#Stats1 ul{margin:0;border:0;padding:0;height:32px;background:url(//goo.gl/ZHG881) no-repeat 0 -34px} #Stats1 li{margin:10px 0;border:0;padding:0 0 0 40px;list-style-type:none} #totalComments{height:32px;background:url(//goo.gl/ZHG881) no-repeat} #totalCount{height:32px;background:url(//goo.gl/ZHG881) no-repeat 0 -68px}

Thứ Hai, 12 tháng 5, 2014

BÊN BỜ ĐẠI DƯƠNG

"GƯƠM SÚNG ĐÂU DIỆT ĐƯỢC
 NÒI GIỐNG MUÔN NĂM HIÊN NGANG"
( Lời nhạc phẩm Bên bờ Đại Dương của Hòang Trọng)

ht.
 Chân thành Cám ơn Bạn nhạc sĩ LINH CHI đã cung cấp link nguồn chương trình BÊN BỜ ĐẠI DƯƠNG rất quý báu này :

Chủ Nhật, 11 tháng 5, 2014

NGHE MƯA NHỚ MẸ



MỘT LỜI KINH NGUYỆN

Mến tặng Bạn 
một bản nhạc
 phổ thơ Buồn 
trong ngày của Mẹ.

NHỚ CƠN MƯA PHÙN


NHỚ CƠN MƯA PHÙN
Hôm nay trời đổ mưa phùn
Từng hạt lấm tấm như hun mặt người
Cây đùa với gió lả lơi
Êm êm nghe tiếng ru hời Mẹ ru
Muôn hoa đua nở đầu mùa
Đỏ, vàng, xanh, trắng.... tha hồ nhả hương
Bay trong làn khói Thiên Đường
Rung lên nhịp điệu.... nhớ thương Mẹ hiền
Kẽo kẹt tiếng võng ngoài hiên
Quyện trong mưa phún liên miên những tình
Tình của Mẹ, tình hy sinh!...
Tình ơi!... cao quí vì mình hiến dâng
Chị Em, Cha Mẹ đã từng....
Rải trong trời đất... nhiễu gần giọt mưa!...
ThyThy
NY, May 09, 2014

 

BẾN BỜ SƯƠNG GIÓ
Đời có gì... mà Mẹ nhìn chăm chú
Tóc bạc màu vì trải đủ gió sương
Răng chẳng còn bởi nghiền nát đau thương
Chân khấp khểnh mang thêm buồn gậy chống

Nơi xa đó trong khung trời lồng lộng
Mẹ thấy gì giữa biển rộng mênh mông
Sóng cuộn nhau tỏa tình yêu mặn nồng
Hay bọt trắng như bạc lòng phơi trải

Mẹ thấy gì nơi núi rừng hoang dại
Bầy thú cuồng đang vội hại xé nhau
Hay cỏ cây đau đớn vì nát nhàu
Thương mầm sống giãi dầu trong nỗi chết

Mẹ thở dài trút đi sự hơn thiệt
Từng tuổi đời ngồi ngắm cảnh nát tan
Rồi mai đây Mẹ về cõi yên hàn
Thương cho người khóc than còn sót lại...

Quê Hương ơi!... Đất Việt sao khốn mãi...

ThyThy

TÌNH HÌNH BIỂN ĐÔNG


TOÀN DÂN NGHE CHĂNG !
SƠN HÀ NGUY BIẾN !

Xin click vào bản văn để đọc được những chữ bị che lấp. Xin cám ơn.

Thứ Sáu, 9 tháng 5, 2014

MẶT TRỜI


Khi nhìn tấm ảnh của Malek Hammoud Tuwaijri đăng lên mạng, mình có ý tưởng thú vị về mặt trời.Người Nhật khéo chọn biểu tượng cho Tổ Quốc họ, mình có cảm tưởng tinh thần Nhật Bản luơn được hướng thiện, được nâng cao nhờ biểu tượng họ đã chọn. 
Nhớ lại một buổi dã ngọai nào đó, ta ra bãi biển Vũng Tàu, sáng sớm ngắm mặt trời lên, bạn ngửa mặt, xòe bàn tay đón nắng mai, thấy trong lòng cởi mở, sảng khóai, như có nguồn động lực nâng tâm hồn lên. 
Lũ trẻ chơi đùa ngòai bãi thì không, chúng chỉ cúi đầu vọc cát, đắp tượng, xây nhà. 
Các cháu nhỏ nhà mình cuống quýt bám chân người lớn để tránh những đợt sóng biển  nhỏ bé ập vào chân và chúng chỉ dám ra sâu hơn một chút xíu khi chúng đã được ở trên tay người thân bế ẵm.
Người lớn tất khác.
Sau những gian nan bập bềnh lặn ngụp trong đau khổ vô thường, người lớn tất khác.
Người lớn ra biển, ào xuống nước, ngâm mình trong nước, bơi lội, dìm đầu, dang tay nằm ngửa trên mặt biển, trong biển, với biển và thấm biển vào mình. Dưới ánh mặt trời.
Những dịp như thế, bạn cùng tôi thinh lặng, trầm ngâm ngắm mặt trời xem. 
Đưa bàn tay ra, nâng mặt trời lên.
Dang hai cánh tay ra ôm lấy mặt trời.
Chắp tay lại hướng về phía Đông nơi mặt trời mới mọc, từ đỏ chói chuyển dần sang  cam, vàng và chói lói, nóng hực .
Tất cả mọi người chúng ta đều cùng được hưởng những giây phút quý báu như thế, nếu bạn muốn. Vậy trong lúc ấy, bạn nghĩ gì ?
Mình thì luôn nhớ đến Lời :
“Thiên Chúa cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5,45).
Bạn biết không, lúc ấy mình thấy lòng Nhân Từ Chúa còn huy hòang, chói lọi hơn mặt trời nhiều, mắt trần chịu không nổi, nên dù có biết câu Kinh Thánh đó, tôi và bạn đều không nhìn thấy nhau, bởi chúng ta đều mình thịt mắt trần. 
Lạy Chúa, xin bóc vảy nơi mắt chúng con như Chúa đã làm cho thánh Phaolô nhận biết Chúa..
ht.



