#Stats1 ul{margin:0;border:0;padding:0;height:32px;background:url(//goo.gl/ZHG881) no-repeat 0 -34px} #Stats1 li{margin:10px 0;border:0;padding:0 0 0 40px;list-style-type:none} #totalComments{height:32px;background:url(//goo.gl/ZHG881) no-repeat} #totalCount{height:32px;background:url(//goo.gl/ZHG881) no-repeat 0 -68px}

Thứ Hai, 21 tháng 1, 2013

HÈN HẠ KHIẾP NHƯỢC

Trương Duy Nhất
le-dinh-chinh-300x193Hôm nay 6/1/2013, các báo đồng loạt đưa tin cải táng hài cốt Lê Đình Chinh, người anh hùng liệt sĩ  đầu tiên trong cuộc chiến biên giới Việt- Trung 1979. Điều kỳ lạ là hầu hết các báo đều không dám nhắc đến cái tên kẻ thù của cuộc chiến tàn khốc bi thương đó. Duy nhất một tờ Thanh Niên(có lẽ do lọt sàng)  đã nêu được đích danh tên kẻ thù- đó là “quân xâm lược Trung Quốc”.
Chưa có thời nào bi hề và nhục nhã thế. Thủ tướng thì phải gọi trại ra là “đồng chí X”. Tàu của bọn cướp biển thì phải gọi là “tàu lạ”. Kẻ thù xâm lược tàn phá quê hương, bắn chết Lê Đình Chinh và hàng vạn đồng đội của anh trong cuộc chiến Việt- Trung 35 năm trước thì không dám gọi thẳng tên mà phải bóng gió xa xôi ám chỉ bằng những cách chung chung khôi hài như: “quân xâm lược từ bên kia biên giới”, “những tên côn đồ từ bên kia biên giới”.
Đến mức mấy chữ “quân Trung Quốc” khắc trên tấm bia ghi chiến tích của quân đội Việt Nam trong cuộc chiến tranh biên giới 1979 cũng bị đục nát như bằng chứng cho sự khiếp nhược đã tới mức không thể diễn tả bằng lời:
Xin đừng ngụy biện bằng những “mười sáu chữ vàng” với “bốn tốt”. Hà Nội, Điện Biên, Sài Gòn, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Trị, Thừa Thiên… trên khắp nước Việt này vẫn còn nhiều chứng tích của các cuộc chiến tranh Việt- Pháp, Việt- Mỹ, những dòng chữ  khắc ghi “tội ác thực dân Pháp, đế quốc Mỹ”…  vẫn còn đầy ra đấy. Có ai đục bỏ đâu, có “mười sáu chữ vàng” với “bốn tốt” đâu mà tình hữu nghị Việt- Pháp, Việt- Mỹ vẫn nồng thắm. Thậm chí  bao thế hệ người Pháp người Mỹ còn thích tìm đến những nơi chốn đó, thắp hương quỳ lạy và cảm thấy yêu cái nước Việt này hơn.
Thế nhưng tại sao cái chữ “quân Trung Quốc xâm lược” lại phải đục bỏ. Đến mức người dân biểu tình phản đối Trung Quốc xâm chiếm biển đảo cũng bị đàn áp, bắt giam. Đến cái tên kẻ thù xâm lược bắn giết đồng bào mình cũng không dám gọi tên. Húy kỵ đến hèn hạ, tránh né đến khiếp nhược như thế nhưng tại sao quan hệ Việt- Trung vẫn chẳng lúc nào yên.
35 năm nằm im trong lòng đất, liệt sĩ anh hùng Lê Đình Chinh và hàng vạn đồng đội của anh đã ngã xuống, thấm máu vùng biên cương kia, có ngờ được rằng hôm nay tổ quốc của các anh lại không dám gọi thẳng cái tên kẻ thù đã nã đạn vào đầu các anh ngày ấy.
Đọc những dòng tin trên báo hôm nay, có ai nhận ra mình đã khóc, nước mắt sót cay? Có ai phải nghiến răng bóp chặt tay thành nắm đấm căm giận…
Không có sự hèn hạ nào hèn hạ bằng. Không có sự khiếp nhược nào khiếp nhược đến thế.

CHUYỆN PHIM BUỒN

NHT. Phin buồn đang chiếu tại Việt Nam:

LÚ BÁ TƯ, TAM ANH CHIẾN LỮ BỐ

Trong bảy năm làm tể tướng, anh Ba ngấm ngầm chuẩn bị lực lượng, cho tay chân nắm giữ hết các chức vụ quan trọng của triều đình từ đó anh thao túng triều ca, vơ vét của cải thiên hạ về làm của riêng nhiều như núi, tay chân núp bóng tung hoành không coi trời đất ra gì, gây ra bao cảnh tang thương, làm thiệt hại kinh tế đất nước một số tiền khổng lồ lên đến con số với 13 chữ số dài dằng dặt mà người dân thường không thể nào hiểu được. 13349030000000000000....

