riêng: “Sầu riêng ơi, mày thơm hay mày thối?”. Có tiếng trả lời: “Tương đối thôi”. Thì ra khả năng con người chỉ có thế. Đành phải chấp nhận nhau, tìm hiểu nhau và thông cảm với nhau thôi.
 Thầy sầu riêng ơi, em cám ơn thầy.

2/ CÔ MAI
Ông nhà vườn đang chuẩn bị hốt bạc. Ông trồng 1.000 cây mai. Ông chăm bẵm như cô bảo mẫu chăm sóc bé thơ. Ông bón phân. Ông tưới nước. Ông đo nhiệt độ ban ngày và ban đêm. Ông đo chiều cao của thân cây và chiều dài của cành xòe. Ông đi tới đi lui. Ông dừng chân và nhìn ngắm. Ông đặt tay lên trán và suy nghĩ… Người ta bảo ông nhà vườn phải lòng vườn mai.
 Rồi bỗng dưng ông quên vườn mai. Không bón phân. Không tưới nước… Người ta tưởng ông ngã bệnh nặng… Không phải. Ông mê cờ tướng, ngồi đánh cờ suốt ngày. Người ta xì xào: “Bán đồ phi phế”; “Đánh trống bỏ dùi”; “Mê bồ nhí thí phu nhân”. Nói mãi chán mồm, không ai thèm nhắc đến ông nhà vườn và 1.000 cây mai nữa.
 Bỗng ông nhà vườn lại xuất hiện nhưng không tưới bón mà lại phá phách. Ông ngắt hết lá của 1.000 cây mai, biến rừng xanh thành vườn chết cháy. Một ngàn cây mai giống như một ngàn thằng chết đói, Giơ tay khẳng khiu van xin cháo thị… Người xấu mồm bảo: “Thằng khùng giẫy chết”; “Con điên xé váy”. Ông nhà vườn nghe biết, nhưng không thèm chấp nhất.
 Thời gian trôi nhanh. Ngày đầu xuân xầm xập đi tới. Rừng mai chết biến thành rừng hoa mai vàng bạt ngàn. Trập trùng. Rực rỡ. Xe cộ từ thành phố đổ về nườm nượp. Con buôn xỉa tiền nhanh như máy. Ông nhà vườn hốt tiền nhanh hơn nhân viên môi trường hốt rác. Láng giềng xấu mồm bây giờ há hốc miệng. Chết điếng!
 Từ ngày ấy, hễ cứ thấy cây mai thì mình lại ngắm nghía và suy nghĩ, rồi buột miệng: “Chào cô”.Cây mai là hình ảnh tuyệt vời để mình suy niệm Mầu nhiệm Cứu Độ: “Từ thụ nạn đến Phục Sinh”, “Từ khổ giá đến vinh quang”.
 Cây mai cũng phải trải qua lịch sử: “Từ khổ gốc đến vinh quang”. Giáo dục trẻ em cũng phải theo gương cây mai. Mọi người muốn làm nên sự nghiệp cũng phải theo gương cây mai. Linh mục, tu sĩ muốn đạt được hào quang của bậc tu trì thì cũng phải nhận cây mai là cô giáo của mình.
 Chào Cô Mai.

3/ THẦY “SANH-SI-SỌP-GỪA”
Mình đi lượm rác chung quanh nhà thờ, nhác thấy một cây gừa thò đầu ra từ trong kẽ tường. Tức quá, mình túm lấy ngọn nó, kéo thật mạnh. Đứt ngọn. Mình lảo đảo muốn té... Mà gốc và rễ vẫn nằm gọn trong kẽ tường. Thế là nó thắng, mình thua. Mình đứng lặng suy nghĩ...
Sanh-Si-Sọp-Gừa giống như bốn thằng đàn ông có bà con với nhau. Lập trường của chúng nó là sống khỏe hơn sống đẹp. Rễ của chúng nó bủa ra chung quanh gốc cây để lấy muối khoáng y như các loại cây khác Chúng còn cho rễ bung ra khắp mọi cành, mọi nhánh. Rễ thả xuống tua tủa như tóc tiên. Rễ còn ôm chặt lấy thân cây như cánh tay vạm vỡ của thằng khổng lồ. Dùng rễ để tồn tại và tồn tại oai hùng. Nhưng để phát triển thì sao? Kế hoạch của chúng nó là không ồn ào như rễ. Chúng nó rất âm thầm và khiêm tốn.
Trái của chúng nó nhỏ xíu chẳng ai để ý. Chỉ loài chim mới thấy. Chim ăn rồi ỉa. Chim ỉa trên nóc nhà, trên đỉnh ngọn tháp. Trong cứt chim có hạt của chúng nó, hạt đó không bị hủy hoại. Nó âm thầm mọc lên. Mọc trên tháp, mọc trên ống máng, mọc trong kẽ tường. Bất khuất. Người ta tức mà chẳng làm gì được nó.
Bốn anh em nhà Sanh-Si-Sọp-Gừa vừa dạy mình một bài học về truyền giáo. Bài học ấy là:
-         Hiến thân mình làm thực phẩm nuôi chim.
-         Khiêm tốn biến thành cứt chim để được chim gieo giống hộ trên cao.
-         Sống cho trọn vẹn để hỗ trợ bất cứ tổ chức nào, bất cứ tôn giáo nào, miễn là tổ chức ấy có ý tốt. Khiêm tốn đến tận cùng, đến độ không ai biết đến, miễn là Đức Giê-su được rao giảng. Cứ thế Tin Mừng sẽ lớn lên, tồn tại, phát triển và bất khuất.
Cám ơn thầy Sanh-Si-Sọp-Gừa.

4/ CÔ ACB
Mình gặp một vị chủ chăn cao cấp, ngài vừa cười vừa kể chuyện :
Có một cô làm việc trong ngân hàng ACB. Cô mới xin học đạo và theo đạo. Đạo mới mà hơn đạo cũ : sốt sắng lắm! Nghe người ta khen mà tôi chưa gặp mặt cô lần nào. Bỗng hôm ấy, trong một dịp đại hội, có một người dẫn cô ấy đến giới thiệu với tôi.
 Đã biết chuyện và sẵn có thiên cảm với cô, tôi nói chuyện vui vẻ và cởi mở ngay.
-     Chị trở lại đạo hồi nào?
-     Thưa (ngập ngừng), con ‘đi tới’ chứ con không ‘trở lại’... Con theo đạo Phật. Đạo Phật quá hay. Bây giờ con khám phá ra là đạo Chúa hay hơn. Thế là con đi tới luôn. Con không ;trở lại’ đạo, vì con có đi sai đi lạc đâu mà ‘trở lại’...
 Kể xong chuyện, ngài nhắc nhở mình : « Coi chừng đấy nhá. Chúng ta có thói quen nói là người ngoại trở lại đạo. Nói vậy thì vừa sai vừa xúc phạm đấy... »
 Nghe chuyện « cô ACB trở lại đạo » mình hồi tưởng câu chuyện của nhà thơ Charles Péguy.
 Năm 39 tuổi Charles Péguy xin học đạo. Khi học giáo lý, anh được người giáo lý viên trình bày về Hỏa Ngục. Người ta thích nói về sự khủng khiếp của Hỏa Ngục, để người nghe vì sợ  Hỏa Ngục mà không dám phạm tội. Rõ thật là hay mà không hay.
 Sau khi kết thúc bài giáo lý về Hỏa Ngục, giáo lý viên phỏng vấn Charles Péguy.
-         Anh có sợ Hỏa Ngục không?
-         Không!
-         Ơ hay. Tại sao anh không sợ Hỏa Ngục?
-         Tôi có xuống đó đâu mà phải sợ nó.
-         Anh này buồn cười nhỉ. Tại sao anh biết là anh không xuống Hỏa Ngục?
-         Tôi biết chứ, vì Chúa không muốn cho tôi xuống Hỏa Ngục. Tôi cũng không muốn luôn.
???!!!
 Vô tình Charles Péguy trở thành thầy của giáo lý viên.
Vô tình cô ACB trở thành cô giáo của mình.
Cám ơn Thầy Charles Péguy. Cám ơn Cô ACB.