Thứ Năm, 8 tháng 5, 2014

KHÉO GỢI LÒNG NHÂN


ht. Người đời nay chuộng làm lớn để kiếm chác, dành giựt lợi danh, có khi ra đê hèn ngu si. Gẫm lại gương Án Tử xưa làm quan khéo khơi gợi được lòng nhân ái của vua, thật giỏi, thật hay! Cũng may Cảnh Công còn có lương tri .


KHÉO CAN ÐƯỢC VUA
Vua Cảnh Công nước Tề có con ngựa quý, giao cho một người chăn nuôi . Con ngựa tự nhiên một hôm lăn ra chết . Vua giận lắm, cho là giết ngựa, sai ngay quân cầm dao để phanh thây người nuôi ngựa . Án Tử đang ngồi chầu, thấy thế ngăn lại, hỏi vua rằng: "Vua Nghiêu, vua Thuấn xưa phanh thây người thì bắt đầu từ đâu trước ?"
Cảnh Công ngơ ngác nhìn nói: "Thôi hãy buông ra, đem giam xuống ngục để trị tội ."
Án Tử nói rằng: "Tên phạm này chưa biết rõ tội mà phải chịu chết, thì vẫn tưởng là oan . Tôi xin vì vua kể rõ tội nó, rồi hãy hạ ngục ."
Vua nói: "Phải"
Án Tử bèn kể tội rằng: "Nhà ngươi có ba tội đáng chết . Vua sai nuôi ngựa mà để ngựa chết là một tội đáng chết . Lại để chết con ngựa rất quý của vua, là hai tội đáng chết . Ðể vua mang tiếng, vì một con ngựa mà giết chết một mạng người, làm cho trăm họ nghe thấy ai cũng oán vua, các nước nghe thấy ai cũng khinh vua, ngươi làm chết một con ngựa mà để đến nỗi dân gian đem lòng oán giận, nước ngoài có bụng dòm dỏ, là ba tội đáng chết, ngươi đã biết chưa ? Bây giờ hãy tạm giam ngươi vào ngục ..."
Cảnh Công nghe nói ngậm ngùi than rằng : "Thôi, tha cho nó ! Thôi, tha cho nó ! Kẻo để ta mang tiếng bất nhân ."

Án Tử Xuân Thu
(Trích Cổ Học Tinh Hoa)

Thứ Năm, 1 tháng 5, 2014

BÀI THÁNH CA PHỤNG VỤ

Ban Hợp Xướng PIO X
ht. Khi ngồi Cafe Ca Đòan, nhiều lần mình nghe các bạn đặt ra những câu hỏi như : Những yếu tố nào  phân biệt một bài hát Đạo với một bài hát đời ? Hoặc, làm thế nào để nhận ra một bài Thánh ca khác với một bản tình ca ?Hoặc, than ôi, sao nghe bài này giống nhạc đời vậy, đây là Thánh ca đó sao ?
Xin mời các bạn tham khảo bài viết sau đây để thấy rằng rất dễ dàng để nhận ra đâu là một bài hát được nhạc sĩ sáng tác để Ca Tụng Thiên Chúa và các bậc Thánh nhân Công Giáo mà chúng ta vẫn gọi là  THÁNH CA  PHỤNG VỤ đấy. 
Chân thành cám ơn Nhạc Sĩ Antôn TIẾN LINH đã dành nhiều thời gian quý báu để viết cho mảnh vườn nhỏ ht. tác phẩm nghiên cứu về Thánh Ca Phụng vụ đáng trân trọng này. Trong thời buổi dường như Thánh Ca đang bị lạm phát, đến nỗi người ta có thể nói đùa rằng ra đường gặp nhạc sĩ Công giáo, thiết nghĩ, bài viết mang tính chuẩn mực nghiêm chỉnh sau đây của Nhạc Sĩ Antôn Tiến Linh cần thiết lắm thay ! :
BÀI THÁNH CA PHỤNG VỤ

Antôn TIẾN LINH
1. Trước hết, ta phải hiểu rằng Thánh nhạc là thành phần của Phụng vụ và phải theo những quy luật của Phụng vụ. Giữa Thánh nhạc và Phụng vụ có sự liên kết mật thiết không thể tách rời. Có thể nói, Thánh nhạc là hiền thê của Phụng vụ. Quả vậy, ai trong chúng ta cũng đều nhận thấy việc đàn hát trong Phụng vụ Thánh lễ tại các nhà thờ luôn là việc quan trọng và cần thiết. Nói đến đây, chúng ta phải giải nghĩa thế nào là Phụng vụ, thế nào là Thánh nhạc, rồi thêm vài ví dụ dẫn chứng… nó sẽ trở nên dài dòng không cần thiết, nên trong bài viết này, chúng tôi chỉ xin nói đến vài vấn đề của bài thánh ca Phụng vụ mà thôi
2. Khi học về lịch sử Phụng vụ, chúng ta thấy Phụng vụ Rô-ma khởi đi từ Phụng vụ Do thái. Trong bất cứ lễ nghi nào, Phụng vụ Do Thái cũng có phần Phụng vụ Lời Chúa, và cốt yếu ở ba việc:
-Một chức sắc đọc bài Kinh Thánh: Cựu ước, Tân ước, phù hợp với lễ ngày hôm đó, kèm theo lời giải thích khuyên răn của vị chủ tế.
-Cộng đồng tín hữu cùng nhau hát Thánh vịnh thích hợp xen kẽ vào các bài đọc.
-Sau cùng chủ tế thay mặt cộng đồng dâng lên Chúa lời nguyện xin ơn, tạ ơn…
3. Cho tới bây giờ, bất cứ lễ nghi nào của Phụng vụ Rô-ma như lễ truyền chức thánh, lễ an táng, lễ hôn phối… cũng đều có phần Phụng vụ Lời Chúa bao gồm ba yếu tố như vừa nói trên. Xem đó ta có thể nói được rằng, cốt yếu của việc ca hát trong Phụng vụ Rô-ma là hát Thánh vịnh, tiếng La tinh gọi là Psallere, người Pháp gọi là Psalmodier. 
4. Hát Thánh vịnh là đọc những câu Thánh vịnh bằng bằng theo một dấu nhạc nào đó, theo nguyên tắc là mở đầu câu Thánh vịnh thì lên giọng, vươn lên đến dấu nhạc trụ, cuối câu Thánh vịnh thì xuống giọng, nên trong môn học về các hình thể Thánh nhạc mới có câu nói rằng hát Thánh vịnh là hát mà không phải là hát, đọc nhưng không phải là đọc. Vì thế cũng có tác giả cho rằng muốn nói cho đúng nghĩa tiếng Việt thì ta phải gọi là Tụng kinh, vì vấn đề thuộc phạm vi giáo khoa cùng với một số luật trừ nên chúng tôi không thể giải thích hết trong bài viết này.
5. Từ xa xưa, thông thường khi người ta nói đến hát Thánh vịnh thì ai cũng hiểu là hát Thánh vịnh theo Bình ca (Cantus planus), mà hát Thánh vịnh theo Bình ca thì có rất nhiều cung điệu, chúng tôi không thể nêu ra hết các cung điệu ấy trong bài viết này mà có thể tạm nói rằng, các cung điệu ấy căn bản được dựa trên bốn Modus của Bình ca là Modus Protus, Modus Deuterus, Modus Tritus và Modus Tetrardus. Có những cung đơn giản và những cung hoa mỹ, có những cung thường và những cung trọng thể, nhưng tất cả phải dựa vào một kiểu cách như đã nói ở số 4. Sau đây là ví dụ 8 cung thường của Bình ca dùng để hát Thánh vịnh:


 6. Sau này trong nghi lễ có thêm phần Phụng vụ thánh thể, nên việc ca hát có thêm phần đa dạng và phong phú hơn, nghi thức cử hành thêm phần long trọng, sinh động và trang nghiêm…
Thế nào là bài thánh ca Phụng vụ?
7. Khi ta nói bài thánh ca Phụng vụ thì phải hiểu là bài thánh ca đó được phép sử dụng trong Phụng vụ, hay nói cách khác là các bài hát hoặc bài đàn được dùng trong thánh lễ của Hội thánh Công giáo. Nói rõ ràng hơn, các bài hát bài đàn này phải được sử dụng đúng vị trí của động tác Phụng vụ trong nghi lễ của Hội thánh, ví dụ thông thường bài hát đáp ca thì phải dùng sau bài đọc thứ nhất, bài hát dâng lễ thì phải dùng lúc vị chủ tế dâng bánh rượu… Còn nếu một bài thánh ca mà xét thấy không phù hợp với một vị trí tác động của Phụng vụ thì bài thánh ca ấy không phải là thánh ca Phụng vụ, ví dụ như các bài ca được dệt nhạc trên một số bản kinh được đọc nơi chốn gia đình hoặc dùng để đọc trong các buổi hội họp khác mang tính đạo đức, hay những bài ca được sáng tác với mục đích giáo dục đức tin…
8. Vậy khi ta nói đến bài thánh ca Phụng vụ thì việc trước hết ta phải tìm hiểu xem thánh ca Phụng vụ gồm có những loại bài gì, hoặc là những tác động Phụng vụ trong nghi lễ Công giáo đã được Hội thánh chỉ dạy phải dùng những bài thánh ca gì và thuộc loại nào cho xứng hợp…
9. Từ rất lâu rồi, trong các nghi thức thánh lễ được cử hành tại Giáo đô Rô-ma, người ta chỉ dùng các sách hát như Graduale Romanum, Graduale Simplex, Liber Usualis, và được coi là các sách hát chính thức của Hội thánh Công giáo toàn cầu, từ đó ta thấy Thánh nhạc trong Phụng vụ thì có các bài ca mang:
- Hình thể Cung Đọc (Tonus) được chia thành hai loại: cung sách, dùng để hát những bài Thánh thư, Tin Mừng... kể cả bài Thương khó. Cung nguyện, dùng để hát những lời nguyện trong thánh lễ, hay trong các lễ nghi Phụng vụ khác, kể cả kinh Lạy Cha và kinh Tiền tụng...
- Hình thể Đáp ca (Responsorium) dùng hát đáp ca sau bài đọc 1.
- Hình thể Đối ca (Antiphona) dùng cho nhập lễ, dâng lễ và hiệp lễ.
- Hình thể Vịnh ca (Hymnus) cho các bài ca chúc tụng.
- Hình thể Bộ lễ (Missa) cho các kinh Xin Chúa thương xót, Vinh danh, Tin kính, Thánh! Thánh! Thánh!, Lạy Chiên Thiên Chúa, kể cả bộ lễ cầu cho người quá cố.
- Hình thể Tụng kinh (Psalmodium) dùng cho tất cả các loại trên mà bình ca (cantus planus) là mẫu mực.
10. Ngoài ra còn có các hình thể khác như Alleluiaticus dùng để hát sau bài đọc 2, và Sequentia (thường gọi là Ca tiếp liên) hát nối tiếp với Alleluiaticus. Mỗi hình thể đều có chỗ đứng của nó, đã được Giáo hội nghiên cứu, tiên liệu và chỉ dạy. Các yếu tố để một bài ca mang hình thể âm nhạc này hay hình thể âm nhạc kia thuộc phạm vi giáo khoa nên chúng tôi không trình bày ở đây.
11. Đối với Hội thánh Công giáo tại VN hiện nay, trong các nghi thức thánh lễ có phần đơn giản hơn so với các nghi lễ tại Giáo đô Rô-ma, và phần Phụng vụ Thánh nhạc theo đó cũng có phần uyển chuyển do các văn bản cho phép dùng để thay thế tại các Giáo hội địa phương… Tuy nhiên, những điều được nêu lên ở trên vẫn là chuẩn mực, là đúng đắn, là nghiễm nhiên xứng đáng với vị trí của nó và được thừa nhận trong Hội thánh; còn những gì dùng để tạm thay thế thì ta phải xem xét lại và cân nhắc với một vài chuẩn mực được đặt ra trước khi sử dụng, từ đó sinh ra vấn đề kiểm duyệt.
12. Thiết tưởng cũng cần nhắc lại, mục đích thật của Thánh nhạc là tôn vinh Thiên Chúa và thánh hóa các tín hữu (Hiến chế Phụng vụ, số 112) nên “Huấn thị về âm nhạc trong Phụng vụ” được ban hành ngày 05.3.1967 đã chỉ dạy, khoản 4a: Thánh nhạc là loại âm nhạc được sáng tác để thờ phượng Thiên Chúa nên phải biểu lộ sự thánh thiện (Sanctitas) và diễn tả được hình thức nghệ thuật cao (Bonitas formae).
13. Ta có thể diễn giải rõ ràng hơn như sau, các tác phẩm Thánh nhạc nói chung: 
a; Phải biểu lộ được sự thánh thiện trong lời ca, nghĩa là lời ca phải hợp với giáo lý Công giáo, và tốt hơn là rút ra từ Kinh Thánh và các nguồn Phụng vụ (HCPV, số 121). 
b; Phải biểu lộ được sự thánh thiện trong âm nhạc, thánh thiện do việc sử dụng cung điệu trang nghiêm phù hợp với vẻ tôn nghiêm của nơi thánh, phù hợp với vị trí của Phụng vụ, đặc biệt cung điệu càng giống Bình ca bao nhiêu thì tốt bấy nhiêu, tránh tuyệt đối những cung điệu tuồng kịch nhuốm màu lãng mạn trần tục…(Huấn thị “Để thi hành Hiến chế Phụng vụ” ra ngày 05.11.1970, số 3).
c; Phải biểu lộ được sự thánh thiện đi sát với Phụng vụ, “Thánh nhạc càng liên kết chặt chẽ với động tác Phụng vụ bao nhiêu thì càng thánh bấy nhiêu” (HCPV, số 112). Như vậy phải dành ưu tiên cho những bài hát Thánh vịnh mà Hội thánh đã chỉ định từng phần cho mỗi lễ nghi Phụng vụ được in trong sách Graduale Romanum và Graduale Simplex (Qui chế tổng quát sách lễ Rô-ma, số 22, 26, 36, 56i). Hai cuốn sách hát này đã cung cấp cho ta đầy đủ bản văn Thánh vịnh bằng La ngữ, mỗi bài ca được được viết với một hình thể âm nhạc xứng hợp để hát vào lúc nhập lễ, đáp ca, alleluia, dâng lễ và hiệp lễ cho tất cả các ngày lễ và mùa lễ của năm Phụng vụ Rô-ma.
d; Phải biểu lộ được sự hoàn mỹ trong hình thức nghệ thuật cao (Bonitas formae), nghĩa là bài ca phải có cấu trúc, có trật tự, có hình thể hẳn hoi để đem lại một giá trị nhất định khi sử dụng trong Phụng vụ. Như khi đọc hai cuốn sách hát trên ta thấy những tác động Phụng vụ trong thánh lễ mang tính nghi thức kiệu rước thì dùng những bài hát mang hình thể đối ca, nói cho đủ là đối ca với Thánh vịnh của nó (Antiphona cum psalmo suo), dùng ở ca nhập lễ, ca dâng lễ và ca hiệp lễ. Sau bài đọc thứ nhất thì phải hát Thánh vịnh đáp ca (Psalmo Responsorium) theo đúng bản văn Thánh vịnh của ngày lễ hôm đó, nói một cách đầy đủ theo Việt ngữ là bài hát Thánh vịnh mang hình thể đáp ca (Responsorius) chứ không phải là một bài hát Thánh vịnh (hoặc ý Thánh vịnh) mang hình thể ca khúc (Canticum) mà chúng ta thấy khá phổ biến như hiện nay.
