#Stats1 ul{margin:0;border:0;padding:0;height:32px;background:url(//goo.gl/ZHG881) no-repeat 0 -34px} #Stats1 li{margin:10px 0;border:0;padding:0 0 0 40px;list-style-type:none} #totalComments{height:32px;background:url(//goo.gl/ZHG881) no-repeat} #totalCount{height:32px;background:url(//goo.gl/ZHG881) no-repeat 0 -68px}

Thứ Tư, 24 tháng 4, 2013

NHỮNG CUỘC HIỆN RA : THẬT VÀ GIẢ


LM Peter Joseph
 Tôi muốn mở đầu câu chuyện với lời xác nhận là tôi có sở thích riêng về những cuộc mặc khải cá nhân. Tôi đã thăm viếng Paray-Le-Monial (nơi Chúa Giêsu đã tỏ bầy Thánh Tâm Ngài cho Thánh Nữ Magaret Mary vào thế kỷ XVII). Tôi đã thăm viếng Rue de Bac (nơi Mẫu Ảnh Phép Lạ được ban tặng cho Thánh Nữ Catherine Labouré năm 1830). Tôi đã thăm viếng Lourdes, Knock, và Fatima, cũng như thăm viếng cả hai thị trấn nước Bỉ nơi Đức Mẹ đã hiện ra: thị trấn Beauraing (1932-33) và Banneux (1933). Tôi cũng đã được đeo Giây Áo Đức Bà Mầu Nâu và Mẫu Ảnh Phép Lạ đó nữa. Tôi từng hướng dẫn những giờ Chầu Thánh Thể vào dịp mừng Lễ Mừng Kính Chúa Nhân Lành từ năm 1993 đến nay.
 Với những sự kiện trên, tôi thiết tưởng quí bạn có thể nhận ra rằng tôi không phải là người chống đối các cuộc mặc khải. Thế nhưng tôi là người chống đối những cuộc mặc khải giả tạo. Tôi là người chống đối những cuộc mặc khải mơ hồ. Tôi là người chống đối những cuộc mặc khải không được Giáo Quyền chuẩn nhận. Tôi là người chống đối những cuộc mặc khải cá nhân do ám ảnh mà ra. Tôi chống đối những sự việc này một cách dứt khoát bởi vì tôi chỉ tin vào những cuộc mặc khải cá nhân xác thực, và tin vào vai trò của mặc khải tác động vào đời sống đức tin của Giáo Hội.
 Số mặc khải và tín điệp bất chính lên tới mức quá nhiều trong hơn 40 năm qua khiến phải cần đến sự phân định về thần linh và khuyến cáo theo truyền thống hơn mức bình thường. Trong thời điểm tranh tối tranh sáng giữa sự hỗn độn của thế giới ngày nay và mảnh đất siêu nhiên trống trải, nhiều người Công Giáo đang đi tìm cách liên lạc với siêu nhiên qua ngả mặc khải cá nhân, bất kể được Giáo Quyền chuẩn nhận hay không, cũng như bất kể những loại mặc khải đó có phù hợp với đức tin hay không.
 Những mặc khải cá nhân vẫn xẩy ra
Thiên Chúa có thể và thực sự trong các thời điểm khác nhau đã mặc khải riêng cho nhiều cá nhân. Những người đón nhận mặc khải luôn biết chắc rằng các mặc khải xuất phát từ Thiên Chúa, nên đều tin vào đó. Thế nhưng Giáo Hội không bao giờ bắt buộc người Công Giáo phải tin vào mặc khải riêng của bất cứ ai, ngay cả những mặc khải của các thánh nhân nổi tiếng. Giáo Hội chỉ chuẩn nhận sau khi có cuộc xét nghiệm chính xác và lợi ích siêu nhiên cũng như các yếu tố tạo nên mặc khải phải được coi là thỏa đáng.
 Giáo lý
Câu 67 trong sách giáo lý có dạy rằng: “Qua các thời đại đã từng có những cuộc mặc khải được coi là “cá nhân” mà một số đã được Thẩm Quyền Giáo Hội chuẩn nhận. Tuy nhiên những mặc khải này không thuộc về nền móng Đức Tin. Vai trò của các mặc khải ấy cũng không “cải tiến” hoặc “hoàn chỉnh” cuộc mặc khải minh nhiên của Đức Kitô, nhưng chỉ giúp người ta nhờ vào đó mà sống đạo một cách hoàn hảo hơn trong một giai đoạn lịch sử nào đó mà thôi. ... Đức tin Kitô giáo không chấp nhận “các cuộc mặc khải” tự cho là có khả năng trổi vượt hay sửa đổi chính Mặc Khải mà Đức Kitô đã hoàn chỉnh, như trong trường hợp một số tôn giáo ngoài Kitô Giáo cũng như một số hệ phái gần đây dựa vào các loại mặc khải này để làm nền móng cho niềm tin của họ (Xin đọc St Thomas, Summa II-II, q.174, art.6, ad 3).
 Như vậy, Sách Giáo Lý nhắm vào thành phần nào? Trong số người này, phải kể đến Hồi giáo và Mormon. Ông Mohammed (Hồi Giáo) cho rằng Bộ Sách Phúc Âm diễn đạt sai về Đức Kitô, riêng phái Mormon thì tin rằng phải có Giao Ước Thứ Ba.
 Những nguồn của mặc khải
Chung cuộc có ba nguồn chính đem lại mặc khải, thị kiến và sự lạ hay những sự kiện tương tự. Đó là: Thiên Chúa, người trần thế, và các thần dữ.
 Từ Thiên Chúa, phải kể đến cả các tạo vật thánh thiện của Thiên Chúa nữa, như Đức Mẹ, một vị Thánh hay thiên thần nào đó.
 Từ người trần thế, tôi muốn nhắm đến bất cứ kiến thức hay kỹ năng hay xảo thuật nào đó của con người, nhắm đến lừa bịp, óc tưởng tượng hay bất cứ hoạt động nào của người trần, nhắm tới bất cứ loại máy móc hay vật dụng nào đó dùng để đưa đẩy cho sự việc gì xẩy ra.
 Từ các thần dữ, tôi muốn nhắm đến chính thần dữ cũng như cộng tác viên của ma quỷ.
 Quyền năng của thần dữ
Có rất ít người biết rõ và biết đầy đủ về các quyền năng của thần dữ cũng như khả năng của chúng trong việc lừa bịp. Nhiều người Công Giáo nghĩ rằng mỗi khi có sự lạ nào xẩy ra đều nhất thiết phải đến từ Thiên Chúa. Thế nhưng như tôi đã nói, các tín điệp hay sự lạ cuối cùng đều có thể phát nguồn từ Thiên Chúa, người trần tục, và các thần dữ. Cần phải có nhận định sáng xuốt để phân định ai là tác nhân trong một trường hợp lạ lùng nào đó.
 Chính sự nhận thức về trò lừa bịp của ma quỉ khiến Giáo Hội phải thận trọng trong việc phân định này. Phần trình bầy kế tiếp của tôi bàn về quyền năng của ma quỉ sẽ dựa vào quan điểm của Cha Jordan Aumann, một linh mục dòng Đa Minh, đã từng là giảng sư nhiều năm tại Đại Học Angelicum University ở Roma.
 Các thần dữ có thể và không có thể làm được những gì?
Các thần dữ không có thể làm được những sự việc sau đây:
 Không thể tạo ra được bất cứ hiện tượng nào mang sắc thái thuần túy siêu nhiên.
Không thể tạo ra được bất cứ một loài thực thể nào cả. Do đó chỉ có Thiên Chúa mới tạo dựng được mà thôi
Không thể cho người chết sống lại được, mặc dầu chúng có thể tạo ra ảo giác là có thể làm được như vậy.
Không thể đưa ra những lời tiên tri đích thực, chỉ duy mình Thiên Chúa mới biết một cách tuyệt đối về tương lai và một số người trần được Ngài tuyển chọn để thực hiện một phần nào đó thôi. Tuy nhiên sự phỏng đoán khéo léo của ma quỉ về tương lai khiến cho người phàm coi đó là lời tiên tri.
Không thể biết được tư tưởng thầm kín trong tâm trí con người. Tuy nhiên trí khôn và óc quan sát sắc sảo của chúng có thể giúp chúng suy luận nhiều thứ về con người.
 Đồng thời các thần dữ có thể làm được những điều sau đây:
Chúng có thể tạo ra những thị kiến hữu hình hay trong tưởng tượng
Chúng có thể giả mạo ra những trạng thái xuất thần.
Chúng có thể chữa lành tức khắc những bệnh tình gây nên do sự ảnh hưởng quỉ quái của chính chúng.
Chúng có thể tạo ra năm dấu thánh.
Chúng có thể giả mạo phép lạ và hiện tượng bay bổng hoặc xuất hiện cùng lúc hai nơi.
Chúng có thể làm cho người hay vật nào đó biến mất bằng cách gây trở ngại cho thị giác của con người.
Chúng có thể tạo cho một người nghe thấy những âm thanh hoặc tiếng nói lạ.
Chúng có thể xui khiến một người nói được các ngôn ngữ khác nhau.
Chúng có thể tiết lộ một sự kiện được che dấu hay ở ngoài xa.
 Bất cứ điều gì trong thiên nhiên hay khoa học có thể thực hiện thì chúng cũng có thể thực hiện được trong phạm vi quyền năng Thiên Chúa cho phép. Xin đọc Sách Xuất Hành trong Cựu Ước sẽ thấy một số phù thủy và pháp sư dưới thời vua Pharaon có thể thực hiện được một số việc lạ lùng mà Mai Sen và Aron đã từng làm (Ex 7:11-12; 7:22; 8:7; 8:18-19; 9:11). Đến gần năm 200 trước Công Nguyên, Ông Tertullian viết: “trước hết chúng (ma quỉ) làm cho bạn bị đau yếu bệnh tật, rồi cũng chính chúng nó chữa bệnh cho bạn. Chúng dùng những cách thức chữa trị có khi hoàn toàn khác thường có khi trái nghịch với những phương cách thông thường để nhờ đó chúng cất đi sự ảnh hưởng của đau đớn. Qua đó chúng đươc coi là kẻ kẻ tài giỏi về việc chữa trị (Apology of the Christian religion, 22).
 Khi đối phó với khả năng lừa bịp của loài thiên thần sa ngã, một điều không mấy ngạc nhiên là Giáo Hội luôn tỏ thái độ rất thận trọng  trong việc tuyên bố sự xác thực của một mặc khải hay một tín điệp.
 Thần dữ có sự thông minh siêu phàm và rất khéo léo, vì vậy bạn sẽ quá tự tin nếu bạn tự cho là mình tự có thể phán đoán về sự xác thực của một điều mà không cần đến sự giúp đỡ từ nơi nào khác.
 Để nhận ra được một điều sai lầm, chỉ cần biết là điều ấy đang nói lên một điều nghịch lại với giáo huấn của Hội Thánh. Nhờ vậy bạn sẽ thấy dễ chống lại những người được thị kiến hơn là nghe theo họ. Thế nhưng chỉ xét đến khía cạnh thiếu vắng sự sai lầm về tín điều mà thôi thì chưa đủ. Còn cần đến các yếu tố tích cực khác nữa.
 Sau đây là một số điều trích dẫn từ chương cuối của cuốn Spiritual Theology (Sheed& Ward 1980), một sách chỉ nam vững vàng của linh mục Dòng Đa Minh là cha Jordan Aumann.
 Những dấu chỉ của thần trí Thiên Chúa
 “Sau đây là những đặc tính phản ảnh chung những dấu chỉ của thần trí Thiên Chúa:
 1.     Chân Thật: Thiên Chúa là Đấng chân thật, Ngài không hề linh ứng trong tâm hồn điều gì khác ngoài sự chân thật. Nếu ai đó tưởng rằng mình là người được Thiên Chúa linh ứng và vì đó mà mang những ý kiến đi ngược rõ ràng với chân lý đã được mặc khải, chống lại giáo huấn của Hội Thánh, hay trái nghịch với khoa thần học, triết lý và khoa học, thì bạn phải đi đến kết luận ngay rằng đương sự đang bị thần dữ lừa gạt, hoặc đang trở thành nạn nhân của sự hoang tưởng hoặc lý luận sai lạc.
 2.     Quan Trọng: Thiên Chúa không bao giờ là căn nguyên của những điều vô dụng, phù phiếm hão huyền, hoặc vô ân sủng. Một khi thần trí Ngài ngự đến một tâm hồn, đều đem lại điều quan trọng và mang lại ân sủng.
 3.     Khai Ngộ: Mặc đầu con người luôn luôn không hiểu hết ý nghĩa điều được Thiên Chúa linh ứng, nhưng ảnh hưởng của bất cứ tác động hay thôi thúc nào của Thiên Chúa đều mang lại tính cách khai ngộ và xác tín, chứ không mang lại tăm tối và nghi nan. Đây là sự thật cả về hiệu quả đối với cá nhân đón nhận điều linh ứng cũng như cả về hiệu quả đối với người khác.
 4.      Tuân Phục: Các tâm hồn được thần trí Thiên Chúa linh ứng đều là những người vui vẻ đón nhận những lời khuyên nhủ và hướng dẫn của các vị bề trên hoặc những người có thẩm quyền trên mình. Tinh thần vâng lời, tuân phục và khiêm hạ này là một trong những dấu chỉ rõ ràng nhất chứng tỏ rằng điều đặc biệt mà đương sự được linh ứng bắt nguồn từ chính Thiên Chúa.
 5.     Thận Trọng: thần trí Thiên Chúa biến tâm hồn trở nên thận trọng, khôn ngoan, và có suy nghĩ về các hành động mình làm. Không vội vàng, nông nổi, phóng đại hay háo thắng. Tất cả đều phải ở mức quân bình, cân nhắc, cẩn trọng và đầy trầm tĩnh và bình tâm.
 6.     Khiêm Nhường: Chúa Thánh Linh luôn đong đầy vào tâm hồn người nhận thị kiến những cảm nghĩ khiêm tốn và tự hạ. Càng thấm nhuần sự thông hảo với ơn trên bao nhiêu, tâm hồn càng biết hướng đến cảm nghĩ mình chỉ là vực sâu của hư vô. Mẹ Maria thưa với Sứ Thần truyền tin: “Này tôi là tôi tớ của Chúa, tôi xin vâng lời Sứ Thần truyền.” (Lk 1:38).
 7.     Bình An: Thánh Phaolô thường nói đến sự an bình phát nguồn nơi Thiên Chúa (Rom 15:33, Phil 4:9), và Chúa Giêsu nhắc đến sự bình an như một trong những biểu lộ thần trí của Ngài (Jn 14:27). Đây thực là điểm son luôn phản ảnh tình thông hảo với Thiên Chúa. Tâm hồn cảm nghiệm được sự thanh thản bền bỉ ngay từ đáy sâu tâm hồn (pp. 402-3).”
 Cha Aumann còn nêu ra một số dấu chỉ khác như: Lòng tín thác nơi Thiên Chúa, Linh động trong ý muốn, Ý nghĩ ngay lành, Kiên nhẫn trong đau khổ, Từ bỏ bản thân. Tâm hồn đơn sơ, Tâm trí tự do.
 Những dấu chỉ của tư tưởng thần dữ
 “... bởi vì thần dữ có thể giả dạng như một thần linh cũng như có khả năng tạo ra những hiện tượng có vẻ huyền bí và xác thực, chúng ta nên để ý những dấu chỉ do ảnh hưởng của ma quỉ vắn tắt như sau:
 1.     Tư tưởng sai lạc. Thần dữ là cha của dối trá, nhưng chúng lại có cái khéo léo biết che dấu lừa bịp của chúng bằng những hiện tượng nửa hư nửa thật và huyền bí giả tạo.
 2.     Óc tò mò bệnh hoạn. Đây là đặc tính của những tâm hồn háo thắng muốn tìm ra những khía cạnh huyền nhiệm của các hiện tượng bí ẩn, hoặc hăm hở với điều huyền bí và siêu phàm.
 3.     Mơ hồ, lo lắng, và chán chường sâu đậm.
 4.     Cố chấp. Đây là một trong những dấu chỉ chắc chắn nhất phản ảnh tư tưởng của ma quỉ.
 5.     Luôn thiếu thận trọng, và tư tưởng bất an. Đây là trường hợp của những người có thái độ thái quá trong hoạt động tông đồ hay những hành vi đền tội, hoặc sao lãng bổn phận cố hữu của mình để tham dự vào những công tác tự mình chọn.
 6.     Tư tưởng kiêu căng và tính háo danh. Rất lo lắng đến chuyện công bố về cái tự gọi là hồng ân được trao tặng và những cảm nghiệm huyền bí.
 7.     Khiêm nhường giả tạo. Đây là điều họ dùng để che dấu lòng kiêu căng và ích kỷ của mình.
 8.     Thất vọng, thiếu tự tin, và dễ nản lòng. Đây là đặc điểm cố hữu và có thể thay đổi dưới các dạng tự phụ, an bình giả tạo hay lạc quan vô căn cớ (p. 412).
 “ Cha Aumann còn nêu ra một số dấu chỉ khác như: Thiếu kiên nhẫn khi gặp đau khổ và phẫn uất một cách cố chấp; Khó kiềm chế đam mê và dễ chiều theo cảm xúc viện cớ là muốn hòa nhập với huyền nhiệm; Giả hình, đóng kịch, đi hàng đôi; Gắn bó thái quá với những an ủi về tình cảm, nhất là trong việc thực hành cầu nguyện; Thiếu lòng sùng kính sâu sa đối với Chúa Giêsu và Đức Maria; Quá câu nệ vào chữ nghĩa, lề luật và quá khích trong việc cổ võ cho một ý tưởng nào đó.
 Dấu chỉ về tư tưởng người trần tục
“Tư tưởng người trần thì luôn hướng chiều về các thỏa mãn của riêng mình. Tư tưởng trần tục coi thú vui trần thế là thân hữu và mọi đau khổ là kẻ thù. Thực chất là luôn chiều theo cá tính, sở thích và vị kỉ riêng một cách thất thường, hoặc chỉ biết thỏa mãn lòng tự phụ của mình. Tư tưởng này không màng gì đến sự khiêm cung, tinh thần xám hối, quên mình hoặc hy sinh. Nếu một vị bề trên hay linh hướng có lời khuyên ngược lại với các ý hướng của đương sự thì họ sẽ bị chụp mũ là người không còn đủ thẩm quyền hay thích hợp với đương sự nữa. Tư tưởng người trần luôn nhắm đến thành công, danh dự, khen thưởng và thú vui. Nó luôn can dự vào việc cổ võ cho người khác ngưỡng mộ để được nổi danh. Tóm lại, tư tưởng người trần không muốn hiểu biết phải trái, cũng chẳng quan tâm đến điều gì khác ngoài lòng ích kỷ của mình.
 “Trong thực tế nhiều khi khó phân biệt được mặc khải nào phát sinh từ thần dữ, tư tưởng trần tục hoặc óc vị kỉ. Tuy nhiên phân biệt mặc khải nào đến từ Thiên Chúa, mặc khải nào do ma quỷ hay con người tạo ra tương đối dễ dàng hơn. Đại đa số các trường hợp mặc khải không đến từ Thiên Chúa. Một khi xác định mặc khải đó không thể đến từ Thiên Chúa chúng ta phải mạnh dạn từ khước chúng ngay mà không cần quan tâm đến nguồn gốc của chúng phát xuất từ thần dữ hay người trần. (p.413)
 Một số mẫu mực để phân định
“Sau đây là một số mẫu mực hướng dẫn cho việc phân định về các nguồn gốc thị kiến cho các vị linh hướng có trọng trách đối phó với các mặc khải và lời tiên tri:
 1.     Bất cứ mặc khải nào đi ngược với các tín điều hay tín lý đều sai lầm, do đó phải bác bỏ ngay. Thiên Chúa không bao giờ tự mâu thuẫn được.
 2.     Bất cứ mặc khải nào đi ngược với giáo huấn chung của các nhà thần học hoặc có dụng ý giải tỏa những cuộc tranh luận giữa các môn phái phải được kể vào loại rất đáng nghi ngờ.
 3.     Nếu có một hay vài chi tiết sai lầm trong mặc khải, thì không nhất thiết cần bác bỏ toàn diện nội dung mặc khải. Các phần còn lại khác có thể là chính xác.
 4.     Sự kiện một lời tiên tri đã được ứng nghiệm thì tự nó không thể đi đến kết luận là điều ấy phát nguồn từ Thiên Chúa. Điều đó vẫn có thể là một điểm khoa học tự nhiên chưa được tìm thấy, một phần cũng có thể là kết quả của trí khôn siêu việt tự nhiên của chính người thị kiến.
 5.     Mặc khải nào chỉ hoàn toàn nhằm đến sự việc vô dụng hay thỏa mãn tính tò mò cũng nên bác bỏ ngay vì điều này không phát nguồn từ Thiên Chúa. Điều này cũng áp dụng vào những mặc khải có nội dung quá chi tiết, dài dòng, tràn đầy những lý luận và bằng chứng. Các mặc khải từ Thiên Chúa thường ngắn gọn sáng sủa rõ ràng và chính xác.
 6.     Người nhận mặc khải cần được xem xét cẩn thận, đặc biệt về thái độ và tính tình. Nếu đương sự tỏ ra khiêm tốn, có nếp sống khá quân bình, thận trọng, đạo đức cao, thể xác và tâm thần đều khỏe mạnh, thì đấy là những lý do chính đáng để tiến xa hơn trong việc xét đến chính nội dung mặc khải. Nếu đương sự tỏ ra quá mệt nhọc do việc hy sinh hãm mình thái quá, mắc bệnh thần kinh, bị ảnh hưởng bởi nhiều đợt chán chường hay mệt mỏi trầm trọng, ham muốn truyền bá điều mặc khải, thì đó là những nguyên do đáng phải nghi ngờ.” (p. 430)