Anh Lú xuất thân là anh giáo, ngày ngày tụng thuộc lòng kinh điển giáo điều rồi lặp lại không sai một chữ để đi lên lớp thiên hạ...cho dzui chứ chẳng ai buồn nghe vì kinh điển ấy đã bị chính các anh vất vào sọt rác từ lâu rồi. Tuy có hơi lú lẫn đôi chút nhưng nhờ hiền lành nên anh được trao giữ ngai vàng.
Từ phương Nam ra, có anh Tư, được dư luận cho là trong sạch vì không có tật đụng gì ăn nấy, hoặc có ăn thì cũng ăn đôi chút, không quá tham lam, được phong phó vương, phẩm trật đứng hàng thứ hai nhưng quyền lực chẳng có gì.
AnhTư và anh Lú thật ra chẳng ưa gì nhau- chuyện tất yếu của một triều đình độc tài chẳng ai ưa được ai - nhưng thấy anh Ba làm quá, gây ra biết bao tai tiếng và tổn thất, dân tình ta thán lên đến tận trời xanh, có nguy cơ đưa đến sụp đổ triều đình, nên hai anh kết hợp lại với nhau bàn mưu ra nghị quyết Vô Tư tổng quy động lực lượng toàn triều đình tổ chức cuộc tổng tiến công hạ bệ anh Ba.
Bằng cách làm ngơ cho mỗi quan từ trung ương đến địa phương làm bậy kiếm ăn một ít, để ai cũng có chút quyền lợi và có ít tì vết, anh Ba qua đó khống chế và nắm hầu hết quan lại. Thế lực của anh Ba vì thế rất lớn làm nội công của anh Ba vốn đã thâm hậu nay càng thâm hậu hơn. "Song anh" Tư- Lú cùng rút kiếm xuất chiêu tấn công ào ạt vào Ba bằng những đường gươm sát thủ. Thế nhưng Ba kiêu ngạo đứng yên nhìn "song anh" bằng cặp mắt mang hình đồng chí với cái nhếch môi khinh bỉ đầy tính đảng và tính giai cấp. Tưởng như hai đường gươm của song anh Tư -Lú lướt tới cắt phăng cổ và bổ đôi đầu Ba ra. Nhưng không, chỉ thấy Ba rùng mình một cái, da của Ba từ cổ trở lên bổng dưng dày lên như da cá sấu và cứng như thép Vi na tập đoàn. Hai nhát gươm của song anh chạm vào nghe keng keng hai tiếng rợn người rồi dội ngược trở ra làm hổ khẩu của song anh tóe máu. Nghe đồn rằng môn võ Thiết Diện Bì Công ấy anh Ba học được từ phương Bắc khi anh qua chầu bên ấy trước vài ngày xảy ra trận chiến và ngay lúc đang chiến đấu thì có thầy từ bên ấy qua núp sau lưng hỗ trợ.
Anh Lú vốn là người mềm yếu, chịu đau không nỗi bật miệng khóc thét lên một tiếng bi thương, nước mắt tuôn ra xối xả. Anh Tư rán chịu đau, phi thân một mạch về tận sào huyệt của mình ở phương Nam mới lấy lại được tinh thần, uất ức trong lòng bùng ra, rút gươm ra vung chém loạn xạ vào không khí, dân gian gọi là chém gió, miệng hét to lên : Chết mày này, thằng Ít Xì, thằng It Xì, thằng It Xì...Qua đó anh tạo ra một công án với ẩn số toán học X đầy bí hiểm nhưng toàn dân ai cũng biết đó là ai rồi, chỉ có hai anh  giả vờ không biết để đỡ xấu hổ vì đã thua xiểng liểng trong trận "Song Anh chiến Lữ Bố".
Anh Lú sau một thời gian thì hoàn hồn, vốn là người thuộc làu kinh sử nên nhớ lại tích xưa của mẫu quốc là phải  "Tam Anh chiến Lữ Bố" mới đúng bài, bèn vời anh Tư đến bàn thảo.
- Tớ thấy theo tích xưa của thiên triều, phải tam anh mới chiến được Lữ Bố. Ta mới có song anh nên thua là đúng rồi. Bây giờ phải tìm ở đâu ra một "anh" nữa.
Nghe anh Lú nói xong, anh Tư vỗ đùi đánh đét một tiếng, phấn khởi nói:
- Có rồi. "Anh" ấy đang luyện võ dưới chân Hải Vân Sơn, tung hoành ngang dọc, làm vua một cõi ở Trung phần với 72 đường Hải Vân Kiếm pháp. Có "anh" đó ra là mình đủ bộ tam sên.... ủa quên bộ "tam anh".
Anh Lú tỏ ra boăn khoăn:
- Cậu Bá ấy tớ biết, đang thèm muốn một chức vương trong triều đình, bao lần ra nhưng chưa được. Nhưng theo tích xưa, tớ là văn nhân nên đóng vai Lưu Bị, cậu có vóc dáng cao ráo, mặt tuy hơi đen vì rỗ nhưng lòng lại đỏ và thẳng ruột ngựa nên đóng vai Quan Công. Còn cậu ấy không có gì giống Trương Phi cả, e rằng đóng vai đó không ổn với tích xưa.
- Cậu ấy cũng có chút giống Trương Phi là rất hung hăng, thêm vào nữa là lòng dạ lại như Tào A Man, có vậy mới ra trị được Lữ Bố. Ta đừng có giáo điều quá, linh động sửa lại tích xưa một tý, phong đại nó lên làm Triệu Tử Long cho nó sướng, rồi triệu nó ra hợp lại với hai ta làm thành một "tam anh". Tam anh mà chiến Lữ Bố thì ắt thành công.
Đang luyện kiếm dưới chân núi Hải Vân, bổng nghe được tin vui từ triều đình truyền tới, anh Bá vui sướng râm ran, ước mơ bao lâu nay đã thành hiện thực, phen này tước vương sẽ cầm chắc trong tay, không vụt đi ở phút tám chín như các lần trước nữa. Như có một nguồn năng lượng bất ngờ truyền vào, anh Bá bừng bừng khí thế, vận công phi thân phóng vút lên đỉnh Hải Vân Sơn. Vừa lên tới đỉnh, anh đã trụ chân đứng nhìn về Bắc phương với đôi mắt cũng mang hình đồng chí, rồi bất thần vung đao ra chém tới tấp vào sương mù và mây gió, miệng hô vang khẩu quyết: Hốt, hốt, hốt hết! Bét, bét, bét hết! Nhốt, nhốt, nhốt hết!
Tuy mới chém gió vậy thôi, nhưng 72 đường của Hải Vân kiếm pháp uy lực kinh hồn tạo ra sự vang động khắp bốn phương tám hướng làm cho dân tình lâu nay quá tuyệt vọng và chán ngán đám tham quan ô trọc triều đình cũng hồ hởi phấn khởi hò reo ăn theo khắp mọi nơi.
Đang nằm ưỡn bụng thụ hưởng sau chiến thắng vang trời , anh Ba Lữ Bố bổng dưng nghe tiếng động lạ vang vọng đến từ Trung phần, bèn quát hỏi cận thần:
- Cái gì nó cù vào mông ta làm ta nhột nhột mất ngủ dzậy?
- Thưa anh, đó là thằng Bá nhãi ranh được hai anh kia tâng bốc đưa ra triều ca để hợp thành tam anh nhằm chiến với anh đó. Hắn phấn khởi quá nên la hét vang trời gây ra sự ồn ào ...
- Thế chúng mày đâu hết, không phi thân vào đó xuất vài chiêu dằn mặt cho ta. Nhớ là tử huyệt của hắn nằm chỗ cái bụng. Thằng nào mà không ăn, đã ăn vào thì bụng phình to lên nên lòi ra khuyết điểm. Cứ nhắm vào đó mà xuất chiêu thì chắc thắng.
Lũ lâu la bèn bay vào Hải Vân Sơn. Trong lúc anh Bá đang phấn khích múa kiếm la hét, chúng bất thần tung chiêu Hàm Mô Công húc mạnh vào bụng anh Bá...
Khà khà, chuyện tới đó xin tạm dừng lại như xi nê. Chưa biết sẽ ra sao về sau. Anh Bá có thực sự có 72 đường tuyệt kỹ Hải Vân Kiếm Pháp đầy uy lực để hóa giải độc chiêu Hàm Mô Công, hay là cũng giống như 72 đường Tịch Tà Kiếm Phổ của nhà họ Lâm, chỉ là hư danh dùng để chém gió?
Liệu anh Bá có vượt qua được đòn tấn công phủ đầu vào bụng, ra được chốn triều ca để tụ hợp với anh Lú và anh Tư tạo thành "Tam anh Lú Bá Tư", chiến đấu chống lại anh Ba Lữ Bố đầy quyền lực hay không, đón đọc hồi sau sẽ rõ. (còn nữa)
Tới luôn :


LÚ BÁ TƯ, TAM ANH CHIẾN LỮ BỐ - kỳ 2

Lại nói về anh Bá đang phấn khởi vận hết công lực triển khai Hải Vân Kiếm Pháp trên đỉnh Hải Vân Sơn  chém gió về phương Bắc để thị uy thì bị đám lâu la của Lữ Bố bất ngờ tấn công mãnh liệt vào nhược huyệt ở phần bụng bằng đòn độc Hàm Mô Công vô cùng hung hiểm, khó thể nào tránh thoát.