e; Phải biểu lộ được sự hoàn mỹ trong hình thức nghệ thuật cao, cũng có nghĩa là về âm nhạc phải đúng các qui tắc khách quan của kỹ thuật sáng tác, hòa âm, đối âm… chứ không phải do những mực thước hay quan điểm về nghệ thuật của cá nhân mình đề ra mà bỏ qua các qui tắc này.
f; Phải biểu lộ được sự hoàn mỹ trong hình thức nghệ thuật cao, cũng có nghĩa là về lời ca, ưu tiên trước hết phải là lời Thánh vịnh; hay ý tưởng lời ca bắt nguồn từ Thánh Kinh, khi vận dụng làm ca từ cho bài hát phải đúng luật văn phạm và ngôn ngữ. Tuy vậy, phải loại bỏ những lời ca trống rỗng hoặc vô nghĩa, hay những lời ca không thể diễn tả được chân lý trong đạo như Đức Pi-ô XII có viết trong thông điệp Mediator Dei, số 74: “Phải nghiêm chỉnh gọt giũa các tác phẩm nghệ thuật cho xứng với danh hiệu của chúng”
14. Như vậy, ta có thể trả lời câu hỏi thế nào là bài thánh ca Phụng vụ như thế này, trước hết tác giả của bài thánh ca đó phải là một Ki-tô hữu đích thực (Thông điệp “Kỷ luật về Thánh nhạc” số 24 và 25), bài thánh ca đó phải được tác giả có ý sáng tác để dùng trong Phụng vụ (Thông điệp KLTN số 18,19,20,21) và phải được gắn liền với một trong số các hình thể âm nhạc Phụng vụ được đề cập ở trên. Còn về lời ca phải đúng với bản văn của Sách Lễ Rô-ma hoặc các bản văn của các sách hát chính thức của Giáo đô Rô-ma như đã nói trên.
15. Nói đến đây chúng ta sẽ cảm thấy như để có một bài thánh ca Phụng vụ theo đúng nghĩa của nó có vẻ khó khăn và hạn chế với nhiều ràng buộc. Quả thật như vậy, nhưng không hoàn toàn như thế nếu mỗi nhạc sĩ Thánh nhạc được học hành một cách nghiêm túc và có bài bản. Từ sự thông hiểu về giáo lý Công giáo và kiến thức âm nhạc, mỗi nhạc sĩ sẽ khám phá được những điều phù hợp trong sáng tác.
Bài thánh ca loại nào mới phải được kiểm duyệt hoặc không cần phải kiểm duyệt trước khi sử dụng trong Phụng vụ?
16. Ta biết rằng những bài hát mà ta gọi là đối ca nhập lễ và đối ca hiệp lễ (phải được hiểu là đối ca với Thánh vịnh của nó) được ghi trong sách Graduale Romanum hoặc Graduale Simplex luôn là sự chọn lựa trước hết. Theo QCTQ sách lễ Rô-ma, khoản số 26 và 56i thì cho phép “… dùng bản hát nào khác phù hợp với cử hành Phụng vụ, với tính chất của ngày lễ hay mùa Phụng vụ. Bản văn bài hát này phải được Hội đồng Giám mục chuẩn nhận”. Nghĩa là nếu dùng bản văn khác với bản văn được ghi trong 2 cuốn sách trên thì buộc lòng phải được kiểm duyệt trước khi đem ra sử dụng.
17. Đối với Huấn thị về Âm nhạc trong Phụng vụ, xem ra có phần dễ dãi hơn với khoản 32 ghi rằng: “Tại một vài nơi được đặc quyền, người ta thường dùng những bài hát khác thay thế các bài ca nhập lễ, tiến lễ và hiệp lễ trong sách Graduale. Có thể giữ như thế tùy phán quyết của Đấng bản quyền địa phương, miễn là những bài hát đó hợp với các phần trong thánh lễ và ngày lễ, cũng như mùa Phụng vụ. Thẩm quyền địa phương phải phê chuẩn lời ca những bài hát đó”. Đối với Thánh nhạc Việt Nam thì hầu hết các bài ca thay thế đều là những ca khúc.
18. Về ca khúc, trước đây người ta nói một cách đầy đủ là “ca khúc bình dân tôn giáo” bởi chữ Canticum populares religiosi, sau này Hiến chế Phụng vụ chỉ gọi là Cantiunculae populares (số 112). Các bài thánh ca mang hình thể ca khúc cũng được khuyến khích sáng tác, các ca khúc này làm cho đời sống Ki-tô hữu thấm nhuần tinh thần tôn giáo và nâng cao tâm hồn tín hữu, các ca khúc này phải được áp dụng theo những quy luật ở số 13-15 (Thông điệp Kỷ luật về Thánh nhạc). Nó thường chiếm vị trí riêng trong mọi dịp lễ Ki-tô giáo, nơi cộng đoàn hay tại gia đình, trong hay ngoài nhà thờ, và chỉ được sử dụng trong Lễ nghi Phụng vụ một cách đôi khi có thể chứ không phải thường xuyên như nhiều nơi đang làm. (HT. Thánh nhạc và Phụng vụ, chương 3).
Muốn được điều này các ca khúc đó phải :
- Đúng Giáo lý Công giáo
- Dùng ngôn ngữ dễ hiểu, lời lẽ không rườm rà, câu văn không trống rỗng...
- Một loại âm nhạc đơn sơ, dù vắn và dễ, cũng phải có một cái gì trang nghiêm xứng đáng.
- Được các Đấng bản quyền cẩn thận canh chừng và phê chuẩn.
19. Như vậy ta có thể nói, tất cả các bài hát thánh ca mang hình thể ca khúc đều cần phải được kiểm duyệt trước khi sử dụng trong Phụng vụ. Thông thường mỗi Giáo phận, dưới quyền Đức Giám mục sẽ có nhóm phụ trách kiểm duyệt nếu thấy không có gì ngăn trở, một vị Censor Librorum sẽ xác nhận "Nihil obstat" rồi đệ trình lên ĐGM ký phê chuẩn.
20. Những bài hát được viết trong một hình thể âm nhạc khác, ví dụ như bài hát mang hình thể đáp ca được dùng sau bài đọc một, với cung điệu dễ hát và âm nhạc tuân thủ các qui luật khách quan của nghệ thuật, còn lời ca lấy nguyên vẹn từ Thánh vịnh (không phải là ý Thánh vịnh), thì không cần phải kiểm duyệt. Bởi lẽ một tác phẩm Thánh nhạc trong đó có bản văn là Thánh vịnh được sắp đặt trong một hình thể âm nhạc rõ ràng, nghĩa là nó đã có một trật tự trong suy tính, và chắc chắn bản thân nó đã có một giá trị nhất định, chúng ta có thể sử dụng mà không cần phải thông qua Đấng bản quyền địa phương. Ví dụ bài đáp ca với Thánh vịnh 22 sau đây, lời ca được lấy nguyên vẹn từ Thánh vịnh, còn phần âm nhạc thì có cấu trúc tác phẩm đã được sắp đặt theo đúng hình thể đáp ca. Phần xướng các câu Thánh vịnh của một xướng viên được dựa theo cung hát Thánh vịnh đơn giản thứ 6 của Bình ca; vì hát Thánh vịnh theo lối Bình ca thường ngâm nga ở một dấu trụ, nhưng tiếng Việt có 5 dấu và 6 giọng nên chúng tôi phải dùng 3 dấu trụ để mong thể hiện rõ được ngữ nghĩa của ca từ. Về phần hòa âm thì không sai luật, dòng ca giới hạn trong một âm vực tầm tiếng vừa phải, nhịp điệu của câu đáp đơn giản dễ hát cho đại chúng, mọi người đều có thể hát được dễ dàng… Vậy bài Thánh vịnh đáp ca này đã hội đủ các điều kiện cần thiết nên không cần phải kiểm duyệt nữa!