 Óc tò mò
Tín điệp mặc khải có đem lại lợi ích cho sự cứu rỗi các linh hồn hay không? Nếu thuần túy chỉ nhằm thỏa mãn tính tò mò thì nhất quyết đó không phát nguồn từ Thiên Chúa. Một số người dùng thị kiến làm phương tiện hành nghề để đưa ra tin tức về sinh con, hôn nhân, tiến trình pháp luật, bệnh tật, biến cố chính trị. Thiên Chúa không điều hành Văn Phòng Cung Cấp Tin Tức như thế. Người có óc quan sát tài hoặc có trực giác giỏi có thể thành công với một số việc nhỏ. Tại các buổi cầu cơ, đồ dạc được di động qua lại, thần linh điều khiển tay một người nào đó viết ra những tín điệp v.v. Thiên Chúa chẳng khi nào làm những chuyện như vậy trong bất cứ cuộc mặc khải nào đã được Giáo Hội phê nhận, v.v.
 Tính tò mò luôn xuất hiện nơi những người tự cho mình biết số phận cuối cùng của Công Chúa Diana, Frank Sinatra hay Elvis Presley, v.v. Mọi người chúng ta đều muốn biết ai lên hay không lên Thiên Đàng. Có một bà kia tôi nghe nói bà tự cho mình biết mọi người quá cố hiện đang ở đâu. Thật là kỳ cục hết chỗ nói: không ở Thiên Đàng thì ở luyện tội chứ sao! Tôi thiết nghĩ sẽ có tác dụng nguy hại cho việc làm ăn và danh tiếng của mình nếu người nào đó cho rằng một số người thân của mình đang ở hỏa ngục. Còn người nào tuyên bố như vậy về những người có tiếng tăm thì chắc hẳn sẽ bị thất tín ngay lập tức. Cũng thế các cuộc mặc khải mà chỉ nói về những điều hiển nhiên hay những điều vô dụng đều đáng phải nghi ngờ.
 Tại sao thần dữ lại làm chuyện đó?
Người Công Giáo phải luôn cẩn trọng khi tin tưởng vào những thị kiến hay tín điệp trước khi nhận được sự chuẩn nhận của Giáo Hội. Thần dữ đã từng tạo ra nhiều điều huyền bí giả tạo trong những năm gần đây. Có người hỏi: “Tại sao thần dữ lại đứng sau cuộc mặc khải để khuyến khích người ta cầu nguyện, ăn chay và xám hối? Chẳng lẽ bọn Satan lại mâu thuẫn với nhau sao?”
 Đây là câu hỏi hợp tình hợp lý. Vậy thì tại sao thần dữ hành động như thế?
 Trả lời: Chúng làm như vậy vì một số lý do, như nhằm đánh lạc hướng con người để không còn tin vào những cuộc mặc khải cá nhân xác thực; nhằm hướng con người đi đến việc thực hành những điều không được chúc lành bởi Thiên Chúa; nhằm biến cuộc mặc khải cá nhân phải mang tiếng xấu; nhằm làm cho hết tin tưởng hay lâm vào tình trạng khủng hoảng đức tin một khi người được thị kiến sau này bị coi là người lầm lạc, và tệ hơn nữa chúng còn ngầm ý xảo quyệt là lôi kéo một số người theo nhau rời bỏ Giáo Hội. Thần dữ sẵn sàng thua lỗ nếu chúng thắng về lâu về dài.
 Thần dữ vui mừng khi các người Công Giáo bác bỏ những phương thế đã từng thực hiện đem lại lợi ích cho đời sống đức tin để rồi đuổi theo những điều tự được coi là phi thường, không được Giáo Hội chuẩn nhận. Giáo Hội luôn cảnh giác tối đa trước khi đưa ra lời chuẩn nhận một cuộc mặc khải cá nhân, lý do là vì Giáo Hội biết rõ cách thức “mà Satan thường giả dạng thành một thiên thần của ánh sáng” (2 Cor 11:14). Giáo Hội phải tránh tình trạng nhẹ dạ và niềm tin không có nền tảng. “Đừng gạt bỏ Chúa Thánh Linh, đừng coi thường lời tiên tri, nhưng phải kiểm chứng mọi sự!” đó là lời giáo huấn của thánh Phaolô (1 Thess 5:19-21). Đồng thời Thánh Gioan cũng khuyến cáo: “Anh chị em thân mến, đừng tin vào thần linh nào cả, nhưng hãy kiểm chứng lại các thần linh để biết có phải xuất phát từ Thiên Chúa hay không” (1 Jn 4:1). Một số thần linh rất dễ phân biệt, số khác phức tạp hơn. Riêng các linh mục phải biết làm gương đặc biệt về ơn khôn ngoan và đức vâng phục trong lãnh vực này.
 Những gương về người thị kiến bị luận xét là lầm lạc
Một vài cá nhân đã từng bị nêu đích danh để luận tội, ví dụ như Vassula Ryden, Hòn sỏi nhỏ, William Kamm. Vassula Ryden đã từng bị Hội Thánh kết án hai lần (tức văn phòng của Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin) với nguyên do là cuộc mặc khải của nàng không phát nguồn từ Thiên Chúa, lại còn chứa những sai lầm đi ngược lại Đức Tin. Bạn có thể nghe nói: “nhưng bài viết của nàng chứa đựng nhiều tư tưởng thật là tuyệt diệu và rất là siêu nhiên.” Tôi đồng ý về điều này. Có lẽ 99% bài viết của Vassula là phù hợp với Đức Tin Công Giáo - thế nhưng đó chỉ là cách thức thần dữ dùng để đánh lừa người Công Giáo đạo đức. Chỉ có 1% là nguy hại. Một trái táo có thuốc độc trông vẫn là trái táo ngon, tuy nhiên nó có tác dụng gây nguy hại cho bạn. Thần dữ không thể đánh lạc hướng những người Công Giáo sùng đạo bằng những lời lẽ lạc đạo thẳng thừng, nhưng chúng có thể nại đến lòng đạo đức của họ để rồi nhẹ nhàng gieo rắc sự sai lầm.
 Trong mọi cuộc mặc khải đã được Giáo Hội chuẩn nhận từ trước đến nay, không có trường hợp nào Thiên Chúa dùng bàn tay con người để viết lên những tín điệp của Ngài. Thế nhưng bạn có thể tìm thấy những tín điệp được viết tay tại các buổi cầu cơ - và các buổi cầu cơ đều bị Giáo Hội lên án là một sinh hoạt của huyền bí chống lại luật lệ Thiên Chúa.
 Tôi đã đọc một tập san tu đức lên tiếng bênh vực Vassula rằng Đức Hồng Y Ratzinger chưa hề ký lời minh định chống lại bài viết của nàng và đăng trên báo L'Osservatore Romano. Thực ra một người mà tôi quen biết đã gởi cho tập san này lời minh định trích từ tờ báo chính thức của Giáo Hội tên là Acta Apostolicae Sedis, có chữ ký của Đức Hồng Y phía dưới cùng với chữ ký của vị Giám Mục Thư Ký Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin nữa. Có điều đáng tiếc là vị chủ nhiệm tập san nói trên không có tinh thần khiêm nhường và trung thực đủ để cho đăng lời đính chính trong các số báo kế tiếp.
 Một ví dụ khác: những cuộc hiện ra tại Garabandal miền Bắc Tây Ban Nha trong đó bốn cô gái tự cho rằng Đức Trinh Nữ Maria đã hiện ra với các nàng từ năm 1961 đến 1965. Các vị giám mục kế tiếp của địa phận Santander đều nhất loạt không chuẩn nhận. Ngay vị giám mục hiện nay là Giám Mục Vilaplaua cũng đồng thanh với phán quyết đó. Bất chấp phán quyết này, một số hội đoàn vẫn còn tích cực lên tiếng bênh vực vụ Garabandal. Đây là một gương đơn giản về bất phục tùng đối với thẩm quyền hợp pháp.
 Đây chỉ là một trong nhiều trường hợp không thể kể ra hết được. Chẳng hạn như còn có Montichiari tại Italy (1947), Necedah tại Hoa Kỳ(1949), Palmar de Troya tại Tây Ban Nha (1968), Bayside tại Hoa Kỳ. (1970), Dozule tại Pháp (1972), và hằng trăm trường hợp khác - đó là chưa kể tới tất cả những người tự nhận là sứ ngôn và người đưọc thị kiến trong quá khứ và hiện tại, như người đàn bà Ái Nhĩ Lan tên là Christina Gallagher và nhiều tâm hồn đáng thương khác bị lừa dối. Tín điệp của bà Gallagher có phần thể hiện tâm trạng âu lo thái quá của người phụ nữ khóc than cho tương lai đen tối của thế giới. Trong thực tế có rất nhiều hạng người lo âu cuồng nhiệt than khóc cho số phận của thế giới xuất thân là người Công Giáo đạo đức - tuy nhiên có điều nên lưu ý là Đức Trinh Nữ trên Thiên Đàng không nói giọng bực bội với người phàm như vậy đâu. Gán ghép những giọng nói như thế cho Đức Mẹ là một điều phỉ báng.
 “Cứ có thị kiến đi? Rồi sẽ được du lịch.” Những người muốn xuất hiện trước công chúng như vậy không đáng được tin tưởng. Người thị kiến trung thực luôn né tránh công chúng. Những người này chẳng bao giờ đi đây đi đó với đoàn tháp tùng gồm nhiều nhiếp ảnh gia và máy chụp đâu. Họ chấp nhận để các thẩm quyền trong Giáo Hội điều tra mà không cần đến những cổ võ của đại chúng.
 Thẩm quyền luận xét và bổn phận vâng lời
 Không có một tư nhân nào có thẩm quyền luận xét chính thức và tối hậu để đi đến phán quyết các cuộc mặc khải cá nhân là xác thực hay không.
 Thẩm quyền cầm cân nẩy mực về sự xác thực của một mặc khải cá nhân trước tiên nằm trong tay vị Giám Mục địa phương.
 Các cuộc hiện ra tại Lourdes, Knock, Fatima, Beauraing, Banneux - chỉ xin kể một vài nơi tiêu biểu - đã được chuẩn nhận bởi các Giám Mục địa phương. Các Vị Giáo Hoàng đương thời không hề đưa ra lời minh định về các chuyện này. Theo giáo luật thực hành thời nay, Giám Mục địa phương phải bổ nhiệm một Ủy Ban để điều tra và đưa ra luận xét về bất cứ cuộc mặc khải cá nhân nào đó (nếu ngài nhận thấy đáng phải điều tra), tuy nhiên Toà Thánh có thể can thiệp vào khi thấy cần hoặc khi được vị giám mục địa phương yêu cầu. Đàng khác, ngài cũng có thể yêu cầu Hội Đồng Giám Mục của quốc gia ngài giúp đỡ trong tiến trình điều tra và đưa ra phán quyết.
 Giáo luật cấm và coi là phạm tội nếu một ai truyền bá những mặc khải cá nhân chưa được chuẩn nhận bởi giám mục địa phương, Hội Đồng Giám Mục, hoặc Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin của Tòa Thánh Vatican. Có người biện bạch: “Tôi cứ tin cho tới khi nào Đức Giáo Hoàng tuyên bố là sai lầm thì sẽ thôi.” Đây là một hướng dẫn vô dụng trong vấn đề này - Rất họa huần Đức Giáo Hoàng mới loan báo việc chuẩn nhận hay bác bỏ một mặc khải.
 Đối với những lời minh xác gán cho Đức Giáo Hoàng (chẳng hạn như: tôi nghe thấy rằng Đức Giáo Hoàng có nói với bà Smith sau thánh lễ tại Nguyện Đường riêng của ngài rằng ngài tin có mặc khải tại Garabandal và Bayside;” hoặc: “Đức Giáo Hoàng bảo Jack rằng ông ta cứ việc xúc tiến ấn hành cuốn sách bị cấm đó”) - không ai được quyền hành động theo chuyện tầm phào như thế. Giáo Hội được điều hành bằng những minh định và được ban bố một cách công khai - chứ không nhờ đến những tin đồn hay thông tin cá nhân như vậy.
 Các Đức Giáo Hoàng có thể tự chọn việc bầy tỏ sự chuẩn nhận của các ngài đối với một vài mặc khải nào đó theo sau quyết định của Giám Mục địa phương, hay Hội Đồng Giám Mục bằng cách ngài đề cập đến mặc khải, hoặc bằng cách đặt thêm ngày lễ kính trong niên lịch phụng vụ, hoặc bằng cách hành hương đến nơi có liên hệ mật thiết với mặc khải (v.d: Guadalupe, Paray-le-Monial, Rue de Bac, Lourdes, Knock, Fatima, Beauraing, Banneux).
 Ngay cả trong trường hợp Giám Mục địa phương có sự sai lầm khi không chuẩn nhận một mặc khải chính xác, thì việc vâng phục vẫn phải được coi là trọng. Giáo luật cho là phạm tội nếu người nào không tuân phục (Giáo quyền) đi truyền bá mặc khải cá nhân, thế nhưng không có tội nếu người ta không truyền bá một mặc khải cá nhân nào đó. Luật này áp dụng cho cả người thị kiến cũng như người tin theo. Trong thực tế người tự cho mình được thị kiến bất tuân phục một lệnh hợp lý của Giám Mục, và cứ cho rằng Thiên Chúa đang phù hộ cho hành động của mình, thì đây chính là dấu chỉ rõ ràng tín điệp ấy không phát nguồn từ Thiên Chúa. Ngay cả khi một mặc khải xác thực được chuẩn nhận, thì chính Thiên Chúa cũng không muốn hay khuyên nhủ người thị kiến nên truyền bá điều mặc khải trái với sắc lệnh hợp pháp yêu cầu ngưng điều đó của vị Giám Mục. Thực tế cho biết rằng có nhiều dịp trong đời sống của Thánh Nữ Têrêsa Thành Avila (chết năm 1582) Thánh Nữ Margaret Mary (chết năm 1690) và Nữ Tu Josefa Menendez (chết năm 1923) là những người Chúa đã chỉ thị cho họ công bố sự việc, tuy nhiên Bề Trên của Họ đã ngăn cấm. Vậy họ đã làm gì? Họ vâng lời các bề trên là người phàm trần. Và Chúa đã nói gì với Họ? Ngài phán: “Chúng con đã làm một việc đúng khi chúng con vâng lới người thay mặt Ta.”
 Vào một lần kia, Thánh Tâm Chúa Giêsu bảo Thánh Nữ Margaret Mary làm điều gì đó, nhưng bề trên của Thánh Nữ không chấp thuận. Lần Ngài hiện ra sau đó, Thánh Nữ hỏi Ngài về việc này Ngài nói: “... không những Cha mong muốn con nên làm những gì Bề Trên của con khuyên làm, nhưng Cha còn muốn con không được làm bất cứ điều gì khi không có sự chấp thuận của Bề Trên dù đó là điều Cha bảo con làm. Cha hài lòng về sự vâng lời của con. Cha không hài lòng với bất cứ ai không có đức vâng lời” [Bút Ký của Thánh Nữ Margaret Mary].
 Các tác giả tu đức thường có câu châm ngôn: Bề Trên có hoặc không được linh ứng về những điều mà họ khuyên bảo, nhưng chính con luôn được linh ứng là phải vâng lời. (Dĩ nhiên ở đây chúng ta không nói đến việc Bề Trên khuyên đi vào đường tội, và như tôi đã nhấn mạnh trước rằng nếu bỏ qua điều mặc khải cũng không bị coi là phạm tội gì cả).
 Satan có khả năng lừa dối bằng cách cổ võ việc tốt trong một thời gian để cuối cùng chúng chiếm phần thắng lợi trong tương lai. Những cuộc mặc khải của Necedah, của Wisconsin xem ra có
 hiệu quả tốt, nhưng lại là sai lầm. Chuỗi tràng hạt được nói là biến thành vàng. Mặc khải tại Bayside cũng tương tự như thế. Và rồi chính sự không vâng lời đã minh chứng họ sai lầm. Chúa nói với Thánh Nữ Margaret Mary rằng: “Con gái của Cha ơi! Hãy lắng nghe! Đừng bao giờ con nhẹ dạ tin vào thần linh nào cả, vì Satan sẽ căm hờn và tìm nhiều cách để lừa dối con. Con đừng làm điều gì khi không có sự chấp thuận của người linh hướng cho con. Như thế dưới danh nghĩa đức vâng lời, những cố gắng của Satan chống lại con sẽ thành vô vọng, bởi vì chúng chẳng có quyền lực gì trên người biết vâng lời” [Bút Ký].
 Ngoài yếu tố sai lầm đã bàn tới, một dấu chứng quan trọng khác của điều bí nhiệm giả mạo phải lưu tâm tới đó là tính cố chấp và bất tuân. Tôi rất thích lời trích dẫn của Thánh Faustina Kowalska: “Satan có thể khoác vào mình chiếc áo khiêm nhường, nhưng chúng không biết cách mặc chiếc áo vâng lời” (Nhật Ký đoạn 939). Những người được thị kiến trung thực, như Thánh Piô Thành Pietrelcina (thường gọi là Cha Piô), là những gương mẫu mực thước về đức vâng lời. Họ chẳng bao giờ dựng nên chuyện Đức Kitô chống lại Giáo Hội cùa Ngài.
 Mỗi người đều tự do đưa ra ý kiến riêng của mình, nhưng mọi người đều cần đặt mình dưới sự xét đoán của Giáo Hội bằng việc thực thi đức vâng lời. Điều tôi muốn nói ở đây là bạn được tự do bất đồng ý kiến (vì Giám Mục không phải là người không có thể sai lầm trong vấn đề này), thế nhưng bạn có bổn phận thực thành đức vâng lời đối với ngài, có nghĩa là bạn không được phép hành động chống lại sắc lệnh của ngài, bạn không được truyền bá mặc khải nào đó khi ngài không chuẩn nhận là xác thực, cũng như bạn không được tiếp tục nói công khai rằng mặc khải đó là chính xác. Bạn hãy nhớ điều này, một hội đồng của Giáo Hội có thể đưa ra lệnh bác bỏ vì những lý do mà hội đồng không tiện nói ra một cách công khai, chẳng hạn như hội đồng có thể tìm thấy những điều không tốt về người thị kiến, nhưng không muốn tuyên bố công khai những điều đó ra, dù rằng nói ra sẽ có lợi về việc minh chứng lệnh bác bỏ là đúng và có thể giúp cho mọi người dễ chấp nhận hơn.
 Nếu một tín điệp không được chuẩn nhận là xác thực vì lý do tín lý, bạn không được tự do bào chữa cho các loại tín điệp ấy, bởi vì bạn sẽ bào chữa cho sự sai lầm. Trường hợp Vassula Ryden là một ví dụ về khía cạnh này: Mặc dù Thánh Bộ Tín Lý Ðức tin đã phán quyết các bài viết của Ryden sai lầm về tín lý. Một số người đạo đức vẫn còn nêu nghi vấn để biện minh và thắc mắc nhằm bào chữa cho Ryden là điều tôi không hiểu nổi vì điều đó vượt quá khả năng. Trường hợp của Vassula rõ ràng như trắng với đen. Ngoài yếu tố không phù hợp giáo điều, điều mà nàng tự cho là mặc khải đã được chính Chúa tự tay viết ra lại có chứa nhiều lỗi chính tả và văn phạm Tiếng Anh!
 Bạn có quyền nói công khai rằng một mặc khải đã được chuẩn nhận là không xác thực chăng? Được, bạn có thể nói như thế nếu muốn. Giáo Hội chẳng bao giờ buộc bạn phải nhìn nhận mặc khải cá nhân nào cả. Tuy nhiên thái độ bất đồng ý kiến như thế nên phát biểu với lòng kính trọng.
 Cẩn trọng chẳng khi nào gây hại
Một sự kiện đơn giản cần nhớ là hầu hết các cuộc mặc khải cá nhân đều là giả mạo. Do đó thật là khờ dại nếu lại đi dấn thân vào việc truyền bá một tín điệp sai lầm hay còn đang trong nghi ngờ là có thể xuất phát từ Cha của Dối Trá. Nếu một ngày nào đó bạn tự nhận ra được đó là điều sai lầm, bạn sẽ hối tiếc không biết bao nhiêu mà kể, và lúc đó bạn sẽ không có cách nào hàn gắn lại được những thiệt hại bạn đã gây ra cho người khác. Mặt khác, nếu bạn muốn truyền bá thì thiếu gì những tín điệp đã được chuẩn nhận để truyền bá. Tốt nhất là hãy gắn bó với những điều đã được Giáo Hội phê chuẩn hơn là làm theo ý riêng để rồi dễ sa vào bẫy lừa đảo của thần dữ.
 Cha Peter Joseph ở Wagga Wagga, Úc Châu. Ngài có bằng tiến sĩ về Tín Lý Thần Học của Đại Học Giáo Hoàng Gregorian, Roma. Ngài là người hiệu đính trong việc duyệt lại bộ "Apologetics and Catholic Doctrine" của Đức Tổng Giám Mục Sheelan (nhà xuất bản Saint Austin Press năm 2001). Hiện nay ngài là chưởng ấn của Tỉnh Dòng Maronite Úc Châu.
http://www.christianorder.com/features/features_2004/features_oct04.html