Thế nhưng, anh Bá đường đường là bậc võ công danh lừng, oai trấn một vùng trời đất Trung phần thì đâu có dễ dàng bị đám lâu la lằng nhằng nầy hạ thủ được. Bá chỉ cần hoành kiếm lại chọt thẳng ra theo chiêu thứ 9 trong Hải Vân Kiếm Pháp, gọi là Quảng Cãi Trực Phang thì cái đầu Hàm Mô Công của gã lâu la chỉ có thể chạm nhẹ vào nhược huyệt của Bá sau khi đã giảm tốc vì đi xuyên qua lưỡi kiếm của Bá.
Nhưng kiếm của Bá đã nhanh, mà đầu của Bá còn nhanh hơn. Bá chớp nhoáng nghĩ ra ngay: Thằng nầy tuy là lâu la tiểu tốt nhưng dù sao trên danh nghĩa cũng là vâng mệnh triều đình vào hạch tội ta, ta không thể vì chút nóng giận mà ra tay hạ độc thủ.
Cùng với suy nghĩ, Bá thu kiếm lại, trụ tấn, ưỡn bụng ra hứng đòn. Binh một tiếng vang tai nhoáng óc, xếp lâu la triều đình dội ngược ra sau rồi té phịch xuống đất, mặt xanh như đít nhái, ôm đầu thở đứt khúc.
Còn Bá văng bắn ra khỏi đỉnh núi rồi rơi vào vực thẳm của Hải Vân Sơn.
Không. Xuống đến lưng chừng vực, Bá lộn người tung chân đạp mạnh vào vách núi rồi dùng Vân Phong Phi Yến (chiêu thứ 70 trong Hải Vân Kiếm Pháp) bay một mạch về dinh phủ bên bờ Hàn Giang.
Không kịp nghỉ ngơi, Bá gọi ngay đệ tử Văn Cũng Đấu ra bảo:
- Ta chưa kịp ra chốn triều ca để bình tham quan cứu "ấu" chúa thì chúng đã cử lâu la đến tộn vào bụng ta. Tuy chúng là lâu la nhưng danh nghĩa là vâng mệnh triều đình nên ta phải nghiến răng bấm bụng giả bộ hứng một đòn rồi phi về đây. Tuy nhiên thằng Lữ Bố ấy sẽ tiếp tục sai lâu la vào truy kích ta đến tận nơi này. Đường đường như ta đây không thể hạ mình giao đấu với chúng được. Ta phải để dành sức ra đấu với chủ của chúng...Ngươi thay ta ra đáp lễ chúng.
Nghe nói đến đó, Văn Cũng Đấu rụng rời bủn rủn cả chân tay, mặt mày xanh lét, giọng run run thưa:
- Em..Em...là Văn...là Văn mà làm reng em chiến được...
Bá trừng mắt:
- Ông là Văn nhưng tên ông là Cũng Đấu. Hơn nữa ông được ta cất nhắc lên làm quan đầu phủ mà những lúc như thế này không ra chiến đấu thay ta thì còn ai chiến đấu hả ông kia?
Văn Cũng Đấu càng run hơn:
- Chúng nó là mệnh quan của tể tướng cử về còn em tuy núp dưới bóng anh lồng lộng nhưng cũng chỉ là một quan phủ hèn mọn thì làm sao dám chống lại lệnh triều đình. Chết em, chết em...
- Ông làm cái chi mà ông sợ rứa hử ông? Có chết thì cũng rán ra chiến một trận cho ta. Có ta đứng sau yểm trợ không méc chi phải sợ. Chừ nghe ta bày nè. Phải thế này nè, phải làm ri nè, phải...phải...phải...
Nghe một chặp, Văn Cũng Đấu lấy dần lại tinh thần thì cũng vừa lúc tên đầu đảng lâu la triều đình phi thân đến trước cửa phủ. Tên này tuy bị anh Bá dùng bụng đẩy ngã ngửa ra sau, dộng bàn tọa xuống đá rắn thốn lên đến đỉnh đầu, kinh mạch chấn động nhưng thấy đối thủ văng ra khỏi đỉnh núi rồi dông mất, tưởng mình là bên thắng cuộc nên phấn khởi, nhanh chóng phục hồi chân khí, vận công phi thân về tận sào huyệt của Bá để tiếp tục truy kích. Hắn đứng trước cửa phủ la to:
- Bớ Bá tặc ra đây nghe hạch tội và chịu sự trừng phạt của triều đình.
Không thấy anh Bá đâu, chỉ thấy quan phủ Văn Cũng Đấu dùng dằng bước ra. Quan Đấu tuy đã được lên giây cót, bề ngoài tỏ vẻ bình tâm nhưng trong bụng vẫn rối như tơ vò. Quan biết phen nầy mình làm phận ruồi muỗi giữa hai con trâu và bò đang húc nhau. "Không nghe theo anh Bá thì sẽ tiêu với anh Bá, mà nghe theo anh Bá thì chết với anh Ba. Ta vừa mới lên chức, ai ăn mà ta phải chịu vậy hở trời? Nhưng anh Ba thì ở xa, còn anh Bá thì đứng ngay sau đít...Thôi thế thì cũng phải đành thôi".
Vừa nghĩ như vậy, quan Đấu bèn hắng giọng cố lên gân cãi:
- Tội chi mà tội. Không có tội thì méc chi phải chịu trừng phạt hỉ?
Nghe những lời ngạo mạn đầy tính Quảng như vậy, mệnh quan triều đình nổi cơn giận phừng phừng hét lên:
- Tên mọn quan nầy ỷ thế ai mà dám cả gan cãi lại ta? Mày có biết...phản biện lại ta là chống lại triều đình hay không? Mày muốn tám tám thì tau cho mầy còng số tám.
Y quát chưa xong đã vận công, vung đao chém tới tấp một hơi vào 16 nhược huyệt của quan Đấu. Mỗi nhát chém là một chiêu thức hiểm độc, uy lực cực mạnh với số thành công lực phát ra từ vài chục đến vài trăm tỷ cho mỗi nhát chém. Theo thống kê, tổng số thành công lực mà mệnh quan triều đình vừa tung ra tấn cống phủ đầu lên đến 3 ngàn 400 tỷ. (tỷ là đơn vị đo thành công lực)
Thấy uy lực tấn công của đối phương vô cùng kinh hồn, Văn Cũng Đấu, tuy trong lòng run sợ nhưng đã được anh Bá bày vẽ cho từ trước nên vẫn bình tỉnh xuất chiêu chống lại.
 Đấu dùng Vân Ba Hư Bộ để lạng lách né tránh đồng thời vung kiếm xuất chiêu Quảng Cải Trực Phang, phang ra những cú chọt vào mặt đối phương để hóa giải những nhát đao cực mạnh. 34 ngàn tỷ thành công lực từ những nhát đao của mệnh quan triều đình bị Văn Cũng Đấu hóa giải thành con số không to tướng. Tiếng vỗ tay hoan hô rào rào vang lên khắp mọi nơi. Té ra lúc Đấu đang chiến, thì Bá đã cho mời 700 cơ quan ngôn luận của cả nước về làm khán giả.
Chỉ mang vào có 16 chiêu để tấn công nhưng không khuất phục được đối phương, mệnh quan triều đình hết bài. Không còn cách nào khác, quan đành hậm hực phi thân về phương Bắc để báo cáo với anh Ba.
Mới ra chiêu đã thắng được mệnh quan triều đình, Văn Cũng Đấu lại không một chút phấn khởi. Ngược lại, tay chân Đấu rụng rời, buông thỏng kiếm xuống, cúi gầm mặt thở dài. Quan biết rằng mình đã nghe theo anh Bá làm một chuyện động trời chưa từng xảy ra trong lịch sử võ lâm kiếm ký kể từ khi Giáo cướp được chính quyền: Quan phủ hèn mọn mà dám ngang nhiên chống lại quan tể tướng đầu triều. Mà chống lại ngay trước hàng chục triệu cử tọa gián tiếp qua 700 cơ quan ngôn luận mới kinh khiếp chứ.
Chuyện tày đình nầy thì không thể nào xảy ra, trừ khi phải tính chuyện ly khai... làm loạn. Mà ly khai làm loạn kiểu nầy thì chỉ có gan trời như Bá đại ca mới tính đến chuyện dám hay không chứ đừng nói chi đến Văn Cũng Đấu đang muốn phấn đấu đi lên kiếm chút... mà tội nghiệp.
Số phận của Văn Cũng Đấu ra sao trước trận lôi đình sắp nổ ra của anh Ba Lữ Bố...đón đọc hồi sau sẽ rõ như ban ngày.
HNC ( tại đây )

MAI PHIẾN DÂNG CHA DIỆP

NHT: Nhà thơ khiếm thị MAI PHIẾN, một người con thảo của Cha PHANXICÔ TRƯƠNG BỬU DIỆP từ phương xa đã gói ghém  tâm tình dâng Cha vào bài thơ sau đây, cùng với ước muốn chia sẻ với độc giả qua NHT '. Rất hân hạnh khi được tác giả tin cậy, vậy khi nhận được bài thơ này gửi qua e-mail, tôi vội vào vườn, xới đất trồng ngay bông hoa mới, bông hoa có tên là CHA, tác giả Mai Phiến. Mong rằng lại làm cho Mai Phiến "xúc động đến lặng người"  một lần nữa như Anh tâm sự trong e-mail khi biết được trong mùa Noel vừa qua, bài thơ Đêm Cực Thánh của mình đã có Cung Thương phổ nhạc đăng trên NHT '. 
Cuộc phù du trôi nổi có đôi niềm vui bất ngờ đó mà !


Chân dung Lm.PHANXICÔ Trương Bửu Diệp

 KÍNH DÂNG CHA PHANXICÔ TRƯƠNG BỬU-DIỆP
CHA
       Cha đã đến như ơn lành đã đến
            Cha đã đi theo đôi cánh thiên-thần
            Cha đã về dưới ánh-sáng Hồng-ân
                             Cha cầu-nguyện do quyền-năng Thiên-chúa    
                     Cha nằm xuống bởi quê-hương khói lửa
                 Cha đứng lên làm nhân-chứng đức tin
                             Cha hoàn-thành Thánh chức bậc chăn-chiên
           Cha lấy máu mình tô hồng Sử Đạo
             Cha là Cha đàn con Lương lẫn Giáo
            Cha hết lòng quyết bảo-vệ đàn con
            Cha hy-sinh để mãi được sống còn
                           Cha thương mến những mảnh đời khốn khó
      Cha an-ủi bao tâm hồn sầu khổ
             Cha chữa lành mọi bệnh tật ốm đau
                 Cha lắng nghe từng mỗi tiếng kêu cầu
               Cha tuyên-xưng một tình yêu bất-diệt
           Cha là Phanxicô Trương Bửu Diệp
                        Lạy Thiên-chúa xin nâng Ngài lên Thánh.
                                                                    