ĐÁM TANG BÀ NĂM



Đám Tang Bà Năm
 Lm. Piô NGÔ PHÚC HẬU

Cái Rắn, ngày 16-7-1995

Hôm nay Chúa nhật, sau lễ chiều, bà Sáu Sen hối mình :
 - Ông cố ơi !  Ông cố đi rửa tội gấp cho bà Năm Thân. Bà hết biết rồi. Gia đình người ta  đem xuồng tới đón.
 - Bà Năm xin theo đạo từ sáu tháng nay mà chưa rửa tội cho bà được… Thôi mình đi !
 Bà Năm nằm im lìm, hai mắt nhắm nghiền. Mình nhắc bà kêu Trời bằng cha… xin Chúa rước linh hồn bà về hưởng hạnh phúc thiên đàng với Chúa. Bà cụ cựa cái đầu, nhóp nhép cái miệng. Bà còn tỉnh, nhưng đã kiệt sức.
 - Maria, tôi rửa  bà nhân danh Chúa, và Con và Thánh Thần.
 Mình bắt tay giã từ ông Năm.
 - Tôi gởi ông Năm chút tiền để lo cho bà Năm. Tôi sẽ cầu nguyện nhiều cho bà Năm và ông Năm.
 - Ông cha nhớ là tôi và bà nhà tôi đã xin theo đạo ông cha. Con út tôi cũng theo đạo ông cha. Còn mấy đứa kia, thì tôi sẽ nói với tụi nó.
 Bước xuống xuồng, nhìn trở lại, mình thấy bà con lối xóm đã bắt đầu dựng rạp; căn nhà của ông Năm đã xiêu vẹo; cửa ra vào là một hình bình hành mà hai góc nhọn đã quá nhọn. Có lẽ nó sẽ sập xuống trước khi bà Năm ra đi.
 Sở dĩ mình lần khân không muốn rửa tội sớm cho ông bà Năm, vì mình vẫn nghĩ câu nói sau đây là một thực tế : “Đi đạo lấy gạo mà ăn”. Thủng thẳng để chờ đợi là thượng sách. Nhưng nghĩ như thế có xúc phạm đến người nghèo không nhỉ ?

 Cái Rắn, ngày 17-1-1995

Sáng nay bà Sáu Sen hớt hải báo tin :
 - Bà Năm chết rồi ông cố ơi !
 - Hồi nào ?
 - Hồi khuya  nay. Mấy chị em tụi con trực suốt đêm ở bển.
 - Hỏi gia đình người ta xem chừng nào thì chôn cất để tôi qua làm lễ an táng.
 Bốn giờ chiều mười lăm, mình xuống xuồng.
 Bà con ngồi đầy sân. Mấy chục vành khăn tang đi ra đi vào. Một người đàn ông dõng dạc tuyên bố :
 - Trước khi ông cha nhà thờ làm lễ cho bà Năm, con cháu tập họp phía trước. Lên đèn cúng…
 - Đem đồ ăn ra !
 - Có bấy nhiêu thôi sao ?  Cho thêm vài món nữa !  Tội nghiệp bả .
 Mấy chục cái đầu cúi rạp xuống để tỏ lòng biết ơn đối với “công đức sinh thành”…
 -Tôi xin công bố: nhà thờ giúp một trăm tám mươi lăm ngàn đồng, mười ký gạo và ba bộ đồ; chánh quyền ấp chúng tôi giúp một trăm ngàn đồng. Bây giờ mời ông cha phát biểu cảm tưởng.
 Mình dự tính phát biểu cảm tưởng trong bài giảng của thánh lễ. Nhưng ca đoàn chưa tới. Bèn giảng trước thánh lễ để tranh thủ thời gian.
 Ai nấy trố mắt, há mỏ để nghe ông cha trệu trạo giọng “Hànội – Sàigòn”. Với giọng nói không ngọt ngào, mình chuyển đến bà con lương dân cảm nghĩ về cái chết theo Kitô giáo: “Chết là trở về với Chúa; chết là khởi đầu cuộc sống vĩnh cửu”. Từ  đó mình gởi lời chia vui với bà Năm và xin bà Năm cầu nguyện cho bà con lối xóm, để mọi người cùng được sum họp với bà trên thiên đàng. Giảng vừa xong, thì ca đoàn tới. Thánh lễ bắt đầu.
 - Yêu cầu bà con trật tự, để ông cha làm lễ.
 Một người đàn bà cho con bú, kéo vội vạt áo xuống. Ai nấy im lặng như tờ. Ca đoàn dìu mọi người vào thế giới thần linh : “Khi Chúa thương gọi tôi về. Hồn tôi hân hoan như trong một giấc mơ…”. Lời nghe thật rõ, nghe nhạc thật dịu. Chắc hẳn người lương dân cũng cảm thấy như mình. Cái chết đẹp như thế đó.
 Mình tập trung tư tưởng để dâng một thánh lễ thật sốt sắng. Chúa Giêsu hiện diện ở đây. Mình tha thiết xin Ngài mạc khải cho bà con lương dân đang trố mắt nhìn vào Ngài. Mình tin rằng họ đang gặp Ngài bằng một cách nào đó.
 Khung cảnh quá bệ rạc. Cái bàn tròn khập khiễng. Mái lá của hàng ba thấp lè tè không đủ độ cao để mình đâng Mình Thánh lên cao theo thông lệ. Có lẽ những nhà soạn giáo luật khe khắt không cho phép mình dâng thánh lễ trong điều kiện như thế. Nhưng mình thì nghĩ một cách giản dị: Chúa ngự ở đây cũng như  Ngài đã ngự trong hang Bêlem. Cần gì phải câu nệ…
 Mình kết thúc thánh lễ, thắp cho bà Năm cây nhang cuối cùng rồi trao thời gian còn lại cho ông Hai Dưỡng…
 - Bên tôn giáo làm lễ xong. Đạo tì tiến lên. Nghiêm !  Phút mặc niệm bắt đầu. Thôi !
 Hai hàng đạo tì lực lưỡng, mặc quần xà lỏn, trần như nhộng, tràn vào, nâng bổng quan tài lên, khom mình xuống chui qua khung cửa hẹp hình bình hành, rồi đi te te ra huyệt cách đó chừng bốn chục mét. Mình xách máy chụp rượt theo.
 Tiếng khóc của con cháu xen lẫn với tiếng cầu kinh của các bà hiền mẫu tạo nên một âm thanh loạn xà ngầu, nhưng lại làm tê tái lòng người. Mình chụp vội mấy tấm hình cuối cùng, rồi vội vã trở lại căn lều. Ông Năm ghé tai mình nói nhỏ :
 - Cha cho tôi xin cái mùng. Cái mùng cũ, tôi cho bả đem theo rồi.
 - Được
 Ông Hai Dưỡng kéo áo mình :
 - Ông cha ở lại dùng cơm chia buồn với ông Năm.
 - Rất tiếc tôi phải về. Xin ông Hai cho tôi kiếu.
 - Cũng được, nhưng ông cha uống với tôi nửa cốc rượu cho có tình cảm… Một nửa cốc nữa đi ông cha… Cám ơn ông cha nhiều lắm.
 Mình xuống xuồng ra về. Cơm bắt đầu bưng ra. Đó là tấm lòng của chồng con bà Năm đối với thịnh tình của bà con lối xóm. Các bà hiền mẫu của mình cũng ở lại để cầu lễ.
 ………..
 Bây giờ đã hai mươi giờ hai mươi phút. Bà Năm đang gởi xác ở đó, bên hàng bình bát rậm rì. Còn hồn của bà thì có lẽ đang sững sờ trước ngưỡng cửa của Người Cha, mà bà đã biết rất muộn màng.
 Trong căn lều xiêu vẹo, mấy chục vành khăn tang đang phân vân không biết là nên ra về hay nên ở lại. Ở lại thì không có chỗ ngả lưng. Ra về thì tội nghiệp cho vong linh người quá cố… Và ở tận miền biển xa tắp tít, một thằng con trai của bà Năm đang đi câu cua, chẳng hề biết mẹ mình đã chết. Chẳng ai đi báo tin cho hắn, vì chẳng biết hắn ở đâu mà tìm.