Thứ Ba, 23 tháng 4, 2013

Ở VỚI MẸ -7-

23.4
Tình trạng phù chân mẹ mình hôm nay đã chỉ còn 2/10, nhờ mát xa và uống nước Artichaud con em nấu.
Trong những ngày ngắn ngủi  ở với mẹ, mình tự nhủ sẽ chiều chuộng Cụ hết sức và quả thật, được con cái săn sóc, lưu tâm, người già cảm thấy vui. Mình không phải là một đứa con khéo léo, vồ vập. Bây giờ mới thú nhận là bao lâu còn ở với mẹ, mình thích chăm nom mẹ vì mình noi gương những người tốt xung quanh mình.    Mình thường nhớ đến clip trên mạng kể câu chuyện hai cha con người kia ngồi ghế đá công viên. Người cha hỏi đi hỏi lại con trai những câu hỏi quen thuộc.Cậu con  lúc đầu còn trả lời tử tế, sau cậu bực, cậu gắt với cha. Bấy giờ người cha mới dẫn cậu nhớ lại  ký ức xưa, khi cậu còn bé, ông cũng phải kiên nhẫn trả lời những thắc mắc trẻ con của cậu mà ông không hề  khó chịu.
Mình còn nhớ đoạn phim thời sự trên màn ảnh nhỏ chiếu  về người đàn ông Nhật Bản nuôi mẹ già chu đáo như thế nào, nấu ăn, đút cơm cho mẹ, đẩy xe lăn đưa mẹ đi chơi, vui cười với mẹ, cho đến khi bà mất trên giường bệnh.
Hay phim Dì Đào (tại đây)...
Và còn biết bao nhiêu người tử tế, hiếu đễ mà mình gặp : Một Ng. xóm trong, hằng ngày ra chợ bán buôn ba cái đồ bánh trái vốn liếng chẳng là bao, có khi rửa chén bát cho quán ăn kiếm vài ngàn, hầu hạ một mẹ già sống vật vờ và một anh trai khùng dở. Một N. đôn hậu, tốt bụng, có đủ điều kiện và khả năng để vi vút đó đây với bạn bè, nhưng nhiều năm nay cứ chôn chân trong nhà để chăm sóc bố mẹ già. Một H. xí gái, hiền lành, nhỏ bé, ẩn dật, vô danh giữa xã hội (mà đẹp đẽ biết bao trong lòng mình)....Cám ơn tất cả.
Những người mình quen biết ấy không có gì cho thế gian để ý tới. Có thể còn bị coi thường, nhưng ở họ là một gương cho mình muốn soi mà bắt chước.
Vì mình không khéo léo cho lắm.
Với lại mẹ già còn ở với ta bao lăm !
Sáng nay, chị bạn tên Đ. ở Mỹ gọi về khen mẹ mình trên blog đẹp. Chị bảo mình  hạnh phúc quá rồi.Vâng đúng vậy, HT. cũng đón nhận hạnh phúc quá lớn lao này đến độ có thể cậy dựa vào đó mà coi thường được những trái ý phiền lòng nào đó, ai đó gây ra cho mình. Niềm vui lớn, thôi, ta coi những nỗi buồn là chuyện nhỏ.
HT

THIÊN TÀI THOMAS EDISON

Một ngày kia, một cậu bé bị tật điếc 50% cầm về cho cha mẹ lá thư báo tin của nhà trường là cậu bị đuổi học vì trí khôn quá kém.
Đọc qua lá thư, mẹ cậu không những không nổi giận mà còn bênh vực cậu và bà trả lời cho nhà trường như sau: “Con tôi không quá ngu muội đến độ không còn học được gì nữa, từ nay tôi sẽ đích thân dạy cho con tôi”.  Và cậu bé có tật lãng tai bị nhà trường đuổi không cho học nữa đó là thiên tài Thomas Edison, người đã phát minh ra nhiều kỹ thuật khoa học còn được xử dụng cho tới ngày nay, chẳng hạn như phát minh ra bóng đèn điện, máy chiếu phim, dĩa ghi âm. Khi ông chết rồi người ta còn đếm được ông đã có hàng trăm bằng cấp thị thực phát minh về công lao của ông.