                                                    January 2013  -  MAI-PHIẾN

Chủ Nhật, 20 tháng 1, 2013

VẪN TỪ TẠP CHÍ CỘNG SẢN

( Tựa bài đăng do blogger)
Lại ngẫm chuyện chọn người đứng đầu
18:43' 2/1/2013
Tạp chí cộng sản  - Trong trời đất không gì quý bằng con người. Trong nhân quần không gì quý bằng hiền tài. Bởi, hiền tài là nguyên khí của quốc gia.
Theo thế, việc dùng người, nhất là người làm tướng, người đứng đầu tổ chức, quốc gia... được xếp vào một trong mấy việc hệ trọng và khó vào bậc nhất xưa nay ở đời. Ngẫm việc này, chợt lại nhớ tới dòng chữ khắc trên bia mộ một vị tổng thống ở phương Tây: “Nơi đây yên nghỉ một người tài biết dùng những người tài hơn mình”! Thế mới hay, trải suốt cổ kim, ngang dọc Đông Tây, việc dùng người đúng đắn là nỗi bận tâm và nan giải vào hàng thứ nhất trong muôn sự ở đời của mọi thời và mọi quốc gia.
Nhân chúng ta đang bàn và thực thi về thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu, theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, tôi lại nhớ về ngày xưa về việc chọn người!
Có câu chuyện đối đáp đã lưu truyền trong dân gian suốt hơn 2.400 năm nay, ở một nước nọ. Rằng, một bữa, Văn Quân người đất Lỗi Dương, hỏi Mặc Tử: Có kẻ nói trung thần là người bắt cúi thì cúi, bắt ngẩng thì ngẩng, để thì im, gọi thì thưa, như thế có coi là trung thần và dùng họ được không? Mặc Tử cười đáp: Bắt cúi thì cúi, bắt ngẩng thì ngẩng, như thế khác gì cái bóng. Để thì im, gọi thì thưa, như thế khác gì tiếng vang. Nếu dùng những kẻ như cái bóng như tiếng vang ấy, phỏng được ích gì. Theo tôi đây, đã gọi là bậc trung thần thì khi vua có nhầm lẫn, phải liệu cách can ngăn mà đưa vào điều thiện. Khi mình có điều hay, phải tìm đường bày tỏ, mà không lộ ra ngoài; trên thì thành thực, một lòng một dạ với vua; dưới thì không a dua, vào bè kết đảng với ai. Những sự tốt lành, yên vui thì để phần vua hưởng; những điều oán trách, lo lắng thì một mình gánh chịu trước. Ai có được như thế, tôi mới cho là bậc trung thần và họ xứng đáng được tin cậy và ủy thác cho việc lớn trong thiên hạ.
Văn Quân cả phục và làm theo!
Chuyện ấy, lời ấy của Mặc Tử thật chí lý chí tình lắm thay!
Nhưng chạnh buồn rằng, lại từ Đông sang Tây, tự cổ chí kim, nhìn và ngẫm, thấy lắm chuyện việc dùng người đáng phải trừ bỏ. Tỉ như điều sách Hoài Nam Tử ghi lại: Trong thiên hạ, có ba cái nguy: Đức ít mà được ân sủng nhiều, tài kém mà địa vị cao, thân không lập được công to mà bổng lộc lắm. Nhiều thời, người đứng đầu quốc gia đã phạm vào những điều cấm kỵ ấy, khiến cho bậc trung thần phải thất thế, kẻ hiền sĩ phải bó tay và đám loạn thần lên ngôi vênh vác, chà đạp những bậc trung thần. Quả báo không thể nào tránh nổi. Ấy là lúc lòng người ly tán, xã hội trầm luân, quốc gia điên đảo. Bao vương triều sụp đổ!
Nghĩ mà đau lòng thay! Bởi thế, ở nước ta, thời nào ông cha mình cũng dành những nỗi bận tâm bậc nhất trù tính chuyện dùng người, những mưu xã tắc muôn đời bền vững.
Nhớ thế kỷ thứ XI, dù chuyện đã kể mấy lần. Rằng, vào thời Lý, có vị Thái úy là Tô Hiến Thành. Ông tài đức vẹn toàn. Lúc ông nhuốm bạo bệnh, người ta thấy, có quan Tham tri chính sự là Vũ Tán Đường ngày đêm chầu chực hầu hạ, rất là “mẫn cán”, “tận tụy” (!). Ai cũng nghĩ, người ấy sẽ thay Tô Hiến Thành, khi ông khuất núi. Khi ông sắp lâm chung, bà Đỗ Thái hậu - mẹ vua Lý Cao Tôn - đến thăm và hỏi ông: Ai có thể thay ông được? Chẳng cần nghĩ, ông đáp ngay: Thưa Thái hậu! Là Trần Trung Tá. Bà chưa hết ngạc nhiên, ông tiếp: Nếu Thái hậu hỏi người cúc cung hầu hạ thì tôi xin cử Vũ Tán Đường, còn hỏi người làm tướng thì tôi phải tiến cử quan Gián nghị đại phu Trần Trung Tá.
Ngược thêm chút nữa, về thế kỷ thứ X. Đinh Tiên Hoàng lừng lẫy và lẫm liệt là thế, nhưng cuối đời, vì dùng bọn người Đỗ Thích, Đỗ Sơn một cách mù quáng nên nỗi thân nát nghiệp tan. Nhưng còn kịp may mắn để lại cho hậu thế một bài học dùng người thấm đẫm máu đào và nước mắt!
Trở xuôi tới thời Trần. Đây là thời kỳ được xếp vào hàng những thời thịnh trị nhất lịch sử nước nhà, với hào khí Đông A lừng lẫy. Và Trần Hưng Đạo được lưu truyền và ca tụng nhiều nhất trong việc dùng người. Lúc thường ngày, ông bỏ thù riêng, gạt hiềm cũ để cầu người mưu việc đại sự quốc gia. Ông giội nước cho Thượng tướng Trần Quang Khải tắm cốt bỏ hiềm xưa, những tỏ lòng mình trong sạch. Chuyện ấy còn truyền mãi với nhân gian. Khi lâm đại sự, ông thường khuyên các tướng: Thận trọng từ cái nhỏ, mưu trí ở việc lớn, quê mùa vì bỏ người hiền, mắc vạ vì ham lợi lộc, không tường tận vì ghét nghe kể lỗi mình, không sáng suốt bởi nghe lời gièm pha, không chắc chắn vì hay nhẹ dạ. Theo phương châm ấy, ông đối đãi hết lòng với người và hết sức khắc kỷ với mình. Và nhân gian còn nhớ mãi, dưới quyền Hưng Đạo Vương, kẻ nịnh hót gièm pha đâu thấy; người thích phỉnh nịnh phải tỉnh ngộ; kẻ tham lam, vị kỷ buộc nghiến răng lấy đó làm điều phải tự răn mình; bao bậc hiền tài, trang tướng tha hồ mở lòng giúp nước.
Thật là lẫm liệt lắm thay!
Tới thời hậu Lê. Dẫu bản thân mình bao bận thăng trầm, thậm chí về cuối đời, bị thất sủng và gánh họa tru di tam tộc, nhưng Nguyễn Trãi vẫn treo vằng vặc giữa nhân thế một vì sao Khuê. Ông từng nói với các vị quan đồng triều rằng: Yêu người gần vị tình riêng. Họ hàng thì người thấp cũng tôn quý, tiểu nhân mà người nịnh cũng tin dùng. Nhân mừng mà thưởng khen, nhân giận mà phạt giết. Người trung thực phải khóa miệng, kẻ lương thiện thì ngậm oan. Thế mà còn cứ kiêu ngạo, không sợ mệnh trời gieo họa lắm ư. Và, chẳng phải đợi lâu, lời tiên báo ấy đã thành ứng nghiệm với nhà Lê, như là quả báo.
Một quốc gia may mắn là một quốc gia có nhiều bậc hiền tài. Nhưng, để trở nên mạnh mẽ và trường tồn chỉ khi người ta biết trọng dụng con người, nhất là những bậc hiền tài ấy. Không nhìn thấy người hiền tài là mắc tội; tội to hơn là thấy người hiền tài mà không dùng họ; tội nặng hơn thế nữa là dùng mà không tin họ; thật là trọng tội nếu thấy họ mắc oan mà không bảo vệ được; nhưng cộng cả bốn tội ấy cũng không nặng và nguy ngập bằng tội đem cái mũ của bậc hiền tài đội lên đầu kẻ bất tài vô hạnh!
Ông cha ta từng luôn lấy đó làm răn!
Càng nhớ, càng nhìn, càng ngẫm lại càng hổ thẹn, thật không dám bàn thêm, khi thấy nhiều nơi ở ta, việc chọn người đứng đầu, người làm tướng không được kỹ càng như ông cha mình thuở trước./.
Nhị Lê