GIẬT MÌNH VÌ CÁO MÌNH


GIẬT MÌNH VÌ CÁO MÌNH
Lm Piô Ngô Phúc Hậu
Trích BGCN TGPSG 11/2012

            Mình đọc vội vàng Tông thư Cửa Ngõ Đức Tin. Đang đọc thật nhanh thì bị vấp. Đành thôi đọc nhanh, để đọc thật chậm.
 Dường như Đức Thánh Cha bức xúc lắm khi ngài viết: “ Giáo Hội phải liên tục tiến bước trên con đường sám hối và canh tân” (CNĐT 6). Nói như thế cũng y như nói: “Giáo Hội phải tắm hoài hoài”. Vì bẩn mới tắm. Vì bẩn hoài hoài nên mới phải tắm hoài hoài Lời nói của Đức Thánh Cha làm cho mình cảm thấy vừa xấu hổ vừa tự ái. Thì ra Giáo Hội của mình là như thế sao? Bẩn và bẩn hoài. Yếu đuối và sa ngã liền liền. Buồn quá!
 Đọc Tông thư Cửa Ngõ Đức Tin, nình giật mình nhớ đến thông điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Chuộc. Đức Gioan-Phaolô II tuyên bố:Giáo Hội và các nhà truyền giáo phải nêu lên chứng tá khiêm tốn, trước hết đối với chính mình, khi dám tự kiểm thảo ở mức độ cá nhân cũng như cộng đoàn, ngõ hầu sửa chữa lại trong cung cách sống của mình, những gì đi ngược với Tin Mừng và làm biến dạng dung nhan Đức Kitô” (SVĐCĐ 43).
 Đọc nhanh, đọc chậm rồi thôi đọc để ngẫm nghĩ. Mình tự hỏi: trong mấy chục năm truyền giáo, mình có loan báo một Đức Giêsu chính thống hay không? Câu hỏi lớn quá, mình chưa đủ can đảm để trả lời.
 Mình nghĩ về thời Công Vụ Tông Đồ. Mình thấy các Tông đồ cũng chưa hiểu hết được tâm ý của Thầy. Do đó các ngài cũng đã rao giảng một Đức Giêsu không trọn vẹn. Cụ thể là Chúa đã hủy bỏ trọn vẹn 47 câu trong chương 11 của sách Lêvi. Môsê đã long trọng mở đầu chương 11 như sau: “Giavee phán cùng Môsê và Aharon rằng”. Sau đó ông kể tỉ mỉ về những đồ ăn mà ông bảo là uế và ai ăn thì mắc uế. Ông bảo là uế, còn Đức Giêsu thì dạy rằng: “Mọi đồ ăn đều thanh hết” (Mc 7,19). Chúa tuyên bố rõ như thế, vậy mà các Tông đồ không hiểu. Vì không hiểu, nên các ông bị mắng nặng lời: “Cả anh em nữa, anh em cũng tối dạ như thế sao?” (Mc 7,8). Bị mắng là tối dạ, thế mà chừng mười năm sau, Thánh Phêrô vẫn tối dạ. Ông ngang nhiên chống lại Lời Chúa:
 -         Phêrô, trỗi dậy làm thịt mà ăn.
-         Lạy Chúa, không được đâu. Chưa bao giờ con bỏ vào miệng con những thứ ô uế ấy.
-         “Những gì Thiên Chúa tuyên bố là sạch, thì ngươi chớ bảo là ô uế” (Cv 10,12-15)
 Sau Thánh Phêrô thì đến Thánh Giacôbê. Để kết thúc Công Đồng Giêrusalem, Thánh Giacôbê dã tuyên bố một lời sai với giáo huấn của Chúa về luật thanh uế: “Người ngoại trở lại phải kiêng không được ăn thịt những con vật chết ngạt và không được ăn tiết” (Cv 15,19-20)
 Các Tông đồ đã là thế, thì huống hồ là mình. Mình chỉ còn biết cúi đầu nhận lỗi và thầm đọc Kinh Cáo Mình: “Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa toàn năng và cùng anh chị em….”
 Lại giật mình một lần nữa.
 Mình lấy máy tính ra để bấm, mới thấy rằng trong suốt 70 năm cuộc đời, mình đã đọc Kinh Cáo Mình ít nhất là 25.550 lần. Mình đã sám hối mỗi ngày ít nhất là một lần. Mình liên tục sám hối. Sám hối nhiều hơn lòng muốn của Đức Thánh Cha Bênêdictô XVI. Thế mà kết quả thì…. Chả thấy gì hết. Tại sao vậy? Mình nghiệm ra rằng: Hằng ngày mình chỉ thành thật thú tội “cùng Thiên Chúa toàn năng” mà thôi. Còn câu “và cùng anh chị em” thì chỉ là nói phét. Khi lấy tay đấm ngực và đọc: “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”. Thì cũng chỉ là nói dóc đấy thôi.
 Trong thực tế mình chỉ nhận lỗi với Chúa, còn với tha nhân, thì đừng hòng. Nếu mình đủ can đảm và thành thật, thì mình cứ thẳng thắn đọc Kinh Cáo Mình như sau: “Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa toàn năng, và không cùng anh chị em…. không  phải lỗi tại tôi, không phải lỗi tại tôi một tí nào….”
 Bây giờ mình mới ngộ ra rằng: sám hối và sám hối thành thật là đoạn đường tất yếu phải có trước Phép Rửa. Người truyền giáo cũng phải sám hối liên tục để rao giảng môt Đức Giêsu tròn trịa, không méo mó. Chính Đức Giêsu đã kêu gọi sám hối trước, rồi tin vào Tin Mừng: “Thời kỳ đã mãn và triều đại nước Thiên Chúa đã gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15)
 Mình đang cúi đầu xấu hổ và đã sám hối dối trá 25.550 lần. thì … bỗng lại giật mình. Trên màn ảnh ký ức của mình, hiện ra một gia đình biết sám hối chân thành. Cả gia đình cùng đọc Kinh Cáo Mình, nhưng rất chính xác, chứ không dối trá như mình.
 Gia đình ấy có hai vợ chồng và bốn đứa con. Tối nào cũng đọc kinh. Bố cục giờ kinh rất khoa học:
 -         Hát Kinh Cầu Xin Chúa Thánh Thần
-         Ba Kinh: Tin, Cậy, Mến
-         Bài Tin Mừng. Đọc, chia sẻ và cầu nguyện tự phát.
-         Suy gẫm một Mầu Nhiệm Mân Côi và lần hạt một chục.
-         Xét mình chung
-         Đọc Kinh Cáo Mình
-         Hát bài kính Đức Mẹ
-         Kết thúc bằng nghi thức chúc lành
 Mình đánh giá phần xét mình chung là tuyệt vời. Mình ghi nhận một buổi xét mình chung như sau:
 Chồng: Sáng hôm nay anh nóng nảy và đã nặng lời với em. Anh xin lỗi. Em bỏ qua cho anh nhé
Vợ: Thì cũng tại em lì, anh mới quạu như thế. Em xin lỗi anh.
Hai vợ chồng bắt tay nhau, nở những nụ cười rất chân thành, rất thoải mái. Bốn đứa con vỗ tay hoan hô. Vợ chồng cười. Con cái cười. Cả nhà vui.
Sau đó đến lượt con cái sám hối do chính cha mẹ hướng dẫn
Mẹ: Sáng nay thằng Hai ăn hiếp em, không đúng tư cách của một người anh. Con phải xin lỗi em con.
Thằng anh cười bẽn lẽn, vừa bắt tay xin lỗi em. Thằng em cũng cười bẽn lẽn với anh.
Bố: Út, hồi chiều con có lỗi với chị. Khoanh tay xin lỗi chị đàng hoàng.
Thằng Út đến trước mặt chị, khoanh tay, nói lí nhí: “em xin lỗi chị, em hứa không như vậy nữa”. Cô chị ôm cậu em, đánh yêu vài cái lên lưng em.
Sau khi mọi người xin lỗi nhau, cả nhà cùng đọc: “Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa toàn năng, và  cùng anh chị em…” Lời thú nhận rất chân thành. Lòng tha thứ rất chân thành. Tình yêu chan hòa. Hạnh phúc tràn ngập. Ấn tượng vô cùng!
 Kinh Cáo Mình làm mình giật mình. Nhờ giật mình, mình thình lình nghĩ ra nhiều chuyện. Chuyện buồn, chuyện vui, chuyện vô ích và hữu ích, và có cả chuyện buồn cười nữa.