“Con tôi không quá ngu muội đến độ không còn học được nữa. Tôi sẽ đích thân dạy học cho con tôi”. Tình thương và thái độ của người mẹ đối với con mình là Thomas Edison có thể nhắc chúng ta về tình thương và thái độ của Thiên Chúa đối với mỗi người chúng ta.  Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về chúng ta mặc dầu chúng ta là những tội nhân.  Thiên Chúa không bao giờ ngừng yêu thương chúng ta dù chúng ta sống xa Ngài.  Ngài đã so sánh tình yêu của Ngài như tình yêu của một người mẹ hiền và còn hơn tình yêu của người mẹ hiền nữa “Giả như người mẹ có thể quên con cái mình, thì Ta, Ta sẽ không bao giờ quên con”.  Và Chúa Giêsu khi rao giảng Tin Mừng đã dùng hình ảnh vị chủ chăn đi tìm chiên lạc để mạc khải cho chúng ta tình thương của Thiên Chúa đối với con người.  Thiên Chúa, Đấng ngự trên trời không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn phải hư mất.
*******************************
Qúy vị và các bạn thân mến,
Những lời dạy của Chúa Giêsu gia tăng niềm hy vọng nơi mỗi người trong chúng ta.  Ngài tận dụng những gì Ngài có thể làm để biến đổi chúng ta, để giúp chúng ta phát triển những tài năng mà Ngài ban cho chúng ta.  Nếu không có tình thương của người mẹ thì Thomas Edison bị nhà trường đuổi kia sẽ không phát triển được hết tài năng của mình.  Cũng vậy, nếu Thiên Chúa không yêu thương và kiên nhẫn nâng đỡ thì có lẽ chúng ta không làm được gì.  Nhưng chúng ta cũng đừng ỷ lại, đừng lạm dụng tình thương của Chúa, đừng dừng lại trong những tật xấu ươn hèn của chúng ta.  Hơn nữa, chúng ta cũng được mời gọi noi gương Chúa đối xử với chúng ta như thế nào để đối xử với anh chị em xung quanh như vậy.  Thiên Chúa kiên nhẫn yêu thương chúng ta thì chúng ta cũng kiên nhẫn yêu thương anh chị em xung quanh như vậy.  Thiên Chúa không thất vọng về chúng ta thì chúng ta cũng đừng thất vọng về người anh chị em.
Tình yêu thương là phương thế duy nhất Thiên Chúa dùng để phát triển tài năng nơi chúng ta thì tình yêu của chúng ta với nhau cũng giúp nhau thăng tiến cuộc sống mỗi người anh em chúng ta.  Hãy để cho Thiên Chúa yêu thương mình và xin Thiên Chúa giúp mình yêu thương anh chị em xung quanh như Ngài đã nêu gương để đừng ai bị loại bỏ ra ngoài khi Ngài ngự đến.
*******************************
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa vì phẩm giá, vì tài năng Chúa ban cho mỗi người chúng con.
Xin giúp chúng con sống trong tình yêu Chúa và hăng say đóng góp phần của mình vào việc thăng tiến anh chị em xung quanh, thăng tiến xã hội, môi trường chúng con đang sống hàng ngày.
Xin cho chúng con được luôn tin tưởng vào tài năng Chúa ban cho chúng con để làm sinh sôi nén vàng Ngài đã giao cho. Amen!
R. Veritas


Thứ Hai, 22 tháng 4, 2013

Ở VỚI MẸ - 6 -


22.4 
Mẹ kể ngày xưa nhà mình ở Dalat có nuôi một con khỉ. Một hôm, nó xổng ra ngoài.
Mẹ mình lúc ấy đang ngồi ở salon, Con khỉ chạy đến, nhảy vào lòng mẹ , ôm chặt mẹ.
Nhà không có ai, mẹ sợ quá. Không biết làm sao về sau kêu cứu, có người hàng xóm sang giúp gỡ nó ra .
Hồi ba mình làm ở Nha Thông Tin, ba đi thăm các buôn người Thượng, được một ông Lý Trưởng tặng một miếng thịt trâu bự cỡ  2 ký lô, ông lận từ thắt lưng khố của ông ra. Và vì cuộc gặp gỡ ấy có chụp hình , rửa mang về cho nhà xem. Từ khi xem bức ảnh ấy, mẹ sợ thịt quá.
Một chuyện nữa, nhân lúc được bóp chân, mẹ kể, chuyện này còn xưa hơn hai chuyện trên. Ấy là ngày mẹ mình còn bé, độ vài tuổi, chơi ngoài sân, hay bị bà Ngoại gọi vào, bắt  đứng lên hai chân bà, dần dần cho bà đỡ nhức chân. Bà có một chai rượu thuốc gọi là chai “Hột Cốt Linh”, dùng để uống và bôi nơi đau nhức, thấp khớp. Dì Bảo hay uống trộm Hột Cốt Linh của bà, nhưng mẹ mình và dì  Út Hảo  không dám uống vì đấy là rượu. Sau , cứ rượu độc thì mẹ để cho dì Bảo uống. Mẹ không uống, cho nên bây giờ mẹ không biết uống rượu (nhưng các con gái mẹ thì …biết).
 Hôm nay nghe mẹ kể chuyện ngày xưa thì biết  thân mẫu mình rất nhát.
Nhưng, mình còn nhát hơn. Nghe kể chuyện con khỉ bám mà chết khiếp. Nhớ năm nào lên Xitô ở Bãi Dâu, theo chân cha Ân Đức đi tham quan nhà dòng, mình bị con khỉ nhà dòng nuôi cắn một phát, ghét ! Không biết bây giờ các cha còn nuôi nó không, nuôi làm gì cái giống hay bắt chước. Ấy là nói  con khỉ chứ mình không có ý nói các cha hay bắt chước hay là hay… cắn khách.
Còn về rượu và thịt thì ...chuyện nhỏ. Mình còn nhậu  được với mồi thịt chuột nữa a ! Không tin hỏi mấy ông nhạc sĩ nhac đoàn Lê Bảo Tịnh thì biết. Nhỉ Khương Huệ bạn nhậu nhỉ ! Dạo này người đẹp chán rượu rồi, tập Yoga chán rượu rồi, người ta bảo bợm mà chán rượu là chuẩn bị ngủm củ tỏi đấy. Mà thôi, hãy đọc bài HT viết chứ đừng nghe HT xúi dại, chết thật chứ chẳng chơi. He he !
HT

MONG KHÔNG NHẦM

NHT. Một bức e-mail mới đến tay, khiến mình rất ngạc nhiên. Đây là thư gởi Đức Giáo Hoàng Phanxicô, ký tên Giuse Trần Đình Long, linh mục dòng Thánh Thể. Tất cả những dư luận quanh chuyện cha Long đi nghỉ Sabatical thời gian qua gần như đã lắng đọng hoàn toàn , nhưng giáo dân lưu tâm đến Thánh lễ Lòng Chúa Thương Xót không quên. Mình không đi lễ ấy nhưng cũng không quên, vì thế mình thấy lạ lẫm với những lời lẽ trong bức thư. Lạ mà quen, lạ mà ngộ. Lạ mà vui. Vui vui, ngồ ngộ, mà lạ thiệt ! Đáng lẽ, theo thói thường oái oăm, ưa xỉa xói của dân cư mạng, đăng ảnh dưới đây rồi tên ở dưới bức thư sẽ ký là A, là B hay là HT chẳng hạn. Nhưng không, mình tin chắc đây đúng là lời của cha Long LTX.,cho nên mình post ảnh ông lên. Mong không nhầm. Nếu có sự nhầm lẫn giữa việc và người, xin quý bạn nhắc nhở. 
Cha Long LTX.  có thể đính chính, phiền trách, nhưng không mong, mình mong điều khác cơ ! Mong cha nào-con nấy.


Cha Long LTX.