Thứ Bảy, 19 tháng 1, 2013

VĂN HÓA TỪ CHỨC

  Theo Tạp chí cộng sản

Văn hóa từ chức
8:56' 18/1/2013
TCCSĐT - Từ chức được hiểu xin thôi không làm chức vụ hiện đang giữ. Như vậy, từ chức chỉ có thể xảy ra ở những người có chức, có quyền. Từ chức một cách tự nguyện, tự giác là thái độ trung thực với chính mình, biết xấu hổ khi làm điều trái với đạo lý, đi ngược lại nguyện vọng của cơ quan, tổ chức và cộng đồng, là biểu hiện của sự cao thượng, dũng cảm, tự trọng.
 Hiện nay, vấn đề văn hóa từ chức ở nước ta đang được nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến. Từ chức chỉ được xem là một hành vi có văn hóa khi người ta tự nguyện và mang lại ý nghĩa tốt đẹp cho xã hội. Ở các nước phát triển, từ chức là văn hóa hành xử của những người có chức, có quyền và đã trở thành trách nhiệm của người có chức, có quyền, được dư luận xã hội chấp nhận.Từ xưa, nước Việt ta có khá nhiều người tài giỏi nhưng đã treo ấn từ quan như Chu Văn An, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Bỉnh Khiêm,... Các ông từ chức không phải không làm tròn chức trách, gây tác hại lớn mà phần nhiều là do khảng khái, không đồng ý với quan điểm của vua. Tuy nhiên, tôi cho rằng, ở Việt Nam từ xưa đã có văn hóa từ chức rồi thì chưa hẳn đúng.
Vừa qua, Chính phủ chỉ đạo Bộ Nội vụ nghiên cứu xây dựng Đề án tiếp tục cải cách chế độ công vụ, công chức, trong đó có việc nghiên cứu xây dựng các quy định về từ chức của cán bộ, công chức và coi từ chức - thuộc khía cạnh văn hóa của chế độ công vụ - là một nội dung nằm trong chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 -  2020.Tại sao Chính phủ lại phải xây dựng các quy định về từ chức của cán bộ, công chức? Theo tôi là do những nguyên nhân sau đây:
Một là, công tác tổ chức cán bộ của chúng ta còn yếu kém, nhất là trong việc giáo dục, lãnh đạo, quản lý đã làm cho một bộ phận không nhỏ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp thiếu rèn luyện, tu dưỡng, thực hành liêm chính và thiếu gương mẫu, không làm tròn chức trách, gây tác hại lớn nhưng hầu như không thấy ai có lời xin lỗi hoặc từ chức cả.
Hai là, chúng ta chưa có hệ thống pháp luật quy định rõ trách nhiệm, thẩm quyền của từng vị trí, nhất là đối với lãnh đạo, quản lý nên thiếu cơ sở để người dân hoặc các tổ chức, cơ quan giám sát. 
Ba là, việc từ chức hiện nay khó quá nên không thấy ai tự nguyện từ chức nên phải có quy định, đồng thời ở nước ta hiện nay chưa hình thành văn hóa từ chức. Điều đó có nghĩa là một bộ phận không nhỏ cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa có lòng tự trọng, thiếu trung thực, ứng xử chưa liêm khiết.
Tại sao việc từ chức lại khó và ở ta chưa có văn hóa từ chức? Qua nhiều ý kiến của các nhà nghiên cứu có thể khái quát như sau:
- Chức tước thường đi đôi với quyền lực, thường gắn với lợi ích, bổng lộc, đặc quyền, đặc lợi. Nếu từ chức có nghĩa sẽ không còn gì cả.      
- Học để “làm quan” đã ăn sâu, bén rễ trong tâm thức người Việt và vì thế truyền thống coi “làm quan” là một sự thành đạt cao nhất.
- Dư luận xã hội chưa được định hướng để đồng tình hay ủng hộ việc tự nguyện từ chức. Nếu ai đó là đảng viên thì viện dẫn đây là nhiệm vụ Đảng giao, nếu từ chức lại coi là không có tinh thần đảng viên, phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí chiến đấu…, từ chức là để trốn tránh trách nhiệm, để thoát tội, để hạ cánh cho an toàn… 
Rõ ràng, quyền lực thể chế nào cũng liên quan tới lợi ích cá nhân. Một khi động cơ lợi ích cá nhân lớn đến mức, nhà tư sản “sẵn sàng treo cổ khi lợi nhuận tới 300% - Các Mác”, thì người có quyền, có chức càng không thể dễ dàng từ bỏ nó, nếu quyền lực chính là phương tiện có thể “vinh thân, phì gia”.
Văn hóa từ chức là một dạng văn hóa cá nhân của những người có chức, có quyền. Họ được cơ quan, tổ chức và xã hội tôn trọng khi ở họ có nhân cách đạo đức, biết lãnh đạo bằng tấm gương. Nếu không có nhân cách và gương mẫu thì không thể thuyết phục được mọi người. Để có văn hóa từ chức theo tôi cần:
- Phải có hệ thống pháp luật quy định rõ trách nhiệm, thẩm quyền của từng vị trí, nhất là đối với các chức danh lãnh đạo, quản lý. Xây dựng các quy định về từ chức của cán bộ, công chức phải dựa trên nền tảng cải cách, xây dựng được quy chế công chức thật chuẩn về tiêu chuẩn của từng chức vụ, từng vị trí công tác.
- Đẩy mạnh tuyên truyền trong xã hội về văn hóa từ chức; nên khuyến khích sự tự nguyện từ chức và đánh giá cao những người có đủ dũng khí, lòng tự trọng, biết liêm sỉ tự nguyện từ chức, đồng thời định hướng dư luận xã hội cũng không nên nặng nề đối với những người tự nguyện từ chức.
- Bản thân cán bộ lãnh đạo, quản lý cần phải tự nhận thức rằng chức vụ không chỉ đi liền với quyền lợi, mà cao hơn phải thấy chức vụ đi liền với trách nhiệm, với tinh thần, thái độ cống hiến, hy sinh. 
Việc từ chức tự nguyện của người có chức, có quyền sẽ tạo cơ hội cơ cấu lại, kiện toàn đội ngũ cán bộ của cơ quan, tổ chức nghĩa là tạo ra sự hợp lý tốt hơn trong xã hội. Điều đó giúp những người thực sự có nhân cách, tài giỏi, có trình độ, năng lực thực tiễn có thể phát huy cao nhất năng lực của mình nếu ở đúng vị trí, đồng thời cũng giúp cho cơ quan, tổ chức và xã hội tránh được những thiệt hại không đáng có. 
Văn hóa có mặt trong tất cả những hoạt động sống của con người và là tất yếu của cuộc sống, thế nên, văn hóa từ chức cũng biểu hiện sự tất yếu của cuộc sống. Thiết nghĩ, từ chức sớm trở thành cách ứng xử bình thường trong đời sống lãnh đạo, quản lý ở nước ta, đồng thời, văn hóa từ chức cũng từ đó mà hình thành và phát triển./
Quyền Duy

Thứ Sáu, 18 tháng 1, 2013

LUẬT LÚ LẤP


Thứ trưởng Bộ văn hóa VH-TT&DL đang nhìn gương mặt ca sĩ Y Moan qua kính quan tài
Thứ trưởng Hồ Anh Tuấn Bộ văn hóa VH-TT&DL đang nhìn gương mặt ca sĩ Y Moan qua kính quan tài
Bây giờ mới biết tác giả nghị định 105 mà thiên hạ chửi rầm trời là ông Hồ Trí Hùng – Phó Vụ trưởng Vụ tổ chức cán bộ, Bộ VH-TT & DL. Tưởng nghe thiên hạ chửi vậy chắc ông xấu hổ lắm, nhưng không, ông lên báo trả lời đàng hoàng. Càng nghe ông nói càng buồn cười.  Mình đang ốm mà vẫn phải ôm bụng cười rũ. Bà con ai muốn cười vô đây mà cười. (tại đây)
Đến đoạn ông Hùng trả lời tại sao không cấm phong bì trong tang ma, ông nói thật hay: “Nếu nói nạn phong bì, đây là vấn đề nhức nhối. Nhưng nếu đưa vào cũng không cấm được…Đối với những người lợi dụng ma, chay để hối lộ, tham nhũng chúng ta biết nhưng không thể làm được.”Hi hi cái đáng cấm thì không cấm lại đi cấm rải vàng mã vài ba chục ngàn đồng”để chống lãng phí”, chết cười.
 Biết tham nhũng không cấm được là không cấm, làm luật là thế có phải không hả ông Hùng? Về cái chuyện cấm lắp kính quan tài ông Hùng giải thích mới vui. Ông giải thích như vầy: “Nếu nói về thuần phong mỹ tục, lắp kính chỉ có cách đây khoảng 10 năm, không phải là truyền thống. Thực tế, sinh ra cái kính chỉ là hình thức, tượng trưng. Về tâm lý, không ai muốn để nhìn thân hình người đã mất.. Không đảm bảo an toàn với người đã mất: Cái khuôn kính có kích thước to, nhỏ, rộng, hẹp trong quá trình di chuyển do trấn động người đi lại, tác động bên ngoài thì kính sẽ rơi xuống người đã mất.”
Hi hi người làm chính sách ngồi lo cái kính rơi xuống người đã mất, quả thật xưa nay hiếm. Việc đó người thân trong gia đình người ta lo không được sao để cho mấy ông ngồi trên trời lo vậy ta?
Lại còn bảo:”Về tâm lý, không ai muốn để nhìn thân hình người đã mất..” Ông chắc vậy không? Nếu chắc sao không đề nghị BCT đừng để Bác nằm trong lồng kính, vì “không ai muốn để nhìn thân hình người đã mất” hả ông Hùng?
Hôm nay mình đọc cái tin Bắc Triều Tiên lại cấm phụ nữ đi xe đạp (tại đây): “Trên các chương trình truyền hình giải thích rằng mặc váy đi xe đạp vi phạm đạo đức của xã hội xã hội chủ nghĩa.” He he vui thật là vui.
Thà rằng cứ nói quách cấm lắp kính quan tài, cấm rải vàng mã, cấm viếng quá 7 vòng hoa… mới đây Bộ VH-TT &DL còn cấm cả việc uống rượu trong phòng Karaoke nữa (tại đây), là để chống “vi phạm đạo đức của xã hội xã hội chủ nghĩa” còn dễ chịu hơn nói như  ông Hồ Trí Hùng.
Mà thôi, xin mấy ông nghỉ quách đi cho thiên hạ nhờ, chứ ngồi không rỗi việc lại nghĩ ra mấy cái luật lú lấp… khổ lắm, mà cũng nhục lắm. Công chức nước Nam này đâu đến nỗi ngu thế.
NQL (Quechoa'blog)

Thứ Năm, 17 tháng 1, 2013

THẰNG KHÙNG


(Viết lại theo lời kể của nhà thơ Nguyễn Tuân ( đọc tiểu sử)