·                             một linh mục vừa đọc kinh vừa nói phét 25.550 lần. Chuyện có thật, không hề thêm bớt. Đáng buồn. Nhưng cũng chỉ đáng buồn cười thôi.
·                             Các Tông đồ mà không hiểu lời Chúa dạy. Do đó trên đường loan báo Tin Mừng, có những giáo huấn của các ngài không phù hợp với ý Chúa. Chuyện kỳ lạ mà có thật. Người truyền giáo phái khiêm tốn và sám hối liên lỉ, đó là điều vừa rất đúng, vừa rất bức xúc.
·                             Một gia đình giáo dân biết đưa tinh thần sám hối vào buổi đọc kình tối là một sáng kiến không do chủ chăn, mà còn tiến bộ hơn chủ chăn, thì quả là một việc làm vừa đáng tuyên dương, vừa nên chứng nhân cho mọi gia đình và mọi người.
·                             Giáo Hội phải liên tục tiến bước trên con đường sám hối và canh tân. Đó là một giáo huấn mà mình phải mãi mãi ghi nhớ và ghi ơn Đức Bênêdictô XVI.

TẢN MẠN VỀ VATICANÔ II


TẢN MẠN VỀ VATICANÔ II
 Nhật Ký Truyền Giáo
Lm. Piô Ngô Phúc Hậu

Sài Gòn, ... 1962

Hôm nay Chủng viện Sàigòn đón tiếp Đức cha Trần Văn Thiện mới từ Rôma về và xin ngài kể chuyện Công đồng. Chuyện ngài kể nóng hổi như viên gạch mới ra lò. Nhưng điều mình thích thú lại là chuyện bên lề Công đồng. Chuyện kể như sau :
 “Các nghị phụ thuyết trình bằng tiếng Latinh. Văn chương Latinh của các nghị phụ thì xuýt xoát như nhau. Nhưng giọng Latinh của các ngài thì trời ơi đất hỡi. Nhất là khi các nghị phụ Mỹ thuyết trình, thì chỉ có Chúa nghe thôi. Vả lại mình đã có bản dịch tiếng Pháp cầm trong tay rồi, nên nghe hay không nghe cũng được. Ngồi lâu buồn ngủ, tôi xuống phòng giải khát được thiết lập ngay bên dưới những hàng ghế bậc thang. Không ngờ lại gặp một Đức cha người Pêru cũng vừa "cúp cua" xuống đây.
 Tôi đến nói chuyện với ngài. Ngài nói tiếng Tây Ban Nha, tôi không hiểu. Tôi nói tiếng Pháp, ngài không hiểu. Chúng tôi đành nói chuyện bằng tiếng Latinh, tiếng Latinh ba cọc ba đồng, nhưng cũng hiểu được nhau :
 - Địa phận của Đức cha có bao nhiêu dân ?
 - Một triệu rưỡi.
 - Trong số đó có bao nhiêu giáo dân ?
 - Thì một triệu rưỡi chứ còn gì. 100% mà !
 - Thế địa phận Đức cha có bao nhiêu linh mục ?
 - Mười ba, cộng với tôi là mười bốn.
 - ? !
 Tình hình Công giáo ở Mỹ châu Latinh là như thế đó. Phải có Công đồng để làm lại mọi sự".
 Gần một nửa dân số Công giáo thế giới nằm trong vùng Mỹ châu Latinh. Nhưng đạo ở đó èo uột như thế đấy. Có cần phải trở về quá khứ để duyệt lại phương pháp truyền giáo ở đó không nhỉ ?

****
 Hà Nội,... 1993

Hôm nay mình vô chủng viện Hà Nội. Tình cờ gặp lại cha Chí từ Sàigòn mới ra. Hồi còn học ở trường Hồ Ngọc Cẩn, cha Chí ngồi dưới mình một lớp. Gần bốn chục năm xa cách hôm nay gặp lại nhau, biết để đâu cho hết chuyện tâm sự. Chuyện nọ xọ chuyện kia. Loanh quanh một hồi, rồi đến chuyện Công đồng. Cha Chí kể :
 “Hôm ấy là một ngày mùa đông. Mùa đông bên ấy lạnh lắm, nên cửa kính đóng im ỉm. Đóng cửa kính, thì căn phòng ấm áp, nhưng… hôi lắm. Và hôm ấy Đức Gioan 23 đang tiếp kiến một vị Hồng y. Đức Giáo Hoàng ngỏ ý muốn mở Công đồng, Công đồng Vaticanô II. Đức Hồng y sửng sốt hỏi :
 - Đức Thánh Cha mở Công đồng để làm chi vậy ?
 - Để làm chi hả ? Đây này... (Đức Giáo Hoàng đứng dậy ra mở cửa sổ cho không khí trong sạch tràn vào). Đấy, thấy chưa ? Ngộp quá rồi mà !...”
 Không biết cha Chí kể chuyện thật hay chuyện tiếu lâm, nhưng chắc chắn là Giáo hội phải canh tân và đó là mục tiêu của Vaticanô II. Nhưng Vaticanô II bế mạc 30 năm rồi mà dường như công việc canh tân vẫn chưa đạt tiêu chuẩn. Tại sao ? Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trả lời dứt khoát trong Thông điệp “Sứ vụ Đấng Cứu độ”.
 “Sứ vụ truyền giáo canh tân Giáo hội, tăng cường niềm tin và căn tính người Kitô hữu, đem lại diệu cảm mới và những động lực mới. Niềm tin càng mạnh khi đem chia sẻ" (SVĐCĐ, 2). Từ đó mình xác tín rằng : nếu Giáo hội không đến với muôn dân, thì Giáo hội không thể canh tân được; hoặc mọi công tác canh tân sẽ trở nên vô hiệu. Nếu không đến với muôn dân, Giáo hội sẽ mãi mãi là căn phòng mùa đông, cửa kính đóng im ỉm.