THƯ GỞI ĐỨC GIÁO HOÀNG PHANXICÔ
CHA THÌ THẾ-CON THÌ KHÔNG
 “Hãy luôn luôn tín thác nơi lòng thương xót của Chúa
 và đừng sợ hãi là Kitô hữu và sống như Kitô hữu” 
 Thưa cha,
Đáng lý ra con phải viết là “Kính thưa Đức Thánh Cha” hoặc “Trọng kính Đức Thánh Cha” nếu không sẽ bị mắng là “vô phép vô tắc” vì thưa chuyện với vị lãnh đạo tinh thần tối cao của hơn 1 tỷ người Công Giáo trên toàn cầu mà dám hỗn hào gọi trống là “thưa cha”.
Ai mắng thì mắng, nhưng con biết chắc khi đọc lá thư này cha sẽ không mắng con, vì khi còn là Hoàng y Jorge Mario Bergoglio, Tổng Giáo mục Giáo phận Buenos Aires, cha vẫn thích được gọi là “anh Jorge” hay “cha Jorge”. Đơn giản thế thôi, vậy mà rất thân thương và gần gũi đấy cha ạ!
Thông thường khi có được một chức vụ nào, người ta hãnh diện và thích gọi bằng chức vụ hơn là gọi bằng tên, hoặc phải đề chức vụ đó trước cái tên của mình trong danh thiếp. Ngoài đời như thế và trong đạo cũng vậy. Nào là “Tổng Giám Đốc NVX”, “Chủ tịch Hội Đồng Quản Trị TDM”. Rồi “Ông Chủ Tịch Hội Đồng Giáo Xứ TDN...”, “Bà Trưởng Hội Các Bà Mẹ CG NTX...”, “Cha Tổng Thư Ký MTL” “Chị Bề Trên Giám Tỉnh VTC”... Con cũng thích như vậy lắm chứ. Máu háo danh mà! Có lẽ Chúa thấy con ham hố quá cho nên Chúa chỉ cho con suốt đời là lính trơn, muốn đặt một chức vụ nào trước cái tên cúng cơm mà tìm mãi không ra!
Con đến thăm nhà một giáo dân. Đứa bé chạy ra ôm lấy con và nói “chào cha Long”. Mẹ nó mắng ngay “Con gọi là cha được rồi. Con không được hỗn gọi tên cha! Nếu muốn gọi tên thì con phải gọi tên thánh là cha Giuse!” Ô kìa. Cái tên do cha mẹ đặt cho mình sẽ theo mình suốt đời lại không được gọi, hay không muốn người khác gọi trống không như thế, còn chức vụ được người ta ban cho hay bầu bán, chạy chọt lo lót, là cái nay còn mai mất, “quan nhất thời, dân vạn đại” lại là cái mình cứ khư khư muốn giữ lấy, muốn người ta gọi cái chức danh thay vì gọi tên. Hơn nữa còn tự xưng chức vụ của mình thay vì xưng tên. Lạ thật ! Chính vì thấy lạ như thế cho nên khi được bầu làm Giáo Hoàng với ba con số 3: ngày 13 tháng 3 năm 2013, cha vẫn cứ bình dân giản dị, cứ sống như cha đã sống, không quan tâm đến chức tước địa vị, và nhất là không để cho bả danh vọng chức vụ làm biến chất con người thật của cha, làm mất nét hồn nhiên của “anh Jorge” hay “cha Jorge”.
Bà nội trợ 64 tuổi, Maria Elena Bergoglio ở thành phố Ituzaingó của Argentina, là người em gái duy nhất còn sống của cha, khi được hỏi bà đã nói chuyện với anh trai bà mấy lần từ ngày cha làm giáo hoàng, bà cho biết : “Ngài điện thoại ngay khi có thể sau khi được bầu, và đó là cuộc nói chuyện rất xúc động. Tôi không thể nào giải thích được xúc cảm của mình lúc đó. Sau lần đó, ngài còn gọi một lần nữa, và lần này, chúng tôi nói chuyện với nhau thân tình như anh trai nói với em gái. Một cuộc tán gẫu rất bình thường như vẫn thường xẩy ra. Thí dụ, ngài muốn biết tôi đang nấu món gì!”
Khi được hỏi vậy bà vẫn gọi ngài là “Jorge” hay đã gọi là “Phanxicô” hay “Đức Thánh Cha”. Bà hồn nhiên đáp : “Tôi vẫn gọi là Jorge, Jorge! Bao lâu tôi còn biết đó là tên anh trai tôi thì tôi còn gọi ngài là Jorge!... Về căn bản, tôi muốn ngài vẫn là anh Jorge, vẫn làm những cử chỉ nhỏ mọn như lúc còn làm hồng y ở đây, như đi cử hành Thánh Lễ cho người trẻ vào Thứ Năm Tuần Thánh. Ngài vẫn giảng dạy và ban hành các sứ điệp mục vụ theo cách ngài vốn được dạy phải làm, tức là bằng gương sáng. Không phải nói bài nói, mà là bước đường bước.”
Người em gái của cha tin chắc rằng “những hoành tráng và nghi lễ của Vatican” sẽ không làm sứt mẻ sự khiêm nhường mà cha theo đuổi suốt đời. Cha xin những người Argentina đừng chi tiêu tốn kém cho các chuyến đi đến Rome để dự lễ tấn phong của cha, mà dành tiền đó cho các tổ chức từ thiện, là một dấu hiệu mạnh mẽ chứng tỏ cha sẽ không thay đổi. Bà nói trong một cuộc phỏng vấn tại nhà, ở phía tây thành phố Buenos Aires. "Tin nhắn đó... làm cho tôi cảm thấy như ngài vẫn còn đi trên cùng một con đường, và ít ra là ngài đã không bị ảnh hưởng vào lúc này. Không có chất độc nào tồi tệ hơn là quyền lực !"
Bà nói thêm rằng tình cảm của cha "là dành cho người nghèo, người yếu đuối nhất, trẻ nhỏ. Cha có sự nghiêng chiều về người nghèo. Cha cũng không bao giờ mong muốn trở thành giáo hoàng. Bà nói. "Chúng tôi đã chọc anh ấy về chuyện đó, và anh ấy nói, 'Ồ, xin vui lòng!' ('Oh, please!')"
Cha ơi,
Nghe em gái của cha nhận định về anh của mình như thế làm con thấy “nhột” quá! Con lúc nào cũng khao khát được “thăng quan tiến chức”. Con tìm mọi cách để leo lên chức này chức nọ. Tu mãi mà cứ làm lính quèn thì chán chết được! Nếu “mèo mù vớ cá rán”, được “lên chức” thì con sẽ mời cả xứ, cả họ, cả giáo phận, cả nước đến trong ngày con “vinh quy bái tổ”. Con sẽ cố gắng mời càng nhiều càng tốt các đấng bậc vị vọng, các đại gia, tiểu gia, thiếu gia, các ân nhân đặc biệt, các doanh nghiệp để chứng tỏ cho mọi người thấy “đẳng cấp” của con. Thiệp mời được gởi đến từng gia đình. Ai không đi được thế nào họ chẳng gởi phong bì, thế là con...có lời! Còn những người nghèo, những người yếu đuối bệnh tật con sẽ tặng họ tấm hình của con phóng thật lớn, photoshop làm thật đẹp để nhà nhà cùng treo tấm hình ấy mà...nhớ đến con, chứ không phải nhớ đến Thầy Giêsu!
Em gái của cha vẫn muốn cha là “anh Jorge” ngày nào dù bây giờ cha đã là người quyền lực nhất. Phần con khi còn là giáo lý viên, các em gọi con là “anh”, nhưng khi con lên làm thầy xứ rồi mà không chịu gọi con là “thầy” thì con khó chịu lắm. Rồi khi con may mắn được thụ phong linh mục rồi mà ai lỡ miệng gọi con là “thầy” thì con không muốn nhìn mặt nữa. Thậm chí những người ruột thịt trong gia đình cũng không dám gọi con như là một thành viên trong gia đình mà cũng phải gọi con là cha, là thầy, là sơ…
Con là thế mà cha thì không!
Có ai khi đã lên đến đỉnh cao danh vọng mà còn nhớ đến những người nghèo hèn, còn chủ động gọi điện cảm ơn người đã giao báo cho mình như cha không. Hôm 18-3, khoảng 1g30 chiều giờ địa phương, Daniel Del Regno là con trai của chủ sạp báo, đã nhận được một cú điện thoại với giọng quen thuộc “Chào Daniel, đây là Jorge Bergoglio. Cha gọi từ Rôma",
Del Regno kể với toà báo La Nacion của Argentina : "Tôi đã bị sốc. Tôi bỗng oà khóc và không biết phải nói gì. Ngài cảm ơn tôi đã giao báo từ bấy lâu nay và gửi lời chúc tốt đẹp nhất cho gia đình tôi. Trước khi ngưng cuộc điện đàm, Đức Giáo Hoàng xin tôi cầu nguyện cho ngài.”
Bố của Daniel, nổi da gà bất cứ khi nào ông nghĩ về sự đơn giản của cha. Ông kể : “Vào những ngày chủ nhật, Đức Hồng Y ghé qua sạp báo vào lúc 5:30 sáng và mua tờ nhật báo La Nacion. Ngài trò chuyện với chúng tôi trong chốc lát và sau đó đi xe buýt đến Lugano, nơi ngài sẽ phục vụ trà cho những người trẻ và người bị bệnh. Vào cuối tháng, Đức Hồng Y luôn mang những sợi giây thun mà ông buộc quanh các tờ báo để giữ cho chúng khỏi bị gió thổi bay khi giao báo. Ngài mang lại cho chúng tôi. Đủ cả 30 sợi! Tôi biết con người ngài như thế nào. Ngài là một con người có một không hai!”
Cha đã làm như thế. Con thì không.
Có được chức vị là con quên ngay quá khứ của mình, không muốn liên hệ với những người nghèo ngày xưa nữa sợ họ nhờ vả làm phiền. Con bắt đầu lưu số fone của những người “tai to mặt lớn”, quan hệ rộng rãi mật thiết với những thành phần “con ông cháu cha”, chịu khó qua lại với những người có máu mặt. Con quên phéng những người ngày xưa cùng nằm gai nếm mật với con, chẳng nhớ gì đến những người bạn cũ thuở hàn vi.
Con chẳng làm được gì, hoặc có làm cũng chẳng ra hồn, nhưng lại thích chức tước địa vị cho nó oai. Con thật là lố bịch phải không cha? Con chỉ là  “hữu danh vô thực”. Còn cha đúng là “hữu thực vô danh”.
Cha thì thế-Con thì không!
Khi có chức vị nào đó, người ta thay chức danh đó vào tên của mình, đồng thời cũng thay đổi cách sống, thay đổi y phục, nhà ở, xe cộ, phương tiện… Khi được lên chức, con sẽ ăn mặc cho sang trọng lịch lãm kẻo “người ta coi thường mình”. Con sẽ sắm xe hơi đời mới để đi lại với lý do là để “bảo vệ sức khoẻ”, “có sức khoẻ để phục vụ”. Con sẽ dọn vào ở trong những toà nhà nguy nga lộng lẫy, máy lạnh, kín cổng cao tường để “cho có bề thế, dễ dàng làm việc”. Con sẽ mua sắm những phương tiện văn minh hiện đại và tốn kém nhất để “theo kịp với thời đại”. Tất cả sự thay đổi “lên đời” ấy con đều có lý lẽ để biện minh, con đều lấy “mục đích biện minh cho phương tiện”, nhưng thực ra con đã “biến phương tiện thành mục đích”. Con thay đổi mẫu mã dáng vẻ bên ngoài, nhưng đời sống nội tâm, đời sống dấn thân phục vụ lại tỷ lệ nghịch với nấc thang danh vọng của con.
Con thì thế-Cha thì không !
Được biết ngay khi là Hồng Y Tổng Giám mục, cha đã nổi tiếng với sự khiêm tốn và khó nghèo, mạnh mẽ bảo vệ các học thuyết Giáo Hội và dấn thân cho công bằng xã hội. Cha sống trong một căn nhà nhỏ, chứ không phải tại nơi cư trú nguy nga của Toà Giám Mục. Dù là Hồng Y, cha thường sử dụng các phương tiện giao thông công cộng chứ không đi xe hơi riêng có tài xế lái, và tự nấu ăn cho mình chứ không có kẻ hầu người hạ.
Khi làm Giáo Hoàng, cha từ chối sử dụng xe hơi dành cho giáo hoàng mang bảng số CV1 (Cité du Vatican 1), mà di chuyển bằng xe buýt nhỏ (minibus) cùng các vị hồng y khác. Cuối thánh lễ sáng ngày 26-3 với các giám chức và linh mục, qua những lời rất đơn sơ, cha cho biết - ít là trong giai đoạn hiện nay - cha muốn tiếp tục ở lại với họ trong nhà trọ thánh Marta. Nhà trọ này có 131 căn hộ và phòng đơn dùng làm nơi cho các Hồng Y cử tri và những người phụ giúp. Ngoài thời gian đó, các phòng trong nhà trọ được dành cho các Giám Mục, Giám chức hoặc linh mục làm việc tại Tòa Thánh, hoặc cho các giáo sĩ vãng lai. Bây giờ cha đã chịu chuyển sang căn hộ số 201 trong nhà trọ thánh Marta. Đây là một nơi rộng rãi hơn, dành cho vị hồng y ngay sau khi đắc cử Giáo Hoàng hoặc cho các khách vị vọng. Trong thời gian qua, cha đã từ chối dọn vào đây. Nay cha đồng ý dọn vào để có thể tiếp nhiều người một cách dễ dàng hơn mà thôi. Hàng ngày cha vẫn ăn cơm với các Hồng Y và với các nhân viên đang trú ngụ tại nhà trọ Thánh Mattha. Cha vẫn dâng lễ mỗi sáng cho các nhân viên đang phục vụ cùng tham dự.
Thưa cha,
Khi Đức Hồng Y Louis Tauran đứng ở ban công để công bố “Habemus Papam”. Chúng con thấy cha xuất hiện trong bộ áo chùng trắng đơn giản, treân ngöïc vẫn đeo caây thaùnh giaù bằng bạc khi coøn laø Toång Giaùm Muïc Buenos Aires, không dây stola, không giầy đỏ. Với cử chỉ đơn giản, thái độ tự nhiên quay qua quay lại ngay trên bancông đầy nghi lễ của Vatican trước hàng nửa triệu tín hữu chào mừng phía dưới, cha giơ cao một tay như để ban phép lành. Ai cũng cúi xuống chuẩn bị lãnh phép lành, nhưng không phải thế, cha nói : “Ta muốn xin các con một ân huệ, trước khi cha ban phép lành, cha xin các con đọc kinh thay cho lời chúc lành của cộng đoàn dân Chúa cho vị tân giám mục Roma” rồi cha cúi đầu để nhận sự chúc lành của các tín hữu. Mọi người nhôn nhao cả lên. Một Giáo Hoàng khiêm tốn cúi đầu xin tín hữu cầu sự chúc lành cho mình trước khi chúc lành cho họ. Cha làm việc này một cách bình thường như cha vẫn xin những người trong khu ổ chuột ở Argentina cầu Chúa ban phép lành cho cha trước khi cha chúc lành cho họ. Ấy vậy lại là một điều chưa bao giờ xảy ra trong lịch sử Giáo Hội.
Trước khi tạm biệt đám đông, các chức sắc nghi lễ nhắc cha rời khỏi khán đài, nhưng cha quay sang xin người phụ tá mang micro tới để cha chúc mọi người ngủ ngon và hứa cầu nguyện cho họ vào ngày hôm sau. Con tâm đắc nhất là phần cầu nguyện của cha kéo dài hơn cả phần diễn văn. Thú thật với cha là chúng con rất sợ và rất ngán những bài diễn văn dài lê thê, những nghi lễ rườm rà. Dường như càng làm lớn người ta càng thích nói dài, uốn éo cung giọng cho trang trọng mất hết tự nhiên, cử chỉ cũng tỏ vẻ bệ vệ khác người. Họ quá chú trọng đến hình thức mà đánh mất hết nội dung.
Con thì thế-Cha thì không.
Lần xuất hiện đầu tiên của cha đã gây một ấn tượng rất mạnh. Cha đã loại bỏ nhiều điều rườm rà không cần thiết để đi vào trọng tâm sứ vụ của cha, đó là : “Bây giờ, giám mục và giáo dân, chúng ta bắt đầu cuộc hành trình huynh đệ, đầy yêu thương và tin cậy.” Vâng thưa cha, đó phải là hành trình huynh đệ đầy yêu thương và tin cậy. Cha là thế, chứ con mà có chức có quyền trong tay thì lại là cuộc độc diễn của quyền hành, có “quyền” trong tay thì tha hồ “hành” người thuộc quyền.
Với các hồng y, cha đối xử như những người anh em với nhau chứ không như “bề trên với bề dưới”. Cha đứng dậy để nhận sự “thần phục” của các hồng y anh em, chứ không ngồi chễm chệ trên ngai tại Nhà Nguyện Sistine cho các hồng y đến cúi mình hôn nhẫn. Cha như muốn ôm choàng lấy từng người anh em, không muốn họ hôn nhẫn của mình mà thậm chí cha còn cúi xuống hôn nhẫn của anh em hồng y nữa.
Không phải lên làm lớn rồi lúc nào mặt cũng phải lạnh như tiền hoặc mang bộ mặt hình sự nghiêm trang đạo mạo để người dưới phải khiếp sợ mà tránh xa. Cha có máu hài hước dí dỏm. Cha “bông đùa” trên bancông Vatican về việc các hồng y anh em “ñaõ ñi ñeán taän cuøng traùi ñaát ñeå choïn ngöôøi... vaø chuùng ta ñaõ coù ñöôïc ngöôøi aáy.” Chuyện còn vui hơn nữa là lúc trở lại nhà trọ Thánh Marta, cha đi bằng xe minibus quen dùng lúc dự cơ mật viện chứ không phải bằng xe đặc chủng “limousine” của giáo hoàng. Cha hài hước với các hồng y như anh em trong nhà : “Xin Chúa tha tội cho anh em vì đã dại dột chọn tôi làm giáo hoàng!” Cha thật là dễ thương, gần gũi.
Năm 20 tuổi, cha phải giải phẫu vì bị nhiễm trùng đường hô hấp. Từ đó cha chỉ còn một lá phổi. Mặc dù vậy, cha có thói quen dậy lúc 4 giờ 30 sáng, suốt ngày cặm cụi làm việc. 9 giờ 50 sáng ngày 14/03/2013 lần đầu tiên rời Vatican trong tư cách giáo hoàng, cha vẫn không dùng xe “limousine” dành riêng cho giáo hoàng, mà dùng một trong các xe của cảnh sát Vatican để kính viếng Đền Thờ Đức Bà Cả. Thầy Giuseppe, một trong 15 chủng sinh, tu sĩ và giám chức tháp tùng cho biết cha vẫn mặc áo trắng, đi giầy đen (thay vì giầy đỏ giáo hoàng), đeo nhẫn hồng y và đeo thánh giá bằng bạc, không kèn không trống, không hàng rào danh dự. Khi đến nơi, cửa chính chưa mở, cha đi vào cửa phòng áo, rất thoải mái, không bực mình khó chịu vì người ta chưa kịp mở cửa chào đón. Tự tay cha cầm một bó hoa hết sức tầm thường, tới đặt trước tượng Đức Mẹ, bằng một nhịp bước không cần chờ ai. Trước khi ra về, cha bắt tay từng người và luôn xin mỗi người cầu nguyện cho cha.
Trên đường trở về, cha dừng lại Domus Internationalis Paulus VI, gần Piazza Navona, nơi cha cư ngụ trước khi tham dự cơ mật viện, để lấy hành lý còn gửi tại đó và nhất là trả tiền trọ! Cha bắt tay hỏi thăm và cảm ơn những người đang làm việc ở đây.
Cha thì thế- con thì không.
Cha hay thật đấy. Tại sao cha lại phải vất vả như thế? Nếu con ở chức vụ cao như thế, đi đến đâu cũng phải có người đưa kẻ đón, phải có hàng rào danh dự, có cờ quạt trống phách tưng bừng chào đón con. Cửa nhà thờ phải mở sẵn, chuông nhà thờ phải giật inh ỏi lên, phải có người xách cặp, có kẻ hộ tống, có bó hoa rõ to rõ đẹp cung kính dâng lên con. Nếu con đến mà cửa chưa mở, không có người tiếp đón thì con giận bỏ về ngay. Có đâu  nhân vật quan trọng số một mà phải đi cửa sau, tự tay cầm bó hoa quèn và một mình đi đến đài Đức Mẹ. Hơn nữa việc lấy đồ và trả tiền khách sạn hay những chuyện lặt vặt khác có khi nào một người quyền cao chức trọng như con phải đụng ngón tay vào. Tất cả đã có người “cơm bưng nước rót” làm hết cho con rồi. Con chỉ việc đứng “chỉ tay năm ngón” thôi!
Cha thích đi bộ những khoảng cách ngắn trong Thành phố Vatican và chỉ thích phương tiện đi lại bình thường đến nơi muốn đến. Cha không thích dùng xe riêng nhưng di chuyển cùng với đoàn tuỳ tùng bằng xe chung, vẫn tấm áo dài trắng nhưng ngồi chung với anh em, không có sự cách biệt. Nếu đi xe giáo hoàng mui trần, cha không ngần ngại dừng xe giữa chừng để bước ra ngoài, hôn và ban phép lành cho một người bại liệt giữa đám đông. Giám Đốc Tin Tức của EWTN cho biết cha muốn đi đâu, đi thế nào thì đi. Cha là người của chính cha, không lệ thuộc vào nghi lễ quan cách, cũng chẳng sợ an ninh cho bản thân. Thấy điều đúng và cần làm thì cha làm vì “chính tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi.”
 Cha đến thăm và cử hành Thánh lễ chiều thứ Năm Tuần Thánh tại nhà tù dành cho các trẻ em vị thành niên ở Roma. Con rất xúc động khi thấy cha chẳng ngại ngùng cúi xuống rửa và hôn chân mười hai phạm nhân, trong đó có hai phạm nhân nữ người Hồi Giáo. Cha dám vượt qua hàng rào của những tục lệ, những truyền thống lâu đời để có những sáng tạo, những thay đổi đầy ý nghĩa trong các nghi lễ. Có mấy nhà thờ ngày Thứ Năm Tuần Thánh mà linh mục chủ sự dám rửa chân rồi hôn chân các tù nhân, nữ giới và nhất là người không cùng tôn giáo ?
Cha thì thế-con thì không.
Bài Huấn Từ đầu tiên của cha trong thánh lễ với các Hồng Y tại Nguyện Đường Sistine ngày thứ năm 14-03-2013 càng làm cho con thấy rõ con đường cha đã chọn : “Khi chúng ta đi mà không có Thánh Giá, khi chúng ta xây dựng mà không có Thánh Giá, và khi chúng ta tuyên xưng Đức Kitô mà không có Thánh Giá, chúng ta không phải là môn đệ của Chúa, chúng ta thuộc về thế gian. Chúng ta là Giám Mục, Linh Mục, Hồng Y, Giáo Hoàng, nhưng không phải là môn đệ của Chúa.”
Trong bài giảng ngày lễ kính thánh Giuse 19-03-2013 cha nhắc con nhớ quyền bính đích thực là để phục vụ chứ không phải bắt người khác phục vụ : “Hôm nay, cùng với lễ Thánh Giuse, chúng ta cử hành khởi đầu sứ vụ của tân Giám Mục Roma, người kế vị Thánh Phêrô, cũng bao gồm một quyền bính… Chúng ta không bao giờ được quên rằng quyền bính đích thực là phục vụ… Giáo Hoàng phải nhìn đến sự phục vụ khiêm tốn, cụ thể, đầy đức tin của thánh Giuse, và như thánh nhân, giáo hoàng cũng phải mở rộng vòng tay để giữ gìn toàn thể Dân Chúa và yêu thương, dịu dàng, đón nhận toàn thể nhân loại, nhất là những người nghèo nhất, yếu đuối nhất, những người nhỏ bé nhất…”
Trong cuộc gặp gỡ giới báo chí ngày 16-03-2013 tại hội trường Phaolô VI, cha đã muốn đi xa hơn, quyết liệt hơn, sát với Tin Mừng hơn, khi bày tỏ : “Tôi mong muốn biết bao một Giáo Hội nghèo…” Giáo hội không chỉ là giáo hội của người nghèo mà người nghèo chính là giáo hội. Ôi! Cha làm con sợ quá! Như vậy là con phải sống nghèo. Con phải là người nghèo, chứ không phải chỉ là người đi phục vụ người nghèo, trong khi con vẫn có thể…giầu!
Thưa cha,
Thư của con cũng khá dài rồi. Tuy nhiên còn một điểm đặc biệt nữa nơi cha mà con không thể bỏ qua vì đó là điều con đã, đang và sẽ đeo đuổi suốt đời dù gặp rất nhiều khó khăn trở ngại. Đó là lòng thương xót của Chúa. Lòng Thương Xót là chủ đề đặc biệt của cha trong những bài giảng và suy niệm.
Trong giờ kinh Truyền Tin ngày Chúa Nhật 17-03-2013, khi nói về lòng thương xót, cha nhắc nhở đám đông rằng:
"Gương mặt của Thiên Chúa là gương mặt của người cha đầy lòng thương xót, Ngài luôn kiên nhẫn với chúng ta… đây chính là lòng thương xót của Thiên Chúa. Ngài luôn kiên nhẫn để hiểu, chờ đợi và không mệt mỏi tha thứ cho chúng ta nếu chúng ta biết quay lại với Ngài với tất cả con tim. Như lời Thánh vịnh có chép rằng: ‘Lòng thương xót của Thiên Chúa vĩ đại dường bao!’.
“Lòng thương xót có thể làm cho thế giới trở nên ấm áp hơn và công bằng hơn. Do đó, chúng ta cần hiểu lòng thương xót của Thiên Chúa. Ngài là một người cha đầy lòng thương xót đối với mỗi người chúng ta. Hãy nhớ lại lời của ngôn sứ Isaia: “Tội các ngươi dầu có đỏ như son cũng ra trắng như tuyết, có thắm tựa vải điều, cũng hóa trắng như bông” (Is 1,18). Lòng thương xót đẹp biết bao!...Thiên Chúa là người cha yêu thương luôn tha thứ. Ngài có một trái tim đầy lòng thương xót dành cho tất cả chúng ta. Và chúng ta cũng cần học và thương xót người khác.”
“Hãy luôn luôn tín thác nơi lòng thương xót của Chúa và đừng sợ hãi là Kitô hữu và sống như Kitô hữu” Cha đã nói như trên với hơn 100.000 tín hữu và du khách hành hương tụ tập tại quảng trường thánh Phêrô để đọc Kinh Nữ Vương Thiên Đàng với cha vào trưa Chúa Nhật lòng Thương Xót Chúa 7-4-2013. Mọi người đã vỗ tay thật to khi cha nhắc tới ngày lễ Lòng Thương Xót Chúa do Đức Chân Phước Gioan Phaolô II thiết lập, và người đã nhắm mắt lìa trần cách đây 8 năm vào chiều hôm trước ngày lễ. Cha nhấn mạnh :
“Cả chúng ta nữa cũng hãy can đảm hơn để làm chứng cho đức tin nơi Chúa Kitô Phục Sinh! Chúng ta không được sợ hãi là tín hữu Kitô và sống như Kitô hữu! Chúng ta phải có lòng can đảm ra đi loan báo Chúa Kitô Phục Sinh, bởi vì Ngài là sự bình an của chúng ta. Ngài đã trao ban cho chúng ta sự bình an với tình yêu thương cùng với sự tha thứ của Ngài, với máu và với lòng thương xót của Ngài.”
“Chúng ta hãy cùng cầu xin Đức Trinh Nữ Maria, để Mẹ giúp chúng ta, Giám Mục và Dân Chúa, tiến bước trong đức tin và trong tình mến, luôn luôn tin tưởng nơi lòng thương xót của Chúa, là Đấng luôn chờ đợi chúng ta, yêu thương chúng ta, tha thứ cho chúng ta với máu của Ngài và tha thứ cho chúng ta mỗi khi chúng ta đến gặp gỡ Ngài và xin ơn tha thứ. Chúng ta hãy tin tưởng nơi Lòng Thương Xót của Ngài.”
Trong bài giảng thánh lễ nhận nhà thờ chính tòa, cha đã kêu gọi chúng con đừng bao giờ đánh mất đi sự tin tưởng nơi lòng thương xót nhẫn nại của Thiên Chúa, là Đấng luôn luôn yêu thương, dịu hiền, chờ đợi và tha thứ cho chúng con. Cha nhắc nhở chúng con hãy để cho mình đươc bao bọc bởi lòng thương xót của Thiên Chúa, hãy để cho Chúa yêu thương và gặp gỡ Chúa trong các Bí Tích để cảm nhận được sự dịu hiền và vòng tay yêu thương của Chúa hầu chúng con có thể xót thương, kiên nhẫn, tha thứ và yêu thương như Ngài.
Cha kính mến,
Chỉ mới đúng một tháng cha nhận lãnh nhiệm vụ chăm sóc đoàn chiên Chúa mà cha đã cho chúng con thấy cha quả là “mục tử như lòng Chúa mong ước” và “như lòng dân mong đợi” qua những gì cha đã làm, đã sống, đã giảng dạy. Soi chiếu vào cuộc sống khó nghèo, hồn nhiên, đơn sơ, khiêm tốn của cha càng làm con thấy hổ thẹn so với cuộc sống trưởng giả, quan liêu, quyền hành, cao ngạo của con. Đúng là cha thì thế-con thì không!
Xin cha thương cầu nguyện cho đứa con khốn khổ đang cần được xót thương này để con cảm nghiệm được lòng thương xót của Chúa qua tấm lòng xót thương của cha, của những người có chức có quyền trên những con người hèn kém thấp cổ bé miệng.
Con sẽ luôn ghi nhớ lời cha dạy là “Hãy luôn luôn tín thác nơi lòng thương xót của Chúa và đừng sợ hãi là Kitô hữu và sống như Kitô hữu”. Con mà làm được như thế thì chắc cha sẽ vui lắm, vì đúng là “cha nào-con nấy”!
Người con đang cần được xót thương
Lm. Giuse Trần Đình Long
Dòng Thánh Thể