"… Anh ta vào trại trước mình khá lâu, bị trừng phạt vì tội gì, mình không rõ. Người thì bảo anh ta phạm tội hình sự, người lại bảo mắc tội chính trị. Nhưng cả hai tội mình đều thấy khó tin. Anh ta không có dáng dấp của kẻ cướp bóc, sát nhân, và cũng không có phong độ của người làm chính trị. Bộ dạng anh ta ngu ngơ, dở dại dở khùng. Mình có cảm giác anh ta là một khúc củi rều, do một trận lũ cuốn từ một xó rừng nào về, trôi ngang qua trại, bị vướng vào hàng rào của trại rồi mắc kẹt luôn ở đó. Nhìn anh ta, rất khó đoán tuổi, có thể ba mươi, mà cũng có thể năm mươi. Gương mặt anh ta gầy choắt, rúm ró, tàn tạ, như một cái bị cói rách, lăn lóc ở các đống rác. Người anh ta cao lòng khòng, tay chân thẳng đuồn đuỗn, đen cháy, chỉ toàn da, gân với xương.
Trên người, tứ thời một mớ giẻ rách thay cho quần áo. Lúc đầu mình cứ tưởng anh ta bị câm vì suốt ngày ít khi thấy anh ta mở miệng dù là chỉ để nhếch mép cười. Thật ra anh ta chỉ là người quá ít lời. Gặp ai trong trại, cả cán bộ quản giáo lẫn phạm nhân, anh ta đều cúi chào cung kính, nhưng không chuyện trò với bất cứ ai. Nhưng không hiểu sao, ở con người anh ta có một cái gì đó làm mình đặc biệt chú ý, cứ muốn làm quen… Nhiều lần mình định bắt chuyện, nhưng anh ta nhìn mình với ánh mắt rất lạ, rồi lảng tránh sau khi đã cúi chào cung kính.
Hầu như tất cả các trại viên, kể cả những tay hung dữ nhất, cũng đều thương anh ta. Những trại viên được gia đình tiếp tế người để dành cho anh ta viên kẹo, miếng bánh, người cho điếu thuốc.
Ở trại, anh ta có một đặc quyền không ai tranh được, và cũng không ai muốn tranh. Đó là khâm liệm tù chết. Mỗi lần có tù chết, giám thị trại đều cho gọi "thằng khùng" (tên họ đặt cho anh ta) và giao cho việc khâm liệm. Với bất cứ trại viên chết nào, kể cả những trại viên đã từng đánh đập anh ta, anh ta đều khâm liệm chu đáo giống nhau. Anh ta nấu nước lá rừng, tắm rửa cho người chết, kỳ cọ ghét trên cái cơ thể lạnh ngắt cứng queo, với hai bàn tay của người mẹ tắm rửa cho đứa con nhỏ.
Lúc tắm rửa, kỳ cọ, miệng anh ta cứ mấp máy nói cái gì đó không ai nghe rõ. Anh ta rút trong túi áo một mẩu lược gãy, chải tóc cho người chết, nếu người chết có tóc. Anh ta chọn bộ áo quần lành lặn nhất của người tù, mặc vào rồi nhẹ nhàng nâng xác đặt vào áo quan được đóng bằng gỗ tạp sơ sài.
Anh ta cuộn những bộ áo quần khác thành cái gói vuông vắn, đặt làm gối cho người chết. Nếu người tù không có áo xống gì, anh ta đẽo gọt một khúc cây làm gối. Khi đã hoàn tất những việc trên, anh ta quỳ xuống bên áo quan, cúi hôn lên trán người tù chết, và bật khóc.
Anh ta khóc đau đớn và thống thiết đến nỗi mọi người đều có cảm giác người nằm trong áo quan là anh em máu mủ ruột thịt của anh ta. Với bất cứ người tù nào anh ta cũng khóc như vậy. Một lần giám thị trại gọi anh ta lên: 
- Thằng tù chết ấy là cái gì với mày mà mày khóc như cha chết vậy? 
Anh ta chấp tay khúm núm thưa: 
- Thưa cán bộ, tôi khóc vờ ấy mà. Người chết mà không có tiếng khóc tống tiễn thì vong hồn cứ lẩn quẩn trong trại. Có thể nó tìm cách làm hại cán bộ. Lúc hắn còn sống, cán bộ có thể trừng trị hắn, nhưng đây là vong hồn hắn, cán bộ muốn xích cổ, cũng không xích được.
Thằng khùng nói có lý. Giám thị trại mặc, cho nó muốn khóc bao nhiêu thì khóc. Nhưng mình không tin là anh ta khóc vờ. Lúc khóc, cả gương mặt vàng úa, nhăn nhúm của anh ta chan hòa nước mắt. Cả thân hình gầy guộc của anh ta run rẩy. Mình có cảm giác cả cái mớ giẻ rách khoác trên người anh ta cũng khóc… Trong tiếng khóc và nước mắt của anh ta chan chứa một niềm thương xót khôn tả. Nghe anh ta khóc, cả những trại viên khét tiếng lỳ lợm, chai sạn, "đầu chày, đít thớt, mặt bù loong" cũng phải rơm rớm nước mắt. Chỉ có nỗi đau đớn chân thật mới có khả năng xuyên thẳng vào trái tim người. Mình thường nghĩ ngợi rất nhiều về anh ta. Con người này là ai vậy? Một thằng khùng hay người có mối từ tâm lớn lao của bậc đại hiền?… 
Thế rồi, một lần, mình và anh ta cùng đi lùa trâu xuống con sông gần trại cho dầm nước. Trời nóng như dội lửa. Bãi sông đầy cát và sỏi bị nóng rang bỏng như than đỏ. Trên bãi sông mọc độc một cây mủng già gốc sần sùi tán lá xác xơ trải một mảng bóng râm bằng chiếc chiếu cá nhân xuống cát và sỏi. Người lính gác ngồi trên bờ sông dốc đứng, ôm súng trú nắng dưới một lùm cây. Anh ta và mình phải ngồi trú nắng dưới gốc cây mủng, canh đàn trâu ngụp lặn dưới sông. Vì mảng bóng râm quá hẹp nên hai người gần sát lưng nhau. Anh ta bỗng lên tiếng trước, hỏi mà đầu không quay lại: 
- Anh Tuân này - không rõ anh ta biết tên mình lúc nào - sống ở đây anh thèm cái gì nhất? 
- Thèm được đọc sách - mình buột miệng trả lời, và chợt nghĩ, có lẽ anh ta chưa thấy một cuốn sách bao giờ, có thể anh ta cũng không biết đọc biết viết cũng nên. 
- Nếu bây giờ có sách thì anh thích đọc ai? - anh ta hỏi. 
- Voltaire! - một lần nữa mình lại buột miệng. Và lại nghĩ: Nói với anh ta về Voltaire thì cũng chẳng khác gì nói với gốc cây mủng mà mình đang ngồi dựa lưng. Nhưng nhu cầu được chuyện trò bộc bạch với con người nó cũng lớn như nhu cầu được ăn, được uống… Nhiều lúc chẳng cần biết có ai nghe mình, hiểu mình hay không. Đó chính là tâm trạng của anh công chức nát rượu Marmeladov bất chợt nói to lên những điều tủi hổ nung nấu trong lòng với những người vớ vẩn trong một quán rượu tồi tàn, mà Dostoievsky miêu tả trong “Tội ác và Trừng phạt”.
Anh ta ngồi bó gối, mắt không rời mặt sông loá nắng, hỏi lại: 
- Trong các tác phẩm của Voltaire, anh thích nhất tác phẩm nào? 
Mình sửng sốt nhìn anh ta, và tự nhiên trong đầu nảy ra một ý nghĩ kỳ lạ: một người nào khác đã ngồi thay vào chỗ anh ta… Mình lại liên tưởng đến một cậu làm việc cùng phòng hồi còn ở Đài phát thanh, tốt nghiệp đại học hẳn hoi, đọc tên nhạc sĩ Chopin (Sôpanh) là Cho Pin. 
Mình trả lời anh ta: 
- Tôi thích nhất là Candide. 
- Anh có thích đọc Candide ngay bây giờ không? 
Không đợi mình trả lời, anh ta nói tiếp: 
- Không phải đọc mà nghe… Tôi sẽ đọc cho anh nghe ngay bây giờ.
Rồi anh ta cất giọng đều đều đọc nguyên bản Candide. Anh đọc chậm rãi, phát âm chuẩn và hay như mấy cha cố người Pháp, thầy dạy mình ở trường Providence. Mình trân trân nhìn cái miệng rúm ró, răng vàng khè đầy bựa của anh ta như nhìn phép lạ. Còn anh ta, mắt vẫn không rời dòng sông loá nắng, tưởng chừng như anh ta đang đọc thiên truyện Candide nguyên bản được chép lên mặt sông…
Anh đọc đến câu cuối cùng thì kẻng ở trại cũng vang lên từng hồi, báo đến giờ lùa trâu về trại. Người lính gác trên bờ cao nói vọng xuống: "Hai đứa xuống lùa trâu, nhanh lên!". 
- Chúng mình lùa trâu lên bờ đi! - anh nói. 
Lội ra đến giữa sông, mình hỏi anh ta: 
- Anh là ai vậy? 
Anh ta cỡi lên lưng một con trâu, vừa vung roi xua những con trâu khác, trả lời: 
- Tôi là cái thanh ngang trên cây thập tự đóng đinh Chúa. 
Rồi anh ta tiếp: 
- Đừng nói với bất cứ ai chuyện vừa rồi… 
Giáp mặt người lính canh, bộ mặt anh ta thay đổi hẳn - ngu ngơ, đần độn như thường ngày.
Cuối mùa đông năm đó, anh ta ngã bệnh. Nghe các trại viên kháo nhau mình mới biết. 
Thằng chuyên gia khâm liệm e đi đong. Thế là nếu bọn mình ngoẻo, sẽ không còn được khâm liệm tử tế và chẳng có ai khóc tống tiễn vong hồn… - những người tù nói, giọng buồn. 
Mình gặp giám thị trại, xin được thăm anh ta. 
Giám thị hỏi: 
- Trước kia anh có quen biết gì thằng này không? 
Mình nói: 
- Thưa cán bộ, không. Chúng tôi hay đi lùa trâu với nhau nên quen nhau thôi. 
Giám thị đồng ý cho mình đến thăm, có lính đi kèm. Anh ta nằm cách ly trong gian lán dành cho người ốm nặng. Anh ta nằm như dán người xuống sạp nằm, hai hốc mắt sâu trũng, nhắm nghiền, chốc chốc lại lên cơn co giật…
Mình cúi xuống sát người anh ta, gọi hai ba lần, anh ta mới mở mắt, chăm chăm nhìn mình. Trên khoé môi rúm ró như thoáng một nét cười. Nước mắt mình tự nhiên trào ra rơi lã chã xuống mặt anh ta. Anh ta thè luỡi liếm mấy giọt nước mắt rớt trúng vành môi. Anh ta thều thào nói: 
- Tuân ở lại, mình đi đây… Đưa bàn tay đây cho mình…
Anh ta nắm chặt bàn tay mình hồi lâu. Một tay anh ta rờ rẫm mớ giẻ rách khoác trên người, lấy ra một viên than củi, được mài tròn nhẵn như viên phấn viết. Với một sức cố gắng phi thường, anh ta dùng viên than viết vào lòng bàn tay mình một chữ nho. Chữ NHẪN. 
Viết xong, anh ta hoàn toàn kiệt sức, đánh rớt viên than, và lên cơn co giật.
Người lính canh dẫn mình lên giám thị trại với bàn tay có viết chữ Nhẫn ngửa ra. Người lính canh ngờ rằng đó là một ám hiệu. 
Giám thị hỏi: 
- Cái hình nguệch ngoạc này có ý nghĩa gì? Anh mà không thành khẩn khai báo, tôi tống cổ anh ngay lập tức vào biệt giam. 
Mình nói: 
- Thưa cán bộ, thật tình tôi không rõ. Anh ta chỉ nói: tôi vẽ tặng cậu một đạo bùa để xua đuổi bệnh tật và tà khí. 
Nghe ra cũng có lý, giám thị trại tha cho mình về lán…
Phùng Quán 