MỘT HỌC TRÒ CÓ NHIỀU THẦY CÔ -2-



MỘT HỌC TRÒ CÓ NHIỀU THẦY CÔ -2-
 Lm. Piô Ngô Phúc Hậu
Trích BGCN/TGPSG 7/2012

1/ Thầy Philipphê
Được Thầy tuyển chọn, Philipphê mừng quá vội chạy đi khoe với Nathanael: “Đấng mà Môi-sê và các ngôn sứ nói, tớ vừa mới gặp. Đó là Đức Giê-su, con ông Giuse, người làng Nagiarét”. Nghe nói đến Nagiarét, Nathanael cười muốn bể bụng: “Nagiarét có gì hay đâu?”. Quả vậy, mọi ngôn sứ, mọi nhân tài đều xuất thân từ Samari và Giuđê. Galilê quê một cục. Nagiarét quê hai-ba cục. Lịch sử minh chứng điều đó. Nagiarét quê mùa tới mức độ người Ai Cập cũng biết và có một câu ngạn ngữ nói về cái quê mùa ấy của Nagiarét: “Thằng đàn ông nào mà ông Trời ghét nhất thì được ông ấy cho một người vợ Nagiarét”, Nghĩa là đời nó tàn.
 Nathanael nói đúng quá, Philipphê đành ngậm tăm. Nhưng may quá, anh ta lại nảy ra một sáng kiến: “thì cậu cứ đến mà xem”. Philipphê dẫn Nathanael đến gặp Đức Giêsu… Thế là xong. Nathanael cúi đầu trước Đức Giê-su Nagiarét: Quả thật, Thầy là Con Chiên Thiên Chúa hằng sống”. Philipphê lật thế cờ từ thua đậm thành thắng lớn.
 Thấy Philipphê hí hửng sung sướng, mình nghĩ ngay đến chiến thuật bất ngờ của ông ta: “Cái gì mình thấy bí thì trao cho Đức Giê-su. Hễ gặp khó khăn vượt tầm tay thì nhờ Đức Giê-su giải quyết. Tâm hồn nào cứng cỏi mình không chinh phục được, thì cứ gửi gắm cho Đức Giê-su. Thế là xong”.
 Trên đường truyền giáo, mình bắt chước Philipphê và thấy kết quả đến ngay trước mắt. Tự nhiên mình cảm thấy Philipphê như một người đàn anh giàu kinh nghiệm. Bất giác mình gọi ông là “thầy giáo của mình”.

2/ Cô giáo Pearl Buck
Pearl Buck là con của một cặp vợ chồng người Mỹ sang truyền giáo ở Trung Quốc. Sống ở đấy và lớn lên ở đấy. Bà am tường văn hóa Trung Hoa như người Tàu và hơn người Tàu. Bà là nhà văn được giải Nobel.
 Mình biết bà từ khi đọc cuốn La Mère (Người mẹ) rồi cuốn Good Earth (Đất lành). Nhờ bà mình có thêm mớ kiến thức về văn hóa Đông Tây. Nhờ bà mình có được nhiều chuyện dí dỏm để trình bày Tin Mừng.
 Khi đọc cuốn Những người đàn bà vĩ đại của dòng họ Kennedy, mình khám phá ra một chân trời mới: một phương pháp truyền giáo khá mới lạ.
 Bà Pearl Buck là bạn thân của mẹ Tổng Thống Kennedy. Bà Pearl Buck là tín đồ Tin Lành nên mặc nhiên là chống Thánh lễ Misa và chức linh mục: coi chức linh mục là phạm thánh. Bà mẹ Tổng Thống Kennedy là một tín đồ Công giáo: Rất nhiệt thành, rất ham đi dâng lễ.
 Một lần kia bà mẹ Tổng Thống Kennedy mời bà Pearl Buck đi dự lễ. Đó là điều tối kỵ đối với tín đồ Tin Lành. Bà Pearl Buck nể bạn mà đi. Nhưng trong thâm tâm thì cứ thấy lợn cợn.
 Sau lần dâng lễ ấy, bà Pearl Buck thú nhận: :Thánh lễ Misa của đạo Công giáo Rôma ru tâm hồn con người vào thế giới thần linh thật”.
 Thay vì chống đối và kết án, bà Pearl Buck lại khen ngợi và tôn vinh, tại sao lại có một hiệu quả ngược chiều như thế? Mình ngẫm nghĩ và thấy rằng chính Đức Giê-su trong Bí tích Thánh Thể đã chinh phục bà Pearl Buck. Từ sự kiện ấy, mình quyết tâm mời người lương đi dự lễ, lễ cưới, lễ truyền giáo, lễ bổn mạng họ đạo…  mình động viên giáo dân mời tối đa bạn lương dân đến tham dự.
 Mình nhận định như sau:
·        Ai ghét đạo mà đi lễ thì thôi ghét.
·        Ai vô tâm vô tình với đạo mà đi lễ, thì có thiện cảm với đạo
·        Ai có thiện cảm với đạo mà đi lễ, thì sẽ xin theo đạo.
Kết quả đó là do chính Đức Giê-su Thánh Thể thực hiện.
 Một lần kia mình tổ chức lễ 20/11, mình gọi là ngày nhớ ơn thầy. Ai trong họ đạo từ nhỏ tới lớn đã từng học với thầy cô nào, thì mời đến nhà thờ dự lễ để cha sở có điều kiện cám ơn chung một lần. Sau thánh lễ các cô phát biểu: “Cha ơi, chings con khóc hết, chịu không nổi. Cả nhà thờ chùng đứng, cùng ngồi, cùng hát, cùng im lặng. Nhât là khi các em cùng cầu nguyện xin Chúa chúc lành cho thầy cô chúng con”. Các thầy thì không khóc, nhưng thành thật công nhận: “Ấn tượng quá linh mục ơi!”.
Bà Pearl Buck ơi, nhờ bà mà tôi mới nghĩ ra cách truyền giáo này. Cám ơn bà! Xin bà cho tôi gọi bà là cô giáo của tôi.

3/ Thày “Cằm đàn ông”
Tòa Giám mục Hưng Hóa nhận được tin vui nửa vời từ nhà thờ Sapa: Nhà nước đã chấp thuận cho giải tỏa kh dân cư tọa lạc trên đất của nhà thờ. Nhưng với điều kiện là phải bồi thường cho dân đang tọa lạc trên đất giải tỏa. Số tiền bồi hoàn cho dân là 12 tỉ. Nếu nhà thờ không có khả năng bồi hoàn, thì nhà nước xử dụng mảnh đất này vào mục đích khác.
Nghe tin, ai nấy đều mừng nhưng vẫn ngơ ngác. Mười hai tỉ - Nợ sẽ ngập đầu. Lo được không? Không lo được thì mất trắng. Công cốc. Có một người hỏi ướm thử Đức cha Gioan:
-         Quỹ giáo phận còn tiền không?
-         Quỹ giáo phận Hưng Hóa giống như cái cằm đàn ông. Râu vừa lún phún thò ra thì đã phải cạo. Cạo trơn tru rồi, râu lại mọc ra nữa. Giáo phận có đồng nào thì xào đồng nấy. Chẳng lúc nào có tiền. Nhưng nếu cần tiền thì lại có.        
Mình chả có ý kiến gì, chỉ tủm tỉm cười.
Lấy cái cằm đàn ông để ví von về quỹ giáo phận thì hay quá, đúng quá. Mình đã lăn lộn với công tác truyền giáo chẵn bốn mươi năm tại miền cuối Việt. Mình đã thấy rõ như ban ngày là chẳng bao giờ có tiền, nhưng chẳng bao giờ thiếu tiền. Nếu cần, thì Chúa cho. Cho theo kiểu của Ngài.
1* Cho đúng lúc, hoặc cho trước, hoặc cho sau một chút.
2* Cho vừa đủ, hoặc thiếu một tí, chứ không bao giờ cho dư.
Từ hôm nay, mình nhận định: quỹ truyền giáo của mình giồng như cái cằm của đàn ông. Đúng quá! Cám ơn “cái cằm đàn ông”. Từ nay ta gọi mi là thầy giáo của ta.
Hiện nay giáo phận Hưng Hóa đang loay hoay với vụ nhà thờ Sapa. Biện pháp đầu tiên là đi vay. Vay các cha xứ, vay giáo dân. Vay người giầu, vay cả người nghèo. Kết quả ra sao? Mình chả biết. Nhưng có một người biết rất rõ. Đó là cái cằm đàn ông.