Chủ Nhật, 21 tháng 4, 2013

NHÀ MẸ


Trong tâm khảm bất kỳ một đứa con nào, hình ảnh đẹp nhất vẫn là cảnh nhà mẹ chúng. Những gì đẹp nhất vẫn là những gì xảy ra trong Nhà Mẹ. Cái nhà, dĩ nhiên "là nhà của ta", sân hẹp mấy vẫn yêu, hàng rào xấu mấy vẫn bằng lòng, nhà chật mấy vẫn chịu được, bếp nghèo mấy vẫn nhớ, càng nhớ.
Nhà là nơi khi con đi học thì mẹ  ở nhà làm các việc cho đến khi con về có mâm cơm đặt sẵn trên bàn, nhà cửa gọn gàng đâu vào đấy, có khi còn bị con cằn nhằn cái tờ giấy trên bàn học mẹ  có để đâu  của con không, quyển truyện tranh của con đâu rồi mẹ. Nhà là nơi con thay quần áo buông tuồng rồi quăng lăn lóc. Nhà là nơi con bị đòn mà không xấu hổ. Nhà là nơi con tự do đi lên đi xuống thoải mái.
Nhà là nơi con trông về nhất mỗi khi đến bữa bụng bắt đầu thấy đói,là nơi con nhớ nhất mỗi khi bóng chiều ngả về Tây.Bạn bè rủ mình đi du lịch, mình vừa nghe đã thấy len lén một nỗi nhớ nhà. Con gái mít ướt đã đành, mình cam đoan, con trai cũng không thoát khỏi tâm trạng này khi xa nhà, xa mẹ.
Mình biết, có những người đàn ông, cứ lên xe là phải mở CD nghe những bài hát về cha mẹ. Có những ông người cứng như cái cây, hoặc to như Hộ Pháp cũng vẫn nhớ nhà, nhớ mẹ. Tác giả bài Bếp hồng chả viết bài ...Bếp hồng là gì !
Mình đồ rằng ông nào cũng nhớ cái ...bếp.
Tại đi đâu về trước tiên là con trai hay mò vô bếp, lật lồng bàn lên....
Tại vô bếp, ông luôn gặp mẹ đang làm món gì đó cho ông...
Tại nơi bếp, ông có thể nhõng nhẽo,đòi ăn hơn bất cứ nơi nào...
Cho nên, mình cũng đồ rằng, khi mẹ mất, con trai đau hơn nhiều.Con trai nhớ mẹ không khóc tu tu nhưng sẽ khóc trên giấy bút, nhiều hơn con gái, Bếp hồng đấy.Tình cảm tự nhiên thôi.
Đọc Bếp hồng xong, mình chợt nhận ra mình hạnh phúc quá, vì mình đang ...Ở với mẹ.
Mình vốn không thích đọc những bài có nhiều mở ngoặc đóng ngoặc trích các câu Kinh Thánh, sách nọ sách kia, đoạn mấy câu bao nhiêu. Mình chỉ thích những đoản văn ngăn ngắn nhưng chứa đựng tình cảm dạt dào, thật, như bài Bếp hồng chẳng hạn.
Lạ là có những bài viết, khi gửi gắm lời tâm sự nào đó, chưa chắc tác giả khi viết lại cảm động bằng mình lúc đọc đâu nhé, ấy là khi người viết đụng chạm đến niềm yêu ...nhà của mình. Quả thật là mình đang ở nhà mình, mình đang ở với mẹ mình, mà sao mình cảm thấy không chịu nổi khi mà chỉ cần nghĩ rằng ngày mai tôi phải đi  nơi này nơi kia thì mình đã nhớ nhà. Vì thế, bạn đừng khó chịu khi mình kể linh tinh mấy chuyện về mẹ mình lên blóc. Gõ xong bài này là mình đi bóp chân cho mẹ đấy.
Mình yêu nhà mình, bảo sao Chúa Giêsu và các môn đệ đã ở cùng nhau ba năm trời, ai dám bảo họ không được thường xuyên vào bếp nhà Đức Mẹ, nay luyến lưu nhau như thế. Chúa yêu, Chúa nhớ, Chúa thương và Chúa ra sức bảo vệ mấy ổng dữ lắm. Chúa lúc nào cũng như mẹ hiền coi sóc con thơ, con già đời mà lúc nào cũng quyến luyến mẹ. Con râu ria xồm xoàm mà nghe bảo "Chúa đó" là nhớ ...mẹ, quăng mình xuống biển. Chúa không thương cũng uổng. Chúa phải canh chừng họ từng li từng tí như cô nuôi trẻ, hơn thế, như chiên mẹ theo sát chiên con.Vậy thưa các linh mục, Chúa ở cùng các cha, các cha cũng  ở cùng chúng con như vậy nhé.
HT

BẾP HỒNG


 Bếp hồng: hình ảnh gợi nhớ về một khung trời thương yêu đầm ấm, nơi đó có những con người gắn bó cuộc đời với nhau, gắn bó sự sống với nhau, vì nhau và cho nhau. 
Tôi nhớ bếp hồng ngày xưa khi tôi còn thơ bé, những ngày mưa dầm lạnh lẽo, ngồi bên bếp hồng chờ mẹ làm cho một món gì đó một cách thèm thuồng, mảnh cháy cơm vàng lụi có chút mỡ hành, có chút mằm mặn của thìa nước mắm mẹ rưới vào. Một vài quả bắp (ngô) hay vài củ khoai lang vùi nướng chờ chín đủ. Ấm áp làm sao đống than hồng mẹ hạ lửa bên dưới rồi đặt trên nắp vung nồi cơm sau khi cơm đã sôi, bát nước cơm mẹ chắt ra bên cạnh chờ nguội, mấy anh em tranh nhau chờ mẹ chia phần. … 
Tôi nhớ bếp hồng và ánh lửa trên gương mặt của mẹ, những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán, tiếng cáu gắt “đừng hỏi nhiều để mẹ lo cơm cho kịp bố về ăn !”. Tiếng vỗ gạo vào nồi nước, tiếng sôi sùng sục của nồi canh, tiếng quát của mẹ “tránh ra kẻo nước sôi này, cứ quẩn chân mẹ !”. Nhớ gương mặt mẹ thẫn thờ bên ánh lửa khi mẹ đăm chiêu suy nghĩ về một điều gì đó mà tuổi thơ không hiểu, không biết. Bỗng dưng hôm nay nhớ bếp hồng, nhớ không gian ấm êm tuổi thơ, nhớ mối dây thiêng liêng nối kết gia đình và … nhớ mẹ. Nhớ mẹ trào nước mắt. 
Sáng nay tôi đi thăm một gia đình vừa mất mẹ, bà qua đời như bao nhiêu người khác đã hoặc sẽ qua đời, những đứa con đã khôn lớn, đã dựng nghiệp, đã có con, có cháu bay xa, nhưng bên họ tại phòng tang lễ, tôi thấy họ tội nghiệp, nhỏ bé và u buồn, mong manh và yếu đuối, ai mất mẹ mà không tội nghiệp, nhó bé, u buồn, mong manh và yếu đuối. Trước khi đi viếng đám tang, tôi nhận được tin một bà mẹ nữa vừa qua đời, bà là mẹ của hai anh em linh mục trong dòng tôi, cả hai không có nhà trong giờ bà ra đi, bà đi lặng lẽ âm thầm như ngọn đèn đã hết dầu, 96 tuổi, bà cứ ngồi nhìn mọi sự đi qua mắt bà cho đến khi Chúa gọi, kết thúc những ngày tháng tảo tần chăm lo chồng con, kết thúc những ngày tháng ngược xuôi. 
Mẹ mất, ánh lửa bếp hồng không còn nữa, nỗi lạnh giá len lỏi vào lòng, cô đơn và mệt mỏi. Cảm giác ấy cũng là cảm giác của các môn đệ sau cả một đêm không đánh bắt được một con cá nào, một đêm thất bại, môt đêm lạnh và mệt mỏi. Bờ biển sáng hôm ấy có một bếp hồng, không chỉ bếp nhưng còn có cá và bánh nóng nữa (Ga 21, 1 – 19), còn gì thú vị hơn ánh lửa giữa bờ biển hoang lạnh buổi sáng, còn gì hấp dẫn bằng những con cá nướng vàng ngậy và những tấm bánh nồng ấm. Có thể so sánh được không miếng cơm cháy nóng rưới mỡ và nước mắm trong chiều mưa với tấm bánh bên bờ biển ? Có thể so sánh được không củ khoai nướng lùi trong bếp với những con cá vàng tươm trên bếp hồng ? Chúa đứng đó nụ cười tươi nồng mời anh em như mâm cơm vừa sẵn sàng cho đàn con ùa vào tận hưởng. Bếp hồng bờ biển hôm ấy làm sống lại không gian yêu thương mặn nồng, sống lại mối lương duyên đằm thắm tưởng như mất rồi sau ngày Chúa ra đi. 
Tôi được nghe kể lại về một người linh mục trong dòng, ngài đã qua đời lâu rồi. Truyện kể ngài là một vị giáo sư tài ba uyên bác, nhưng ngài cũng là một người tinh tế với anh em khác, có lần anh em đi lao động về, ngài lặng lẽ pha ly nước chanh cho anh em mình thưởng thức sau những giờ mệt mỏi. Một hành động yêu thương, một cử chỉ tế nhị, một tình cảm gương mẫu.  
Ước gì mỗi người trong chúng ta biết sống với nhau một cách tinh tế, yêu thương, hiền hòa nhân hậu. Mình theo Chúa mà chẳng lẽ minh không nên giống Chúa sao ?