21. Đối với âm nhạc: để hiểu được hình thể âm nhạc các loại buộc lòng chúng ta phải học cho biết các cách thức và lối viết bài đòi hỏi, để làm đúng những qui tắc khách quan về chuyển động móc nối của kỹ thuật hòa âm và đối âm chúng ta cũng phải học hành và thực tập cách kiên trì… chúng ta không nên dùng lý lẽ tác phẩm nghệ thuật thì tự do trong phạm trù này.
22. Đối với lời ca: tốt nhất là dùng Thánh vịnh hoặc lời ca lấy từ Kinh thánh. Không nên dùng những lời ca mang nặng tâm tình cá nhân, hoặc sáo rỗng, trần tục… cũng cần phải học hỏi nghiêm túc về Kinh thánh và Giáo lý Công giáo, kể cả thơ ca, để qua đó chúng ta vận dụng được một bản văn phù hợp với giáo lý đức tin và với hình thể âm nhạc nữa.
23. Ngay tại Vatican, tuy dưới quyền là một Hiệp hội Cecilia gồm rất đông đảo các nhạc sĩ, Ủy ban Thánh nhạc cũng chỉ có ba vị là Chủ tịch, Phó chủ tịch và tổng thư ký, nhưng đâu có bao giờ những vị này phải bận tâm đến công việc phê chuẩn hay kiểm duyệt. Hầu hết các tác phẩm sáng tác đều được Hiệp hội in ấn và sử dụng rộng rãi, bởi lẽ các nhạc sĩ này đều đã được học hành bài bản từ trường lớp hẳn hoi, nên tác phẩm của họ không bao giờ có vấn đề gì rắc rối hoặc sai phạm về âm nhạc mà phải xem xét lại. Còn lời ca thì lấy từ Thánh vịnh và các nguồn Phụng vụ trong Thánh kinh thì đâu còn gì là sai lệch.
24. Hơn nữa, việc phê chuẩn hay kiểm duyệt chính ra cũng chỉ là công việc nhận xét xem tác phẩm đó, nhất là lời ca có gì ngăn trở hoặc sai lạc với Kinh thánh và Giáo lý Công giáo không? Chứ không có chức năng chỉnh sửa tác phẩm như đã nói ở số 19. Còn hình thể âm nhạc hoặc các kỹ thuật âm nhạc thì các nhạc sĩ phải cam đoan là không được phép sai trái rồi, đó là điều mặc nhiên, nếu người nhạc sĩ được học hành tử tế và có lương tri thì đâu có thể đợi người khác vạch các lỗi sai trên tác phẩm của mình được! 