Thứ Tư, 16 tháng 10, 2013

GỬI NGƯỜI BẠN BỊ UNG THƯ


CÁCH NGƯỜI BỊNH TỰ CHỮA BỊNH UNG THƯ (CANCER)

Tôi có một người bạn, anh ta mắc chứng bịnh ung thư cuống phổi, cục bứu ác tính to bằng cái chén nằm ở cuống phổi. Bác sĩ nói về nhà ăn uống chờ chết, không thể cắt bỏ vì nó nằm sát với động mạch chủ. Tôi đến chơi hỏi thăm, anh ta cho tôi xem hình chụp X-Ray của cục bứu.  Anh ta đã chữa trị bệnh ung thư bằng phương pháp dưới đây : Không ăn đường, không ăn thịt, cá, cơm, chỉ uống nước xay bằng rau, củ như củ cà rốt, của cải, củ dền, cam, táo ...
 Sau ba tháng uống liên tục cục bứu to bằng cái chén thu nhỏ lại chỉ còn bằng cái khu chén, sau chín tháng bứu ung thư biến mất. Bây giờ anh ta khoẻ mạnh làm việc và ăn uống bình thường. Bốn người cùng chứng bệnh ung thư như anh ta chữa bằng phương pháp chemical therapy đã chết hết rồi.
Những chi tiết của bài viết dưới đây rất đúng, tế bào ung thư khi đã không được nuôi dưỡng bằng thịt bò, đường.. thì nó sẽ chết. Nên phổ biến tài liệu này cho mọi người cùng biết.
 Một trong những bệnh viện nổi tiếng nhất trên thế giới thay đổi quan điểm của mình về bệnh ung thư. Bệnh viện Johns Hopkins là một bệnh viện trường đại học nằm ở Baltimore, Maryland ở Hoa Kỳ. Được thành lập nhờ tài trợ từ John Hopkins, ngày hôm nay nó là một trong những bệnh viện nổi tiếng nhất trên thế giới và năm thứ 17 liên tiếp được phân loại ở vị trí đầu tiên trong bảng xếp hạng của các bệnh viện tốt nhất tại Hoa Kỳ.      
Sau nhiều năm nói với mọi người hóa trị liệu là cách duy nhất để điều trị và loại bỏ ung thư, Bệnh viện Johns Hopkins đã bắt đầu nói với mọi người rằng có những lựa chọn thay thế khác với hóa trị liệu: một cách hiệu quả để chống lại ung thư là không nuôi các tế bào ung thư với các chất dinh dưỡng cần thiết cho nó để nó không phát triển được.

THỨC ĂN CỦA TẾ BÀO UNG THƯ

A/- ĐƯỜNG là một loại thực phẩm của bệnh ung thư. Không tiêu thụ đường là cắt bỏ một trong những nguồn quan trọng nhất của các tế bào ung thư. Có sản phẩm thay thế đường như saccharin, nhưng chúng được làm từ Aspartame và rất có hại. Tốt hơn nên thay thế đường bằng mật ong Manuka hay mật đường nhưng với số lượng nhỏ. Muối có chứa một hóa chất phụ gia để xuất hiện màu trắng. Một lựa chọn tốt hơn cho muối trắng là muối biển hoặc các loại muối thực vật.
B/- SỮA  làm cho cơ thể sản xuất chất nhầy, đặc biệt là trong đường ruột. Tế bào ung thư ăn chất nhầy. Loại bỏ sữa và thay thế bằng sữa đậu nành, các tế bào ung thư không có gì để ăn, vì vậy nó sẽ chết.
C/- Các tế bào ung thư trưởng thành trong môi trường axitTHỊT ĐỎ có tính axit.
 Tốt nhất là ăn cá, và một chút thịt gà thay vì thịt bò hay thịt heo. Hơn nữa, thịt chứa kháng sinh, hormon và ký sinh trùng, rất có hại, đặc biệt đối với những người mắc bệnh ung thư. Protein thịt khó tiêu hóa và đòi hỏi nhiều enzym. Thịt không tiêu hóa ở lại và hư hỏng trong cơ thể dẫn tới tạo ra các độc tố nhiều hơn.

GÓP PHẦN GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ


a) Một chế độ ăn uống gồm 80% rau quả tươi và nước ép, ngũ cốc, hạt, các loại hạt quả, quả hạnh nhân và một ít loại trái cây đặt cơ thể trong môi trường kiềm. Chúng ta chỉ nên tiêu thụ 20% thực phẩm nấu chín, bao gồm cả đậu. Nước ép rau tươi cung cấp cho cơ thể co-enzyme có thể dễ dàng hấp thu và ngấm vào các tế bào 15 phút sau khi được tiêu thụ để nuôi dưỡng và giúp định hình các tế bào khỏe mạnh. Để có được các enzyme sống, giúp xây dựng các tế bào khỏe mạnh, chúng ta phải cố gắng uống nước ép rau (tất cả, bao gồm cỏ linh thảo) và ăn nhiều rau quả tươi 2 hoặc 3 lần mỗi ngày.

b) Không nên dùng CÀ PHÊ, TRÀ và SÔ CÔ LA có chứa nhiều caffeine.
TRÀ XANH là một lựa chọn tốt hơn vì có chất chống ung thư. Tốt nhất là uống nước tinh khiết hoặc nước lọc để tránh các chất độc và kim loại nặng trong nước thường. Không uống nước cất vì nước này có chứa axit.
c) Các thành các tế bào ung thư được bao phủ bởi một loại protein rất cứng. Khi không ăn thịt, những thành tế bào phóng thích nhiều enzim hơn, tấn công các protêin của các tế bào ung thư và cho phép hệ thống miễn dịch tiêu diệt các tế bào ung thư.
d) Một số chất bổ sung giúp xây dựng lại hệ thống miễn dịch: Floressence, Essiac, chất chống oxy hóa, vitamin, khoáng chất, EPA, dầu cá … giúp các tế bào để chiến đấu và tiêu diệt các tế bào ung thư. Các chất bổ sung khác như vitamin E được biết đến bởi vì nó gây ra apoptose, cách bình thường của cơ thể để loại bỏ các tế bào vô dụng hoặc bị lỗi.
e) Ung thư là một căn bệnh của cơ thể, tâm trí và tinh thần. Một thái độ hoạt động và tích cực hơn sẽ giúp các bệnh nhân ung thư chiến đấu và sống còn. "Giận dữ và không hiểu biết, không tha thứ sẽ đặt cơ thể vào tình trạng căng thẳng và một môi trường axit". Học để có tâm hồn khả ái và yêu thường với một thái độ sống tích cực là rất có lợi cho sức khỏe. Học thư giãn và tận hưởng cuộc sống.
f) Các tế bào ung thư không thể sống trong một môi trường dưỡng khí (oxygénée). Luyện tập thể dục hàng ngày, hít thở sâu giúp lấy thêm nhiều oxy vào các tế bào. Liệu pháp oxy là một yếu tố giúp tiêu diệt các tế bào ung thư.
      1. Không để hộp nhựa trong microwave.
      2. Không để chai nước trong tủ lạnh.
      3. Không để tấm nhựa trong microwave.
g) Các hoá chất như dioxin gây ung thư, đặc biệt là ung thư vú. Dioxin rất có hại, đặc biệt là đối với các tế bào cơ thể.        
Đừng để trong tủ lạnh chai nước nhựa bởi vì nhựa sẽ "đổ mồ hôi" dioxin và làm nhiễm độc nước uống. Gần đây, Tiến sĩ Edward Fujimoto, Giám đốc chương trình Wellness ở bệnh viện Castle, xuất hiện trong một chương trình truyền hình giải thích sự nguy hiểm của dioxin. Ông nói rằng chúng ta không nên đặt hộp nhựa trong microwave, đặc biệt là các loại thực phẩm có chứa chất béo. Ông nói rằng do sự kết hợp của chất béo và nhiệt lượng cao, nhựa sẽ truyền dioxin vào thực phẩm và do đó vào cơ thể chúng ta. Thay vào đó, bạn có thể sử dụng thủy tinh như Pyrex hoặc gốm sứ để đun nấu.