Lm. Vĩnh Sang, dcct.

Thứ Bảy, 20 tháng 4, 2013

NHỮNG"NICK VUJICIC" VIỆT NAM


Posted on Tháng Tư 18, 2013 by Đọt Chuối Non
Ngày chăm sóc và bảo vệ người khuyết tật Việt Nam 18/4:

(Dân trí) – Thời gian gần đây truyền thông Việt Nam sôi động với những thông tin về chàng trai Nick Vujicic sắp đến nước ta. Ai cũng khâm phục hành trình vượt qua số phận của chàng thanh niên không tay, không chân ấy. Ở Việt Nam cũng có những “Nick Vujicic”…
Thư viện mini của cô Ba Thảo không đôi chân
1
Thảo bên giang sơn của mình
Nếu nói về ngoại hình, Huỳnh Thanh Thảo (huyện Củ Chi, TPHCM) hạnh phúc hơn Nick Vujicic vì có đôi tay, tuy rằng đôi tay này rất yếu ớt, lèo khèo. Không có chân, Thảo chỉ có thể lăn qua lăn lại trên chiếc giường của mình, hàng xóm hay gọi em là Sọ Dừa.
Căn bệnh xương thủy tinh quái ác làm Thảo gãy xương không biết bao nhiêu lần, gãy nhiều đến nỗi gia đình cũng không dám cho Thảo đến trường vì sợ xảy ra tai nạn. Ở nhà Thảo nhìn chúng bạn tung tăng đến trường mà chỉ dám tựa cửa ước ao…
Thương con tật nguyền, tranh thủ những lúc rảnh rỗi công chuyện đồng áng, cô Nguyễn Thị Xuân, mẹ Thảo mua sách về dạy con tập đọc, tập viết. Thảo học rất nhanh. Học xong lớp 1 thì mẹ cũng không còn nhiều chữ để dạy cho Thảo. Vậy là em chuyển sang học chị hai. Khi có khả năng đọc hiểu những điều trong sách, Thảo bắt đầu tự học những điều mình thích.
“Nó bé có một mẩu, biết sau này làm được gì không!”, gặp ai mẹ Thảo cũng than thở. Thế mà cách đây hơn 10 năm, con bé “một mẩu” ấy đột nhiên mở lớp dạy kèm cho mấy đứa trẻ tiểu học trong xóm khiến ai cũng bất ngờ: “Chả đến trường ngày nào mà mở lớp dạy học!”.
Khi ấy Thảo đã được chừng 15 tuổi, đã học đến sách giáo khoa cấp 2 rồi. Thấy Thảo nằm nhà cả ngày, có chị công nhân nhờ Thảo trông giúp đứa con học lớp 2 để bé khỏi đi chơi lung tung lại lạc. Rảnh rỗi, hai chị em chơi trò dạy học, rồi Thảo dạy học cho bé thực khi bé hỏi những điều mà cô giáo trên trường dạy em không hiểu. Cuối năm ấy, cô bé được Thảo dạy kèm đạt danh hiệu học sinh giỏi.
Từ cái dịp vô tình ấy, Thảo lên kế hoạch mở lớp dạy kèm tại nhà cho các bé trong xóm ấp. Đến giờ học, học trò lấy ghế sắp xung quanh giường của Thảo, kê vở lên mặt giường để học. Còn “cô giáo” thì lăn qua, lăn lại để di chuyển từ vị trí này sang vị trí khác chỉ bài từng em… Thảo còn viết thư khắp nơi để xin sách vở về cho các em, tạo thành 1 thư viện nhỏ cho trẻ em trong ấp. Đến nay, cái thư viện ấy cũng đã được 10 năm tuổi.
2
Thư viện mini Cô Ba ngày khai trương
 Câu chuyện lan dần và rồi ai cũng biết ở cái ấp Ràng xa xôi của xã Trung Lập Thượng, huyện Củ Chi có thư viện mini lạ kỳ mang tên Cô Ba, có cô Ba Thảo nhỏ như cái kẹo mà nổi tiếng, tật nguyền mà lúc nào miệng cũng cười toe toét …
Con chim yến của cộng đồng người khuyết tật
Sinh ra và lớn lên ở một huyện vùng sâu nghèo khó của tỉnh Đồng Nai, chị Võ Thị Hoàng Yến cũng giống Nick Vujicic vì có tuổi thơ bị bạn bè chọc ghẹo, xa lánh. Sau cơn sốt bại liệt năm ba tuổi, một chân của chị mất khả năng vận động, chân còn lại rất yếu. Dù đã tập luyện rất nhiều, chị chỉ có thể di chuyển bằng nạng trong một quãng đường ngắn.
Nhưng không cam chịu số phận lặng lẽ sống trong nhà cho qua cuộc đời như bao người khuyết tật (NKT) khác trong thời điểm ấy, Hoàng Yến xông ra xã hội, quyết tâm đi học. Ai chế nhạo chị, chị bảo: “Hãy học giỏi hơn tôi rồi hãy cười tôi!”. Và rồi cũng chẳng mấy người học giỏi bằng chị nên cũng ít ai dám cười chị.
“Anh có thể chạy nhanh hơn tôi vì chân anh khỏe mạnh nhưng anh chưa chắc học giỏi hơn tôi, nghĩ được như tôi và làm nhiều việc như tôi”. Với suy nghĩ đó, Hoàng Yến phấn đấu hết sức trên con đường học tập, chị dồn hết tâm huyết của mình để học, từ trong nước ra đến nước ngoài.
3
Theo chị Yến, NKT có thê làm tất cả những điều mà họ muốn
 Đến năm hơn 30, chị có trong tay 2 tấm bằng Đại học trong nước (Kinh tế và Ngoại ngữ) và tấm bằng thạc sĩ ngành Khoa học hành vi tại ĐH Kansas, Hoa Kỳ với khóa luận xuất sắc. Sau khi nhận tấm bằng thạc sĩ, chị về nước dù nhiều tổ chức phi chính phủ ở Hoa Kỳ mời chị làm việc. Chị về vì muốn “giúp cộng đồng NKT yếu thế của mình làm một điều gì đó”.
“Điều gì đó” mà chị tâm niệm là thay đổi nhận thức thương hại của cộng đồng đối với NKT cũng như thay đổi nhận thức yếm thế của chính NKT. Theo chị, NKT có giá trị của mình, họ có thể làm được nhiều việc nếu tạo cho họ điều kiện phù hợp. Do đó, NKT phải biết tự nhìn nhận giá trị bản thẩn của mình để vươn lên. Còn cộng đồng người không khuyết tật không nên nhìn NKT với ánh mắt thương hại mà nên hỗ trợ họ phát triển trí lực, kỹ năng và tạo điều kiện để họ có thể làm việc nuôi sống bản thân mình.
Để thực hiện lý tưởng đó, hơn 10 năm qua, thạc sĩ Võ Thị Hoàng Yến đã sáng lập nên Chương trình Khuyết tật & Phát triển, rồi phát triển thành Trung tâm Khuyết tật & Phát triển (DRD) với hàng chục nhân viên và hàng trăm cộng tác viên. Chị đi khắp thế giới để tìm về những đồng tiền ít ỏi tài trợ cho những công trình nghiên cứu, tư vấn, hỗ trợ NKT thay đổi nhận thức, nâng cao kỹ năng, tìm kiếm việc làm, xây dựng khả năng tự lực…
4
DRD hiện là địa chỉ học tập, sinh hoạt của hàng ngàn NKT và là nơi mà các tổ chức nghiên cứu, hỗ trợ NKT từ khắp thế giới đến tham quan.
Đến nay, hàng chục đội nhóm, câu lạc bộ, hội NKT… tại TPHCM cũng như các tỉnh miền Nam được thành lập và xây dựng đội ngũ dưới sự hỗ trợ của DRD. Hiện công việc mà chị cùng các cộng sự ở DRD đang làm là xúc tiến xây dựng hệ thống đào tạo và tuyển dụng NKT để tạo cơ hội việc làm cho họ, giúp họ tự lực cánh sinh. Chị nói: “Việc gì chúng ta làm cũng có thể thành công hoặc thất bại. Nhưng nếu không làm thì chắc chắn sẽ không bao giờ thành công!”.
Ai cũng bảo chị là con chim yến của cộng đồng NKT. Nhưng chị than: “Một cánh yến không thể làm nên mùa xuân! Còn cần nhiều hơn những cánh yến…”.
Tùng Nguyên

MỤC TỬ NHÂN LÀNH



Khoảng giữa thế kỷ 19, Thánh Gioan Bosco bắt đầu hoạt động phục vụ những người trẻ nghèo nàn ở thành phố Turinô nước Ý. Họ đã sớm nhận ra ngài thực sự là một người bạn của họ. Họ yêu quý ngài đến nỗi khi ngài lâm trọng bệnh thì họ tha thiết cầu nguyện tưởng như muốn xé rách bầu trời, có người còn xin Chúa cho mình chết thay ngài. Nhờ những lời cầu nguyện ấy, Thánh Gioan Boscô đã khoẻ lại. Tình cảm trìu mến ấy không thể có được nếu Gioan Bosco và đám trẻ ấy đã không gần gũi nhau, biết nhau và yêu thương nhau.
Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nói "Ta biết chiên của Ta". Ngài biết chiên Ngài bởi vì Ngài là mục tử tốt lành. Có nhiều mức độ biết: có khi chỉ là biết mặt, biết tên; có khi biết như một người quen; có khi biết như một người bạn thân thiết.
Không biết người ta là một điều rất buồn thảm. Nhà văn Do Thái Elia Wiesel rất thương cha mình, nhưng người cha ấy đã chết trong trại tù Auschwitz năm 1944. Trong quyển tự thuật, nhà văn ấy tâm sự: "Tôi chưa bao giờ thực sự biết cha tôi. Thực đau lòng mà phải thú nhận như vậy. Tôi đã biết quá ít về người mà tôi yêu quý nhất đời ấy, người mà chỉ cần nhìn tôi một cái cũng đủ làm cho lòng tôi xao xuyến. Không hiểu những người con khác có gặp phải vấn đề như tôi không. Họ có biết cha họ không phải chỉ là một con người có nét mặt uy quyền, buổi sáng đi làm và buổi chiều trở về mang bánh đặt lên bàn ăn không?"
E rằng những lời buồn thảm trên đây cũng là tiếng than của rất nhiều đứa con khác. Ngày nay con cái không biết cha mẹ và cha mẹ không biết con cái. Muốn biết thì phải mất nhiều thời giờ và nhiều cố gắng, nhưng nó sẽ mang lại nhiều hoa trái. Còn nếu không biết thì sẽ phải gánh chịu nhiều mất mát. Đời sống trôi qua rất nhanh khiến chúng ta ít biết nhau. Mà không biết nhau thì không thể yêu thương nhau được.
"Biết" là điều rất quan trọng đối với những người-chăm-sóc (carers). Những người-chăm-sóc cần biết kẻ mà mình chăm sóc. Bước đầu là biết tên. Nhưng muốn biết thật thì phải biết cả lịch sử cuộc đời họ. Nếu không biết họ đến với ta từ một thế giới như thế nào và sẽ trở về một thế giới như thế nào thì ta chỉ coi họ như một chiếc bóng mà thôi.
Nhưng cái "biết" phải có hai chiều. Chúa Giêsu biết chiên của Ngài và chiên của Ngài cũng biết Ngài. Chúa Giêsu không sợ để cho người ta biết mình. Còn chúng ta đôi khi lại sợ. Chúng ta không muốn người khác đi vào cuộc sống chúng ta, biết chúng ta nghĩ gì, cần gì, đang lo buồn về chuyện gì và đang hy vọng những gì. Có lẽ vì chúng ta sợ người ta biết mình rõ quá rồi sẽ từ chối mình. Từ đó chúng ta chỉ muốn người ta biết chúng ta qua cái vẻ bề ngoài mà chúng ta cố tỏ ra. Thế nhưng làm sao chúng ta có thể tạo được một tình cảm trìu mến với người khác nếu chúng ta cứ giữ một khoảng cách với họ và không cho họ biết rõ chúng ta?
Đối với Chúa cũng vậy. Ngài là mục tử tốt lành. Ngài muốn ban cho chúng ta sự sống đời này và cả đời sau nữa. Nhưng phải có tương quan hai chiều. Chúng ta phải đáp lại tình thương của Ngài bằng cách lắng nghe tiếng Ngài và đi theo Ngài. (FM)
Chuyện minh họa :
Trong một cuộc họp, có hai người được mời đọc Thánh Vịnh 22 "Chúa là mục tử của tôi". Người thứ nhất là một diễn viên nhà nghề nhưng không có đức tin. Anh phát âm rất chuẩn, giọng rõ ràng, ngắt câu hợp ý. Nghe anh đọc xong ai cũng vỗ tay.Người thứ hai là một tín hữu xác tín về đức tin. Anh phát âm không chuẩn lắm, anh còn đọc hơi nhanh nữa. Nhưng giọng anh rất tình cảm. Ai nghe anh đọc cũng đều xúc động.Khi hai người đọc xong, người diễn viên đến bắt tay người tín hữu và khen: "Xin chúc mừng. Anh đã đọc rất hay". Người tín hữu đáp: "Không, anh mới là người đọc hay, còn tôi thì tệ quá."Người diễn viên phân tích: "Chắc chắn là anh đọc hay hơn tôi mà. Một điều rất hiển nhiên là: Tôi thì biết Thánh Vịnh 22, còn anh thì biết Người Mục Tử."Chúng ta hãy để ý: Tác giả Thánh vịnh 22 không nói "Chúa là một mục tử", cũng không nói "Chúa là vị Mục tử", nhưng nói "Chúa là Mục Tử của tôi". Người tín hữu kia đã đọc Thánh vịnh 22 bằng cảm nghiệm sống của mình, cho nên anh đã làm cho người khác xúc động.
(trích bài giảng lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)