Thứ Hai, 14 tháng 1, 2013

AI NGHE CON HÁT MẸ ƠI ?


Chúng tôi đang chuẩn bị cho ra một album nhạc chủ đề :
Về thăm mẹ.
Khi mẹ  còn ở bên, con gái ngu ngơ, thờ ơ, mải lo kế sinh nhai, 
lúc nhìn lại mồ côi mẹ mất rồi.
Giờ nhớ mẹ ra nghĩa trang mà thăm với viếng.
Ấy mới làm thơ.
Thơ là “Khi mẹ còn đó con nào hay, gói bao chuyện riêng chưa tỏ bày…
Ngày mẹ đi mây trời tím, gió trời than, cọng cỏ buồn, mưa hờn dỗi, đại loại là buồn. Bấy giờ, con gái mới buột ra thơ. Nhiều khi nó lẩm nhẩm một mình, đôi khi nó đọc lên cho bạn bè nghe ké, cảm ké, sụt sịt ké. Có kẻ còn mẹ, cầm nhánh hồng đỏ nghe thơ nó, tình cảm cũng ướt rượt nghẹn ngào.
Dĩ nhiên, bởi ai chẳng có mẹ và ai chẳng có mẹ  đi xa hoặc sẽ rời xa mình! Cho nên thơ về mẹ luôn thành công trong sứ mạng lấy nước mắt từ trong các túi lệ ra một cách dễ dàng. Thơ về mẹ giống như thơ về quê, cứ thật thà chất phác, đơn sơ giản dị, như con nói với mẹ, lúc ật ưỡng nhát gừng, khi nhõng nhẽo mè nheo, bởi con biết, gì đi nữa thì mẹ vẫn luôn yêu con. Và thế là thơ con gái của mẹ đã cảm động được lòng người.
Nó bảo chồng nó chê thơ nó là thơ... thẩn. 
Con nó bảo mẹ sắp thành nhà thơ thực thụ rồi, vì đọc thơ mẹ không hiểu gì cả.
Ngay nó, nó còn bảo ra xi-đi tặng, họ hàng vứt vào xọt rác.
Thôi! Thông cảm, các nhà thơ, không điên  cũng ra rại, không ngần ngại cũng dốt việc khuyến mãi. Đã có người này người kia phổ thơ mình thành nhạc là quý hóa lắm rồi, còn gãnh gọt, làm cao. Hôm điệu nhà thơ vào phòng thu nghe ca sĩ hát thơ của nó, lúc ấy nó mới ưng. Từ xưa đến giờ, có ai can đảm nghe trọn vẹn từ đầu đến cuối một băng cát sét hay một đĩa tuyền là ngâm thơ ? Có mà não hết cả lòng a ! Phải có nhạc. Ta bảo âm nhạc ru lòng người, thơ phải được nhạc nâng cánh bay mới thẩm thấu vào tim thiên hạ. 
Thật tình mà nhận xét thì chồng nhà thơ có lý khi chỉ thoáng đọc những giòng sáu chữ- tám chữ, năm chữ - năm chữ, thậm chí những câu bảy chữ-bảy chữ là rối rồi, còn cảm nhận được đâu là hay dở.
Mình cũng thế, ai cũng thế. Đọc thơ khan rất chán, ba câu muốn rời trang giấy ngáy o. 
Lạ thật! Thơ nó không phải là hay quá lắm đâu, nhưng khi lùa mấy nốt nhạc vào thì ăn. Dễ dàng như không. Ùa cái xong bài.
Chả bù có những đại thi sĩ, thơ cao bằng giời, trúc tra trúc trắc, đậu đen đậu trắng rắc vào bắn ra lắc cắc…Chịu, không phổ nhạc được. Mình ghét mấy bài thơ hoa hòe hoa sói, câu chữ cho hay, cho siêu, cho kêu, cho mượt vào. Gại mãi chả kéo được tình vào, hỏi làm nhạc thế nào được? Nhạc phải có hồn, thơ là vía. Hồn vía không biết xã giao đầu môi.
Theo mình, về mẹ, nhạc lời ta cứ đơn sơ thật thà. 
Chỉ cần mẹ thích. Mẹ ừ là hay.
Nhưng, mẹ mất rồi !!!!!! 
Còn ai ở bên ta nghe ta nói, nghe ta ngâm, nghe ta hát nữa đâu ?
Ai nghe con hát mẹ ơi !