         Xuân Phong dịch từ bản tiếng Pháp
         Tài liệu thảo luận của CFQ (Cercle Francophone à Quinhon) ngày 21/3/2013
         Tài liệu này có giá trị nên đọc đi đọc lại.
         "Hãy chia sẻ bài viết này với tất cả bạn bè của bạn."

Thứ Ba, 15 tháng 10, 2013

LỜI CHÚA,LỜI HẰNG SỐNG

ĐƯỢC SAI ĐI


Tôi vừa trở lại thành phố sau những ngày tham dự một Lễ Hội Tạ Ơn ở Pleikly...
Pleikly, một vùng đất cách thành phố Pleiku vào khoảng 80 cây số theo quốc lộ 14 về hướng Buôn Ma Thuột. Lễ hội mừng 50 năm khấn Dòng của các cha DCCT, Giuse Trần Sĩ Tín, và Phêrô Nguyễn Đức Mầu. Hai cha là hai trong số các Thừa Sai 44 năm trước đã đến Pleikly, sống và loan báo Tin Mừng ở nơi đây ( 1963 – 2013 ).
Câu chuyện về 44 năm trước đầy tính lãng mạn và hào hùng, nhưng nghe đôi dòng sử liệu về công cuộc loan báo Tin Mừng thì chúng ta lại thấy lộ rõ đàng sau niềm vui là chất bi ai của sự gian nan khốn khó.
Ngày 10 tháng 10 năm 1963, Đức Cha Paul Seizt lấy chiếc xe Jeep cùng các Thừa Sai DCCT đến Pleikly, bỏ các vị Thừa Sai xuống giữa núi rừng, ngài mở sách Phúc Âm tuyên đọc đoạn Tin Mừng Lc 10, 1 – 6, đọc xong, ngài chúc lành cho các Thừa Sai rồi lên xe đi về lại Kontum ngay. Các Thừa Sai ở lại, ngơ ngác vào làng, và bắt đầu một cuộc sống trở nên người J’rai vì người J’rai.
Hơn 20 năm làm người J’rai, sống, làm việc, buồn vui với bản làng, mồ hôi, nước mắt, hy sinh cả mạng sống nữa ( thầy Marco Đàn đã bị bắt, bị giết chết ). Cuối thập niên 80, sau biến cố tuyên phong các Thánh Tử Vì Đạo tại Việt Nam, người J’rai nhận biết Chúa, từ đó khắp núi đồi sông suối vang lời tuyên xưng Đức Tin, hạt giống Tin Mừng nảy nở mạnh mẽ trên vùng đất J’rai.
Tham dự đêm diễn nguyện, nhìn anh em tôi, nhìn đồng bào J’rai ca hát nhảy múa, hồn nhiên và mạnh mẽ, tôi cảm nhận sức sống Tin Mừng tuôn tràn trên mảnh đất cao nguyên, ánh lửa bập bùng, tiếng cồng chiêng nhịp nhàng, những vũ điệu giản đơn nhưng chan chứa tình người, người J’rai cuốn mình vào bầu khí thờ phượng, đơn sơ mà mãnh liệt…
Thánh Lễ Tạ Ơn cử hành giữa đất trời, gió ban mai se lạnh, ánh dương lên ấm áp theo lời kinh, tiếng cồng chiêng vang vọng núi đồi, cộng đoàn Đức Tin cử hành Phụng Vụ thật sống động, họ đong đưa theo điệu nhạc rừng, ánh mắt đầy tin yêu, bập bùng bập bùng, vang lên không dứt.
Sau Thánh Lễ, anh chị em chia nhau từng gói xôi, từng miếng thịt, hơn 5.000 người không hề xảy ra giành giật, không ai lấy hai phần, không ai không có phần. Xôi và thịt gà đươc gói lại để thành một đống, cứ vậy từng người đến lấy, không xếp hàng nhưng tuyệt nhiên không xô đẩy, tuần tự theo nhau một cách lạ lùng, không cần điểm danh, không cần phân biệt đoàn này đoàn kia. Ăn xong, anh chị em quây quần cùng "soan" ( múa thờ phượng Chúa ), một vòng tròn, thêm một vòng tròn nữa, thêm một vòng nữa… không ai bảo ai, không ai nhắc ai, trật tự lạ lùng, họ cầu nguyện bộc phát, chân thành, đơn sơ, nồng nàn, tha thiết…
Những người đến từ thành phố ngẩn ngơ nhìn anh chị em J’rai sống Đức Tin, cử hành Đức Tin, tuyên xưng Đức Tin, làm chứng Đức Tin… thật sống động !  Rồi tự hỏi “ai truyền giáo cho ai ?” Họ đi bộ hàng chục cây số, có người trên 100 cây, họ ngủ ngoài trời, co ro trong những chiếc khăn khoác, đỏ lửa điều thuốc trên môi, các sơn nữ điệu đàng trong váy áo ngày hội, kết thêm vài dải tua cho hợp thời trang, khúc khích cười chúi vào nhau đi thành từng đám. Nhưng những con người có vẻ lầm lì ít nói đó lại là những chứng nhân, họ sẵn sàng bất cứ lúc nào để nói về niềm vui được Chúa cứu, nỗi hạnh phúc được làm con Chúa, niềm hy vọng và lòng tạ ơn. Họ làm chứng chân thành, đơn sơ và dung dị. Mấy ai là người văn mình thành phố có được hạnh phúc này ?
Nhìn các cha ca hát cùng con cái, nhảy múa cùng con cái, hồn nhiên cùng con cái, Tin Mừng như toát ra từ chính những cái “cùng” đó. Lạ lùng, 44 năm trước, những người trai trẻ ngoài 20 tuổi, vừa tuyên khấn được 6 năm, bỡ ngỡ trước một nếp sống không hề được biết trước, chẳng có kế hoạch, chẳng có nghiên cứu xã hội, chẳng có phương tiện nào trong tay, chỉ có Chúa, chỉ có Tin Mừng, chỉ có tâm hồn tận hiến. Tin Mừng từ chính cuộc sống, từ trong lòng người, trong lòng cộng đồng Dân Thiên Chúa.
Nhìn vào cộng đồng anh chị em J’rai hôm nay, chúng ta có thể hy vọng vào ngày mai, cái ngày mai của Chúa Thánh Thần tự do và sáng tạo. Bài đọc hai trong Lễ Chúa Nhật 28 Thường Niên C, trích từ thư thứ hai của Thánh Phaolô gởi cho ông Timôthê có câu: “Vì Tin Mừng đó mà cha phải đau khổ đến phải chịu xiềng xích như một kẻ gian ác, nhưng lời của Thiên Chúa đâu có bị xiềng xích !”
Không ai có thể ngăn được Lời Chúa, không ai có thể xích xiềng được lời của Ngài, Thần Khí sáng tạo và ban sự sống.
Lm. VĨNH SANG, DCCT, 12.10.2013
( trích EPHATA 583)

RỒI 30 NĂM SAU


CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG
LÒNG TỐT SẼ ĐƯỢC BÁO ĐÁP
Có lòng tốt giúp đỡ người khác, một ngày nào đó sẽ được báo đáp. Phim ngắn kể về một người đàn ông nhân từ đã giúp đỡ một cậu bé bị bắt quả tang ăn cắp thuốc mang về cho mẹ em đang bị ốm ở nhà.
Sau này khi ông bị bệnh hiểm nghèo, gia đình không đủ tiền để lo trả viện phí thì họ nhận được sự giúp đỡ là không phải trả đồng nào.
Vị bác sĩ quyết định ký giấy thanh toán viện phí cho ông chính là cậu bé 30 năm trước đã từng được ông giúp đỡ .
(Sưu tầm mạng)