Ở VỚI MẸ -04-

20.4
Mẹ mình không bao giờ chịu ngồi không.
Lúc nào bên cạnh Cụ cũng có một túi đựng mấy cuộn len, đôi kim đan, tờ nhật trình trong ngày. Không đọc báo thì đan len. Không lao động thì đánh mắt, bắt chước các Sơ Dòng ...Đánh Mắt tự làm, thao tác như thật. Các con thấy Cụ đánh mắt hãi lắm, không cho, nhưng Cụ bảo đánh nó sáng ra. Đánh mắt thường là vào buổi sáng, để còn điểm báo. Còn đan len thì bất kỳ, hễ rảnh là liến thoắng.Vừa đan vừa xem ti vi.
Hôm nào yếu mình thì chỉ ...khẩy. Cầm lên khẩy vài hàng xong lại bỏ xuống, có khi chỉ mấy mũi .
Vừa đan vừa xem tivi
Đặc biệt là giọng nói Cụ luôn sang sảng dù khi đau ốm dù khi mạnh khỏe. Bạn tới thăm khen mẹ chị đep hơn chị. Thì dĩ nhiên, Cụ con gái Hà Nội ngày xưa mà lại. Mình Bắc Kỳ nho nhỏ Năm Tư, vừa gầy vừa đen, từ ngày còn bé đã được mẹ đặt cho chết tên với câu hát ru :
"Yến béo kéo xe bò đen 
Yến gầy đẩy xe bò đen ".
Sáng hỏi mẹ có nhớ mỗi ngày ta uống một viên Aspirine là để cho máu đông hay làm cho máu loãng không ạ ? Cụ bảo không nhớ, chỉ nhớ mỗi tối uống một viên cho đỡ đau nhức. Mẹ mình tự uống thuốc. Có dạo mình phải chia  thuốc thành  3 buổi , cho vào  3 ngăn hộp có ghi  S - T- C , mẹ giữ, đến giờ, ăn xong là tự lấy uống. Lâu nay mẹ chỉ phải uống  hai thứ : thuốc hạ huyết áp và thuốc tim, thêm Para khi đau nhức. Bác sĩ khám tổng quát phán : Nội tạng của Cụ như cơ thể của một người trẻ tuổi, không có gì hao mòn. Mẹ nghe thoáng buồn vì ngài thuộc hàng các Cụ thích ...uống thuốc.
Mấy sáng nay dụ mẹ ra sân tắm nắng, mẹ kêu mệt. Ngại di chuyển.
Ngồi đan áo cho cháu  thôi.

Sáng hôm qua mẹ ăn bột ngũ cốc nấu, có nêm tí muối, tí bột ngọt, tí dầu ăn, tí tiêu. Khi bột chín đánh quả trứng gà tươi vào. Lúc ăn mẹ thêm sốt cà , nhạt thì có chai nước tương Tam Thái Tử-Đệ Nhất Ca - để sẵn.
Ăn bột xong, mẹ uống ngụm nước trà, rồi nhâm nhi ly G7 hết xảy.
Sáng nay, để thay đổi, mẹ ăn cơm rang. Cơm rang cho mẹ là rang với hành tím và nêm muối chứ không sử dụng tỏi và nước mắm. Cơm rang ăn với cà ghém để chua, cắt bỏ phần hột, ngâm với nước mắm có pha tí nước sôi, tí bột ngọt. Cái gì mẹ cũng đòi cho bột ngọt (không bệnh mới lọa !) Dung lượng bột ngọt theo thói quen của mẹ là " 1 muỗng cà phê" nhưng mình ..bứt phá, chỉ cho 1 tị. Hễ mẹ hỏi cho bột ngọt chưa thì bảo con có cho một.. tí.
Có dạo mẹ rất thích Maggi, có dạo món ăn gì cũng phải có dầu hào vào, dạo này đắm đuối ...chai sốt cà.
À, bữa tối hôm qua, mình rán cho mẹ hai cánh gà vàng rộm, ngon tuyệt. Gu của mẹ là cánh gà rán, đang lúc nóng, cho vào đĩa có nước mắm, nước sôi, gừng , tiêu và ..muỗng bột ngọt (đương nhiên!) , xối nước mắm ấy lên những miếng cánh gà nóng hổi .

Nói chung, mẹ thích những món ăn xương xẩu , để gặm gạp như đầu cá, cánh gà ,...sườn non v.v.
Tóp mỡ cũng là món khoái khẩu của mẹ mình. Hôm qua rán mỡ để chiên cánh gà , được mấy miếng tóp mỡ, ngâm nước mắm và dĩ nhiên tí ...(thôi chả nói nữa, ai cũng biết), mẹ ăn xong khen ngon quá, chưa bao giờ được ăn món ngon thế này. Hí ! Con gái phổng mũi.
Thế là hôm nay kể chuyện làm, chuyện ăn và chuyện sức khỏe của mẹ như vậy.

NGÀY CẦU NGUYỆN CHO CÁC LINH MỤC

NHT. Thật là hay khi đọc một bài giảng mà gặp được một ý tưởng trùng hợp với điều mình đang suy nghĩ :
 Nếu thiếu bàn tay ấy thì ta sẽ ra sao?
Bài giảng sau đây của linh mục Ca- rô-lô Hồ Bặc Xái như ly nước mát , hơn thế, một viên Cải Hoan Hoàn cho những bạn hay buồn các... linh mục. Xin cám ơn tác giả.
NGÀY CẦU NGUYỆN CHO CÁC LINH MỤC
Trong một quyển chuyện đề tựa "Quyền lực và vinh quang", nhà văn Graham Greene kể lại câu chuyện sau đây xảy ra tại một nước ở Nam Mỹ: Khi ấy một chính phủ ghét đạo lên nắm quyền và ra lệnh trục xuất tất cả các linh mục ra khỏi nước. Linh mục nào còn lén lút ở lại hoạt động thì bị bắt đem xử tử. Đa số các linh mục đã phải tuân lệnh ra khỏi nước, một số nhỏ can đảm ở lại thì cũng bị xử. Nhưng không ai ngờ là vẫn còn sót lại một linh mục. Ông này ở lại được vì không ai thèm để ý tới ông, bởi vì ông là một linh mục tội lỗi bê bối đã hồi tục. Ông không coi sóc họ đạo nào cả, cũng không lưu ý tới sự thiếu thốn của các con chiên. Hằng ngày ông lang thang đây đó để kiếm tiền và nhậu nhẹt. Về phần giáo dân, trước đây họ vẫn khinh rẻ ông, nhưng trong lúc thiếu linh mục thì họ lại cần tới ông. Người ta xin ông rửa tội, giải tội, dâng thánh lễ và xức dầu. Ông cũng sẵn sàng nhận với một điều kiện là phải có tiền: rửa tội một em bé là mấy đồng, giải tội một người là mấy đồng, xức dầu một người là mấy đồng, mỗi người dự lễ là mấy đồng... tất cả đều có giá hẳn hoi. Dĩ nhiên, như ai trong chúng ta cũng biết, ông càng làm các bí tích thì càng thêm tội bởi vì ông đang sống trong tình trạng tội lỗi. Nhưng ai ngờ con người tội lỗi ấy lại là phương tiện Chúa dùng để nuôi dưỡng đàn chiên Chúa trong lúc gian nan. Nhờ còn có ông mà giáo dân còn tiếp tục lãnh nhận được các bí tích và duy trì được đức tin của mình. Thế rồi dần dần nhà cầm quyền bắt đầu để ý đến tới những hoạt động của ông và ra lệnh truy nã ông. Ông cũng sợ bị xử tử nên lén vượt biên giới trốn sang xứ khác. Nhưng đang lúc ông sắp qua biên giới thì người ta chạy theo năn nỉ ông trở lại để giúp cho một người hấp hối. Không nỡ để một người chết không có bí tích nên ông linh mục này đã trở lại, và đã bị bắt, rồi bị đem ra pháp trường. Trước lúc bị bắn, ông đã ăn năn xin Chúa thứ tha hết mọi tội lỗi của ông và dâng linh hồn trong tay Chúa, rồi bình thản ngước đầu chờ đợi. Và ông đã trông thấy có một người lẫn trong đám đông đang đưa tay ban phép giải tội cho ông, đó là một linh mục khác vừa trốn về để tiếp tục công việc của ông, công việc của một chủ chăn đối với đàn chiên đang đói khát.
Câu chuyện cảm động trên cho chúng ta thấy hai điều:
Thứ nhất : linh mục rất cần cho đời sống đạo của giáo dân. Dĩ nhiên tín đồ của tôn giáo nào cũng cần vị lãnh đạo tinh thần của mình, nhưng người công giáo còn cần tới linh mục gấp bội. Có thể nói, cả cuộc đời người công giáo được bàn tay linh mục dẫn dắt nuôi dưỡng: Khi ta vừa mới sinh ra, bàn tay ấy đã đổ nước rửa tội cho ta; lớn lên bàn tay ấy đưa Mình Thánh Chúa cho ta rước lễ; khi ta sa ngã phạm tội, bàn tay ấy giơ lên thay quyền Chúa mà tha tội cho ta; khi ta lập gia đình, bàn tay ấy lại giơ lên chúc lành cho cuộc hôn phối của ta; và trước lúc ta nhắm mắt lìa đời, cũng bàn tay ấy xức dầu thánh chuẩn bị cho cuộc hành trình của ta về nhà Chúa. Nếu thiếu bàn tay ấy thì ta sẽ ra sao? Những người giáo dân trong câu chuyện trên mặc dù coi thường vị linh mục tội lỗi nọ nhưng họ vẫn phải cần tới ông, vẫn van xin năn nỉ ông, bởi vì trong lúc gian truân thiếu thôn ấy, chỉ có ông là có thể ban các bí tích cho họ.
Thứ hai: Linh mục là phương tiện cứu rỗi của Chúa. Chúng ta đã thấy ông linh mục trong chuyện trên đã mang ơn Chúa đến cho giáo dân nhiều như thế nào. Mặc dù ông tội lỗi, bất xứng nhưng các bí tích ông cử hành vẫn thành sự. Ông đọc " Này là Mình Ta" thì Chúa vẫn ngự vào chiếc bánh trắng; ông nói "Ta tha tội cho con" thì Chúa vẫn ban ơn tẩy sạch mọi tội lỗi trong tâm hồn người xưng tội. Linh mục thực là phương tiện Chúa dùng để ban ơn cho giáo dân.
Hôm nay là ngày Giáo hội cầu nguyện cho ơn kêu gọi linh mục. Không cần nói thêm chi nhiều, chúng ta chắc cũng ý thức nhu cầu linh mục cấp bách đến thế nào cho Giáo Hội chúng ta: chúng ta đang thiếu linh mục. Rất nhiều họ đạo không có linh mục. Ngày xưa Chúa Giêsu đã chỉ cho các môn đệ thấy những đồng lúa chín vàng và bảo "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Chúng con hãy cầu nguyện xin chủ ruộng cho thêm thợ gặt đến đồng lúa của Ngài". Chúa biết nhu cầu của chúng ta, nhưng Chúa muốn chúng ta phải cầu xin thì Chúa mới ban ơn. Xin gì.
Xin cho có nhiều thiếu niên, thanh niên quảng đại dâng mình cho Chúa để phục vụ các linh hồn.
Xin cho những người đang theo tiếng gọi của Chúa hôm nay, tức là các chủng sinh, các em dự tư, được bền tâm vững chí. Dù hoàn cảnh có nhiều khó khăn, nhưng Chúa đã nói "Ai bền đỗ tới cùng thì sẽ được rỗi".
Xin cho các linh mục của chúng ta được xứng đáng là những phương tiện tốt Chúa dùng để ban ơn cho giáo dân, nghĩa là xin cho các ngài được thánh thiện và bình an chăm lo việc đạo đức cho giáo dân.
Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái

Thứ Sáu, 19 tháng 4, 2013

LINH MỤC BÊN TA



Một trong những người bạn của tôi nói rằng  lý ra các linh mục  mới là những người có bổn phận cầu nguyện cho giáo dân.
Một người khác dè bỉu, tôi cảm thấy thất vọng với hàng linh mục lắm rồi, nói chi cầu nguyện. Thời nay giới đó tệ quá lắm.
Một người nói về các linh mục như để trả thù.
Một vị khác quyết liệt không bao giờ cầu nguyện cho Ơn Gọi Linh Mục và không bao giờ cho con cái đi tu.
Mình đã nghe nhiều những ý tưởng đại loại như trên và cảm thấy buồn lòng không đặng.
Còn nhiều.
Khi nghĩ về chủ đề Cầu cho các linh mục, mình không khỏi xót xa khi chính trong giới linh mục có vị còn bất cần, cho rằng có những thái độ hằn học với các linh mục như thế, đó là những đầu óc hư hoại, vô ích rồi.
Ngày xưa còn bé, trong khoảng thời gian dài, mình còn tệ hơn như các cha vừa nói đó, tức là mình đã đáng vất đi từ ấy. 
Nhưng đó là suy chưa sâu.
Suy cho cạn, mình vẫn cầu nguyện cho các linh mục, tu sĩ. Các vị rất đáng được giáo dân cầu nguyện cho.
Các ngài đáng kính, đáng trọng và nhiều vị tỏ ra đáng mến.
Thử hỏi, ngày nào đó, giữa một cơn binh biến, không Thánh Lễ, không được rước Thánh Thể, thậm chí cần một bàn tay có năng quyền xá giải , xức dầu hoặc ban phép lành cũng không. Không được phép. Cấm cách hoàn toàn. Khi ấy sự thèm khát của ta lên đến độ nào ?
Vậy hãy cầu nguyện để Chúa thương, lúc ta khát Chúa sẽ cho  thỏa, khi đói Chúa sẽ cho no. Hãy cầu nguyện để còn có linh mục bên ta.
Đời tư ông với Chúa.
Cũng vậy, đời tư ta với Chúa. Linh mục chỉ có một đường duy nhất là hướng dẫn ta về đàng lành chứ không đi ngược lại.
Tin năng quyền Chúa đặt nơi bàn tay linh mục là một sự khôn ngoan cả thể và là một đức tin xứng đáng.
Giống như bước lên xe ô tô với thái độ thản nhiên là nó sẽ chạy, leo lên thuyền và thản nhiên là thuyền nổi trên mặt nước. Khôn ngoan và tin tưởng ở đây tự nhiên như hơi thở. Mọi thái độ e dè, nghi kỵ, bất tín nhiệm đều gây bất lợi cho bản thân tín hữu, bởi sự dại dột không đáng có.
Đôi khi, giáo hữu tự dằn vặt chính mình mà thôi.
Linh mục, một ơn gọi không thường.
HT.

Ở VỚI MẸ -03-

Cháu Cố của Bà

19.4
Hôm nay trẻ mỏ bận rộn, giao cho bà trông cháu cố yêu của bà một khắc.
Ở dưới bếp mình nghe vọng xuống, tiếng bà đọc vè cháu nghe :
Thằng cu Tí
đi chăn trâu
ăn quả dâu
về đau bụng
bố nó đánh
mẹ nó can
gọi công an
đến giải quyết
tôi không biết
chuyện gia đình
nhà anh này.
Liền tiếp  bài vè trên, bà hát :
Đêm năm xưa, khi cung đàn lên tơ
Hoa lá quên giờ tàn
Mây trắng bay tìm đàn
Hồn người thổn thức trong phòng loan.
Đêm năm xưa nghe cung đàn gây mơ
Âu yếm nâng tà quạt
Cơn gió đưa về thuyền
Tưởng người trên sóng ru thần tiên.....