Chủ Nhật, 13 tháng 1, 2013

THU LỀU


AI MUỐN CHẾT


Từ thế kỷ thứ Nhất, trong thư gửi ông Ti-mô-thê, thánh Phaolô có viết câu này : ” ..đã đến giờ tôi phải ra đi”(2 Tm 4,6).
Gần hai ngàn năm sau, về cuối đời, với câu trên, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã suy nghĩ về sự chết : “ Đã đến giờ tôi phải ra đi” (2Tm 4,6). Tôi chắc là tôi sắp phải rời bỏ căn lều của tôi rồi (2 Pr 1,14). Đã tới hồi kết thúc, hồi kết thúc đã tới”.
Gần đây, linh mục An-rê Đỗ Xuân Quế,O.P. có in ra tuyển tập " Giây phút cuốn lều" ghi lại các suy niệm và các lời di chúc của một vài Vị Giáo Hoàng. Sách mở đầu bằng bài suy niệm trên của Đức Phaolô VI, với câu mở đầu vẫn là: “ Đã đến giờ…”
Đọc bài suy niệm này xong, thấy thích sự chết và nghĩ mình cũng đến lúc dọn lều, dựa vào suy niệm trên, tôi đặt bút lên giấy kẻ nhạc viết bài hát: “THU LỀU ”.Cũng bắt đầu: "Đã đến rồi, giây phút...".
Sau khi nháp bút chì xong nhạc và lời, tôi để đó vì lại có hứng viết Haiku.
Năm đoạn đủ ý.
Sau đó mới trình làng bản hát.
Ai muốn chết thì hát.
Cùng với tôi.
Cảm ơn Cơn Gió Viết Hoa đã từ hàng trăm thế kỷ, nay thổi đến cho vườn tôi một máy hoa: "Đã đến giờ...". Bài hát nói về việc chuẩn bị ra đi về thế giới bên kia, không buồn bã, lo âu, còn háo hức như tâm trạng của hướng đạo sinh, hào hứng thu lều nơi này dọn đi nơi khác.
Trong niềm tin Kytô giáo, sau khi nhổ cọc lều trọ ở trần gian tạm bợ này chúng ta hẹn nhau cắm lều ở một nơi viên mãn, muôn đời, với Ánh Sáng và Bình An của Ba Ngôi Hằng hữu. Ai muốn chết lành, xin hãy hát lời này :
Đã đến rồi, giây phút thu lều.
tôi phải ra đi , tôi phải ra đi
Đã đến hồi, đoạn cuối cuộc đời
trong niềm tin yêu tôi được an vui
Thắp sáng đèn, đai áo gọn gàng
lên đường tôi đi, lên đường tôi đi
Tiếc nuối gì một thoáng hão huyền
nhân loại bon chen, thế sự hư vinh
Suốt cõi đời, Ơn Chúa không rời
Người ở trong tôi, Chúa hằng yêu tôi
Phút cám tạ, lần cuối dâng lời
Thiên đường mơ tới chẳng còn xa xôi.
Bên Chúa tôi
Dũng lực Chúa phù trì
tôi được mạnh mẽ
hiên ngang bước đi
Trong Chúa tôi
với tình yêu của Người
tôi được cứu rỗi
được sống muôn đời.
NHT.

Thứ Bảy, 12 tháng 1, 2013

THU LỀU ( Haiku)




Đã đến rồi giây phút
thu lều tôi chuẩn bị  ra đi
chặng cuối có buồn vui

Đai lưng cho gọn gàng
đèn sáng luôn nhé em nhé em
nụ cười tươi đường đi

Ơn phúc luôn ngập tràn
Chúa độ lượng dủ thương con cái
lều ơi đâu thiên đàng

Chúa bao la dũng lực
hiên ngang mạnh mẽ ở ngay bên
bốn chân lều vững chãi

Chúa đầy trời xót thương 
khoan dung nhân hậu từ sâu thẳm
mái tranh ủ mộng lành

                                                                                                                NHT. 

Thứ Tư, 9 tháng 1, 2013

MÌNH KHÔNG PHẢI CA SĨ


Sau khi nghe và hát sơ ở nhà một sáng tác mới với bản phối  do studio cung cấp, tôi hào hứng bước vào phòng thu âm .
Nghĩ tới lúc hoàn thành đĩa hát, thật thú vị biết bao khi nghe được giọng hát của mình diễn tả chính bài hát do mình sáng tác, một đứa con mình đã mang nặng đẻ đau bao ngày tháng. Người ta bảo bao lâu một tác phẩm âm nhạc chưa được thể hiện ra bằng sự trình tấu hoặc được hát bằng giọng người, bấy lâu nó vẫn chỉ là những tờ giấy không hơn không kém. Nay nhạc phẩm do tôi viết ra, được phối khí hòa âm, được thể hiện ra qua tiếng hát của chính tác giả, thử hỏi tôi còn gì hạnh phúc hơn ?
Tôi nghĩ rằng, chẳng mấy chốc, đĩa hát có giọng của tôi sẽ vang lên trong mọi gia đình, mọi nhà. Mọi người sẽ chăm chú lắng nghe, nuốt từng lời êm ái du dương vào tâm hồn họ, và họ sẽ lịm người đi, đắm say thưởng thức. Rồi họ sẽ giới thiệu cho nhau rằng cái CD ấy khá lắm, tìm nghe đi, có bài í bài nọ nghe lạ tai lắm, có giọng hát của nhạc sĩ nọ, nhạc sĩ kia đấy.
Tôi vẫn biết, nhạc sĩ không phải là ca sĩ như nhiều người vẫn lầm tưởng. Cũng như nhiều cô gái có khuôn mặt xinh như mơ nhưng khi cất tiếng hát thì giọng xấu không ngờ! Thế nhưng, hình như Trời cho tôi có được một số vốn kha khá đủ để có một giọng hát  khả quan, bởi bạn bè vẫn khen ngợi và khuyến khích nhạc sĩ tôi đi thi hát …hỏng.
Tôi hiên ngang  đứng vào vị trí ca sĩ thu âm. Lưng ngay, mắt sáng, hắng giọng một tiếng chờ máy phát ra những âm thanh đầu tiên của bản demo. Lúc ấy, tôi cảm thấy có một chút khó thở, hồi hộp. Không sao! Có lẽ tại vào phòng máy lạnh mặc hai áo hơi chật lồng ngực. Tôi hít mạnh lấy hơi và cất tiếng hát, vào đúng nhịp (nhạc sĩ mà !). Hú hồn, giọng tôi vào máy nghe trầm ấm lạ. Vừa vào tiếp câu 3 được mấy chữ  thì chuyên viên ngắt máy, bắt hát lại. Có một “âm đóng” tôi vừa phát âm không rõ. Máy móc kinh thế, đâu ra đấy! Không sao! Thì hát lại. Mình có học phát âm cho đúng bao giờ đâu, hát là hát, hát hay không bằng hay hát. Lần này chuyên viên thu âm phát hiện thêm một “âm đóng” nữa đã không được đóng đúng cách nên trại ra âm khác. Chữ “thiết” đóng không đúng nó cứ ra “thiến” có chết không cơ chứ! Công nhận, bình thường mình nào có để ý, cho đến khi hát thu âm mới thấy rõ những khuyết điểm của cái giọng mình phát ra, đặc biệt là khi hát.
Hát là phải tròn vành rõ chữ mới được. Tôi kiên nhẫn sửa chữa khuyết điểm. Thu lần thứ ba, rồi lần thứ tư, “viết” cứ ra “viến”, “tuyết” ra “tuyến”…Tại bài này có lắm âm khó hát. Ngay như ca sĩ hát hay, là bởi họ phải học thanh nhạc, phải tập luyện trày da tróc vảy, tiền rừng bạc bể, bán cả gia tài đi học hát, chứ mình thấy lời nào chẳng như nhau, nói được là hát được. Tôi lại thắc mắc: Thế những ca sĩ có cách phát âm sai đặc biệt, dở cách riêng,  phòng thu không sửa được thì cũng phải chấp nhận giọng ca trời cho đó chứ họ đâu có sửa được nhỉ? Như Phương Thanh Thanh, Lam Trường Trường, Quang Dũng Dũng, Đàm Vĩnh Vĩnh chẳng hạn! Câu trả lời:Lam Trường Trường là ngọng rồi. Thì ra vậy! Dù sao cũng không thể phủ nhận những ca sĩ ấy ngồn ngộn fan cuồng, xây biệt thự nhờ giọng hát.Tôi thì không có đến một mống fan, nhưng chẳng buồn dù chỉ 2 phút !
Nhớ lại hồi chiều, trước khi đi thu âm tôi có uống một ly nước đá. Có lẽ vì vậy mà phát âm không chuẩn. Thôi cũng dễ hiểu, không sao!
Sau hơn một giờ đồng hồ chiến đấu với những nguyên âm, phụ âm, đóng mở, giọng tôi bắt đầu  khan, khàn, khản.
Người thu âm mất kiên nhẫn, bảo không được, thôi để mai thu lại. Nghỉ để đi ăn cơm, trễ quá rồi.
Bây giờ tôi mới hé nụ cho bạn biết là lúc này tôi cũng đang đói lắm, và chính vì vậy mà càng về cuối tôi hát càng dở, sửa càng sai. Người cứ lả ra đây này. Cha thu âm vạm vỡ như vậy mà đến giờ là nó đòi ăn, đừng nói tôi.
Các bạn biết đấy, nhạc sĩ có mấy ai múp míp đâu, người lão nào lão ấy như cái que kem, như con bọ ngựa,( hi hi! bác Đặng Ngọc Ẩn í, Cao Thanh Hoàng í! ) phanh trần ra mặt tiền chắc chỉ có bộ ngực ô-mê-ga là chính chủ, làm gì có điện nước đầy đủ mà hát với rung. Tôi cũng thế thôi! Ấy vậy mà biết được tí son-phe, đời khối anh cứ phải cố rặn ra một bài để dành lấy được hai chữ “nhạc sĩ” thiên hạ tặng cho. Tôi đã nói, nhạc sư, nhạc sĩ thì ăn cái giải gì ! Mà thôi, không nói nhiều, chẳng việc gì phải phân bua vì mình không hát được. Mình đâu phải là ca sĩ nhể! Hát hay không bằng hay hát. Ta cứ hát Hoàng ạ, bác Ẩn ạ. Nhắc tí kẻo quên, nhớ đừng phát âm "màu tiếm hoa siêm" nhá, cha thu âm nó tống cổ ra khỏi phòng thu ngay lập tức đấy.
NHT phăng