Thứ Hai, 14 tháng 10, 2013

NHỮNG ĐẠI DIỆN


ht. : Hồi nãy đi ngang qua con hẻm Nhật Tuấn, thấy bà con đang buôn chuyện vui vẻ, mình ghi lại mấy chuyện chứ không trích dẫn trích diếc gì , kẻo lại bảo mình phạm phải nghị định 72. Không lẽ người ta nói chuyện mình không nghe ?  Không lẽ nghe thấy thích, cũng không được ghi lại ? Ơ hay, nước mình độc lập tự do hạnh phúc, tự do "gấp vạn lần bọn tư bản"(ai nói câu nổi tiếng này ấy nhỉ ?) cơ mà, đáng lẽ  đồng bào cứ tha hồ nghe tha hồ nói, chứ sao đứng giữa giang sơn mình mà ai cũng sợ sệt ! À, thì ra sợ bị bắt. Đúng rồi, nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại. Thấy thương dân mình lắm luôn. Nghe nói bà con đòi đài VTV phải xin lỗi. Còn lâu mới xin lỗi, đây là những bộ mặt, những đại diện ...chính thức của đài mờ !
(Tựa đề và Ảnh do ht.chọn)

Tối nay đã qua quốc tang đại tướng Võ Nguyên Giáp , cô Phượng cave rút trong túi ra dĩa phim đưa chị Gái hủ tíu :
“ Hết cấm rồi, chị mở “Cây sầu riêng trổ bông” coi đi…”
Bất ngờ, ông đại tá hưu bước vào quán, kêu lớn :
“ Khoan đã…khoan đã…mấy hôm tang lễ đại tướng tao thấy tụi bay không mở tivi, bữa nay cho tụi bay coi đĩa này cho biết…”
Í trời, cả quán xúm lại, tưởng phim gì hay , hóa ra phim quốc tang đại tướng Võ Nguyên Giáp. Ông đại tá hưu vui vẻ :
“ Bên hội cựu chiến binh tặng đó. Anh em ghi hết từ đầu tới cuối, từ cảnh nhân dân xếp hàng chờ vào tư gia đại tướng  đến cảnh lễ tang có các đồng chí lãnh đạo đảng rồi linh xa đưa linh cữu ra sân bay tới  hạ huyệt ở đảo Yến…có hết…tụi bay tha hồ coi…”
Mấy ngày chẳng ai coi tivi, giờ coi cũng tốt, thế là cả quán im phăng phắc, dán mắt màn hình coi hàng ngàn người xếp hàng dài hai bên phố Hoàng Diệu chờ viếng đại tướng. Bất chợt cô Phượng cave la lên :
“ Í trời ơi…sao lại đưa cô này làm MC tang lễ đại tướng ?”

                         

Gã Ký Quèn chen ngang :
“ Cô này nói được đấy chớ, lại còn khóc nữa kìa. Í trời ơi, cô làm mình cũng muốn khóc theo quá !”
Cô Phượng cave quắc mắt :
“ Vậy anh biết cô ta là ai không ? Ăn cắp đồ trong siêu thị đó…”
Chị Gái hủ tíu can :
“ Cô có biết chính xác không, kẻo oan người ta …”
Cô Phượng cave vênh mặt :
“ Có chớ sao không ? Cô Kiều Trinh, phóng viên, con ông nguyên Tổng Giám đốc truyền hình . Năm 2001, được cử sang Thụy Điển , chân ướt chân ráo đã bị cảnh sát bắt giam vì ăn cắp mỹ phẩm trị giá 400 đô la trong siêu thị. Lẽ ra ngồi tù, nhưng con ông lớn nên đại sứ quán VN làm giấy xác nhận cổ bệnh tâm thần . Cổ bị giam một tuần, sau trục xuất về nước. Sang năm 2006, cổ lại được cử sang Anh công tác và lại ăn cắp chiếc máy ảnh kỹ thuật số và bị bắt quả tang. Ông bố lại nhờ đại sứ quán làm giấy cứu con gái. Ấy thế mà năm 2009, cổ lại được kết nạp đảng và Trưởng phòng văn hóa dân tộc Ban thời sự.”
Ông đại tá hưu đập bàn :
“ Chuyện quá khứ rồi, xử lý nội bộ rồi, sao mày còn nhắc lại làm gì con cave kia…”
Cô Phượng cave vênh mặt :
“ Bộ VTV hết người rồi sao phải cử người có tiền án ăn cắp làm MC tang lễ đại tướng ?”
Ông Tư Gà nướng càm ràm :
“ Con Phượng cave nói đúng. Thiếu gì người đạo đức tốt phải cử cô đó làm cây cầu nối giữa vong linh đại tướng với nhân dân.”
Cả quán im bặt tiếp tục theo dõi linh xa chở linh cữu tướng Giáp ra sân bay Nội Bài. Phim chuyển sang cảnh hàng chục ngàn người tập trung ở đảo Yến Quảng Bình dự lễ hạ huyệt. Cô MC giới thiệu một ông to béo đọc thơ vĩnh biệt đại tướng. Gã Ký Quèn chợt hét lớn :
“ Í trời ơi…sao lại cho cha này đọc thơ vào lúc linh thiêng này ?”


Cô Phượng cave láu táu :
“ Ổng là ai vậy anh Ký Quèn ?”
Gã Ký Quèn trừng mắt :
“ Là Hoàng Quang Thuận có tập thơ “ Non thiêng Yên tử”, chạy chọt  Hội nhà văn tổ chức hội thảo và được chủ tịch hội Hữu Thỉnh khen nức nở :” “thơ anh – Hoàng Quang Thuận là một bức tranh tôn giáo trầm mặc mà sống động, thanh khiết mà run rẩy!”(???!!!). Bất ngờ, ngay sau hội thảo, luật sư Nguyễn Minh Tâm tố cáo tập thơ “Non thiêng Yên Tử” lấy từ cuốn “Chùa Yên tử, Lịch sử - Truyền thuyết di tích và Danh thắng” có từ nhiều năm trước. Chuyện mới xảy ra hồi tháng 8-2012  gây phẫn nộ giới cầm bút, nhiều người lên tiếng vạch trần cái giả dối, đạo  văn bẩn thỉu của Hoàng Quang Thuận.”
Ông Tư Gà nướng càm ràm :
“Bao nhiêu nhà thơ chiến sĩ Điện Biên đâu cả ? Sao lại  đưa một thằng “đạo thơ” đọc thơ trước hương hồn đại tướng lúc hạ huyệt ? “
Thằng Bảy xe ôm lớn tiếng :
“ Đã đưa một cô MC ăn cắp đồ siêu thị đứng trước nhà đại tướng tường thuật, lại đưa một cha “đạo thơ” lên đọc thơ vào lúc hạ huyệt  thì còn trời đất nào nữa. Chú Ba, chú báo cáo tuyên huấn thành ủy kiến nghị đài VTV1 phải xin lỗi nhân dân như đài HTV đó…”
Cô Phượng cave cười ngỏn nghẻn :
“ Nhân tiện con hỏi chú Ba tại sao hết ngày 13 mới hết quốc tang, vậy mà mới 12 giờ trưa , chưa làm lễ hạ huyệt đã hạ cờ rủ trước lăng bác Hồ. Rồi công an cán bộ đi các nhà yêu cầu hạ cờ rủ xuống là sao ?”

Ông đại tá hưu bực mình :
“ Thì để đón Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường chớ sao ?”
Cô Phượng cave lại hỏi :
“ Ta với Trung Quốc vừa là đồng chí vừa là anh em, sao đồng chí Lý Khắc Cường không sang sớm thắp nén nhang cho đại tướng Võ Nguyên Giáp hả chú Ba ?”
Thằng Bảy xe ôm cười hô hố :
“ Í mèn ôi…cha này mà vác mặt tới linh cữu đại tướng, ổng ngồi ngay dậy quát đuổi đi có mà vãi cả linh hồn. Đại tướng Võ Nguyễn Giáp căm ghét bọn xâm lược lắm mà…”
Cả quán cười ồ, riêng ông đại tá hưu mặt hầm hầm.
14-10-2013
(sưu tầm)