Antôn Tiến Linh 17.2.2014
---------------------------------------------------------------------
Chú thích : Ảnh trong bài trích từ nguồn :  Ban Hợp xướng PIO X.

MẸ QUÊ HƯƠNG

MẸ QUÊ HƯƠNG
Tháng Tư năm đó bỏ xa quê
Nhớ cảng chiều mưa nước đổ về
Mẹ mặt lầm lũi đi trong gió
Gọi từng hụt hững dưới đê mê
Hôm nay nhìn lại ngày mưa bão
Lòng nặng từng hạt đọng mi cao
Quê vẫn còn đó... , còn in bóng
Mà Hương vụt mất tự khi nào!...
Ôi Việt Nam... Thơ mộng biết bao!!!....
Xin đừng để Mẹ phải khóc gào...
ThyThy
NY, April 30, 2014

Thứ Tư, 30 tháng 4, 2014

CHUYỆN DI TẢN 1975



Nhà văn Tiểu Tử - hiện đang định cư tại Pháp - là một trong số rất ít những nhà văn đã ghi lại những hình ảnh này để nhớ lại một giai đoạn bi thảm trong hành trình tìm tự do. Thông tín viên Tường An trò chuyện với nhà văn Tiểu Tử và giới thiệu một vài đoản văn của ông về cuộc di tản trước ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Với lối hành văn mộc mạc của người Nam Bộ, những truyện ngắn của nhà văn Tiểu Tử luôn luôn gây xúc động cho người đọc bằng những hình ảnh rất đơn giản trong cuộc sống hàng ngày: một chiếc nón lá, một tô cháo huyết, một cái quần rách, một bản vọng cổ. Những hình ảnh rất đời thường đó, qua giọng văn của ông đã biến thành những âm điệu quê hương khơi dậy nhiều dòng nước mắt.

CHUYỆN DI TẢN 1975
Tôi không có đi di tản hồi những ngày cuối tháng tư 1975 nên không biết cảnh di tản ở Sài gòn ra làm sao. Mãi đến sau nầy, khi đã định cư ở Pháp, nhờ xem truyền hình mới biết !
Sau đây là vài cảnh đã làm tôi xúc động, xin kể lại để cùng chia xẻ…
Chuyện 1 :Cuộc di tản kinh hoàng

Ở bến tàu, thiên hạ bồng bế nhau, tay xách nách mang, kêu réo nhau ầm ĩ, hớt hơ hớt hải chạy về phía chiếc cầu thang dẫn lên bong một chiếc tàu cao nghều nghệu. Cầu thang đầy người, xô đẩy chen lấn nhau, kêu gọi nhau, gây gổ nhau… ồn ào. Trên bong tàu cũng đầy người lố nhố, giành nhau chồm lên be tàu để gọi người nhà còn kẹt dưới bến, miệng la tay quơ ra dấu chỉ trỏ… cũng ồn ào như dòng người trên cầu thang !
Giữa cầu thang, một bà già. Máy quay phim zoom ngay bà nên nhìn thấy rõ : bà mặc quần đen áo túi trắng đầu cột khăn rằn, không mang bao bị gì hết, bà đang bò nặng nhọc lên từng nấc thang. Bà không dáo dác nhìn trước ngó sau hay có cử chi tìm kiếm ai, có nghĩa là bà già đó đi một mình. Phía sau bà thiên hạ dồn lên, bị cản trởnên la ó ! Thấy vậy, một thanh niên tự động lòn lưng dưới người bà già cõng bà lên, xóc vài cái cho thăng bằng rồi trèo tiếp. 
Chuyện chỉ có vậy, nhưng sao hình ảnh đó cứ đeo theo tôi từ bao nhiêu năm, để tôi cứ phải thắc mắc : bà già đó sợ gì mà phải đi di tản ? con cháu bà đâu mà để bà đi một mình ? rồi cuộc đời của bà trong chuỗi ngày còn lại trên xứ định cư ra sao ? còn cậu thanh niên đã làm môt cử chỉ đẹp – quá đẹp – bây giờ ở đâu ?... Tôi muốn gởi đến người đó lời cám ơn chân thành của tôi, bởi vì anh ta đã cho tôi thấy cái tình người trên quê hương tôi nó vẫn là như vậyđó, cho dù ở trong một hoàn cảnh xô bồ hỗn loạn như những ngày cuối cùng của tháng tư 1975…
Chuyện 2 :Những bàn tay nhân ái


Cũng trên chiếc cầu thang dẫn lên tàu, một người đàn ông tay ôm bao đồ to trước ngực, cõng một bà già tóc bạc phếu lất phất bay theo từng cơn gió sông. Bà già ốm nhom, mặc quần đen áo bà ba màu cốt trầu, tay trái ôm cổ người đàn ông, tay mặt cầm cái nón lá. Bà nép má trái lên vai người đàn ông, mặt quay ra ngoài về phía máy quay phim. Nhờ máy zoom vào bà nên nhìn rõ nét mặt rất bình thản của bà, trái ngược hẳn với sự thất thanh sợ hãi ở chung quanh !
Lên gần đến bong tàu, bỗng bà già vuột tay làm rơi cái nón lá. Bà chồm người ra, hốt hoảng nhìn theo cái nón đang lộn qua chao lại trước khi mất hút về phía dưới. Rồi bà bật khóc thảm thiết…
Bà già đó chắc đã quyết định bỏ hết để ra đi, yên chí ra đi, vì bà mang theo một vật mà bà xem là quí giá nhứt, bởi nó quá gần gũi với cuộc đời của bà : cái nón lá ! Đến khi mất nó, có lẽ bà mới cảm nhận được rằng bà thật sự mất tất cả. Cái nón lá đã chứa đựng cả bầu trời quê hương của bà, hỏi sao bà không xót xa đau khổ ? Nghĩ như vậy nên tôi thấy thương bà già đó vô cùng.Tôi hy vọng, về sau trên xứ sở tạm dung, bà mua được một cái nón lá để mỗi lần đội lên bà sống lại với vài ba kỷ niệm nào đó, ở một góc trời nào đó của quê hương…
Chuyện 3 :Quê hương xa rồi


Cũng trên bến tàu nầy. Trong luồng người đi như chạy, một người đàn bà còn trẻ mang hai cái xắc trên vai, tay bồng một đứa nhỏ. Chắc đuối sức nên cô ta quị xuống. Thiên hạ quay đầu nhìn nhưng vẫn hối hả đi qua, còn tránh xa cô ta như tránh một chướng ngại vật nguy hiểm ! Trong sự ồn ào hỗn tạp đó, bỗng nghe tiếng được tiếng mất của người đàn bà vừa khóc la vừa làm cử chỉ cầu cứu. Đứa nhỏ trong tay cô ta ốm nhom, đầu chờ vờ mằt sâu hõm, đang lả người về một bên, tay chân xụi lơ. Người mẹ - chắc là người mẹ, bởi vì chỉ có người mẹ mới ôm đứa con quặt quẹo xấu xí như vậy để cùng đi di tản, và chỉ có người mẹ mới bất chấp cái nhìn bàng quan của thiên hạ mà khóc than thống thiết như vậy - người mẹ đó quýnh quáng ngước nhìn lên luồng người, tiếp tục van lạy cầu khẩn.
Bỗng, có hai thanh niên mang ba lô đi tới, nhìn thấy. Họ dừng lại, khom xuống hỏi. Rồi họ ngồi thụp xuống, một anh rờ đầu rờ tay vạch mắt đứa nhỏ, họ nói gì với nhau rồi nói gì với người đàn bà. Thấy cô ta trao đứa bé cho một anh thanh niên. Anh nầy bồng đứa nhỏ úp vào ngực mình rồi vén áo đưa lưng đứa nhỏ cho anh kia xem. Thằng nhỏ ốm đến nỗi cái xương sống lồi lên một đường dài…
Anh thứ hai đã lấy trong túi ra chai dầu từ lúc nào, bắt đầu thoa dầu rồi cạo gió bằng miếng thẻ bài của quân đội.
Thiên hạ vẫn rần rần hối hả đi qua. Hai thanh niên nhìn về hướng cái cầu thang, có vẻ hốt hoảng. Họ quay qua người đàn bà, nói gì đó rồi đứng lên, bồng đứa nhỏ, vừa chạy về phía cầu thang vừa cạo gió ! Người mẹ cố sức đứng lên, xiêu xiêu muốn quị xuống, vừa khóc vừa đưa tay vẫy về hướng đứa con. Một anh lính Mỹ chợt đi qua, dừng lại nhìn, rồi như hiểu ra, vội vã chạy lại đỡ người mẹ, bồng xóc lên đi nhanh nhanh theo hai chàng thanh niên, cây súng anh mang chéo trên lưng lắc la lắc lư theo từng nhịp bước….
Viết lại chuyện nầy, mặc dù đã hơn ba mươi năm, nhưng tôi vẫn cầu nguyện cho mẹ con thằng nhỏ được tai qua nạn khỏi, cầu nguyện cho hai anh thanh niên có một cuộc sống an vui tương xứng với nghĩa cử cao đẹp mà hai anh đã làm. Và dĩ nhiên, bây giờ, tôi nhìn mấy anh lính Mỹ với cái nhìn có thiện cảm !
Chuyện 4 :Những cuộc chia tay xé lòng
– Cũng trên bến tàu. Cầu thang đã được kéo lên. Trên tàu đầy người, ồn ào. Dưới bến vẫn còn đầy người và cũng ồn ào. Ở dưới nói vói lên, ở trên nói vọng xuống, và vì thấy tàu sắp rời bến nên càng quýnh quáng tranh nhau vừa ra dấu vừa la lớn, mạnh ai nấy la nên không nghe được gì rõ rệt hết !
Máy quay phim zoom vào một người đàn ông đứng tuổi đang hướng lên trên ra dấu nói gì đó. Bên cạnh ông là một thằng nhỏ cỡ chín mười tuổi, nép vào chân của ông, mặt mày ngơ ngác. Một lúc sau, người đàn ông chắp tay hướng lên trên xá xá nhiều lần như van lạy người trên tàu, gương mặt sạm nắng của ông ta có vẻ rất thành khẩn. Bỗng trên tàu thòng xuống một sợi thừng cỡ nửa cườm tay, đầu dây đong đưa. Mấy người bên dưới tranh nhau chụp. Người đàn ông nắm được, mỉm cười sung sướng, vội vã cột ngang eo ếch thằng nhỏ. Xong, ông đưa tay ra dấu cho bên trên. Thằng nhỏ được từ từ kéo lên, tòn ten dọc theo hông tàu. Nó không la không khóc, hai tay nắm chặt sợi dây, ráng nghiêng người qua một bên để cúi đầu nhìn xuống. Người đàn ông ngước nhìn theo, đưa tay ra dấu như muốn nói : « Đi, đi ! Đi, đi ! ». Rồi, mặt ông bỗng nhăn nhúm lại, ông úp mặt vào hai tay khóc ngất ! Bấy giờ, tôi đoán ông ta là cha của thằng nhỏ đang tòn ten trên kia…Không có tiếng còi tàu hụ buồn thê thiết khi lìa bến, nhưng sao tôi cũng nghe ứa nước mắt !
Không biết thằng nhỏ đó – bây giờ cũng đã trên bốn mươi tuổi -- ở đâu ? Cha con nó có gặp lại nhau không ? Nếu nó còn mạnh giỏi, tôi xin Ơn Trên xui khiến cho nó đọc được mấy dòng nầy…

Tiểu Tử

BÀI CA VỌNG CỔ

ht. Chân thành cám ơn Ly Ca Nguyen đã gửi cho mình bài này.
Nhà văn Tiểu Tử

BÀI CA VỌNG CỔ
Tiểu Tử

Tôi vượt biên một mình rồi định cư ở Pháp. Năm đó tôi mới 49 tuổi, vậy mà đi tìm việc làm, đến đâu người ta cũng chê là tôi già! Vì vậy, một hôm, khi chải tóc, tôi nhìn kỹ tôi trong gương. Tôi bỗng thấy ở đó có một người có vẻ quen nhưng thật ra thì rất lạ : mắt sâu, má hóp, mặt đầy nếp nhăn trên trán, ở đuôi mắt, ở khóe môi, mái tóc đã ngà bạc cắt tỉa thô sơ như tự tay cắt lấy. Từ bao lâu nay tôi không để ý, bây giờ soi gương vì bị chê già, tôi mới thấy rằng tôi của hồi trước “Cách mạng thành công” và tôi của bây giờ thật không giống nhau chút nào hết. Tôi già thiệt, già trước tuổi. Cho nên, tôi nhìn tôi không ra. Từ đó, mỗi ngày tôi… tập nhìn tôi một lần, nhìn kỹ, cho quen mắt !
Một người bạn làm việc lâu năm ở Côte d’Ivoire (Phi châu) hay tin tôi đã qua Pháp và vẫn còn thất nghiệp, bèn giới thiệu cho tôi Công ty Đường Mía của Nhà nước. Không biết anh ta nói thế nào mà họ nhận tôi ngay, còn gửi cho tôi vé máy bay nữa!
Xưa nay, tôi chưa từng quen một người da đen gốc Phi Châu nào hết. Và chỉ có vài khái nhiệm thô sơ về vùng Phi châu da đen như là : Ở đó nóng lắm, đất đai còn nhiều nơi hoang vu, dân chúng thì da đen thùi lùi, tối ngày chỉ thích vỗ trống, thích nhảy tưng tưng v…v…  Vì vậy, tôi hơi … ngán. Nhưng cuối cùng rồi tôi quyết định qua xứ da đen để làm việc, danh dự hơn là ở lại Pháp để tháng tháng vác mặt Việt Nam đi xin trợ cấp đầu nọ, đầu kia.
Nơi tôi làm việc tên là Borotou, một cái làng nằm cách thủ đô Abidjan gần 800km! Vùng nầy toàn là rừng là rừng. Không phải rừng rậm rì cây cao chớn chở như ở Việt Nam. Rừng ở đây cây thấp lưa thưa, thấp thấp cỡ mười, mười lăm thước… coi khô khốc. Không có núi non, chỉ có một vài đồi trũng nhưng đồi không cao và trũng, không sâu…
Nhà nước phá rừng trồng mía… Ruộng mía ngút ngàn! Nằm ở trung tâm là khu nhà máy, khu cơ giới, khu hành chánh, khu cư xá v…v… nằm cách nhau cỡ vài cây số. Muốn về thủ đổ Abidjan, phải lái xe hơi chạy theo đường mòn xuyên rừng gần ba chục cây số mới ra tới đường cái tráng nhựa.  Từ đó, chạy đi Touba, một quận nhỏ với đông đảo dân cư. Từ đây, lấy máy bay Air Afrique về Abidjan, mỗi ngày chỉ có một chuyến. Phi trường Touba nhỏ xíu, chỉ có một nhà ga xây cất sơ sài và một phi đạo làm bằng đá đỏ, mỗi lần máy bay đáp lên đáp xuống là bụi bay … đỏ trời!
Tôi hơi dài dòng ở đây để thấy tôi đi “đi làm lại cuộc đời” ở một nơi hoang vu hẻo lánh mà cảnh trí thì chẳng có gì hấp dẫn hết! Thêm vào đó, tôi là người Á Đông duy nhất làm việc chung với Tây trắng (chỉ có năm người) và Tây đen (đông vô số kể). 
Ở đây, thiên hạ gọi tôi là “le chinois” – thằng Tàu. Suốt ngày, suốt tháng tôi chỉ nói có tiếng Pháp. Cho nên, lâu lâu thèm quá, tôi soi gương rồi… nói chuyện với tôi bằng tiếng Việt, trông giống như thằng khùng! Chưa bao giờ tôi thấy tôi cô đơn bằng những lúc tôi đối diện tôi trong gương như vậy.
…. Một hôm, sau hơn tám tháng “ở rừng”, tôi được gọi về Abidjan để họp (đây là lần đầu tiên được về thủ đô!).  Anh tài xế đen đưa tôi ra Touba. Chúng tôi đến phi trường lối một giờ trưa. Sau khi phụ tôi gởi hành lý, anh tài xế nói :
- Tôi ra ngủ trưa ở trong xe. Chừng Patron (ông chủ) đi được rồi, tôi mới về.
Ở xứ đen, họ dùng từ “Patron” để gọi ông chủ, ông xếp, người có địa vị, có tiền, người mà họ nể nang v…v.. Nghe quen rồi, chẳng có gì chói lỗ tai hết! Tôi nói :
- Về đi! Đâu cần phải đợi!
Hắn nhăn răng cười, đưa hàm răng trắng tốt :
- Tại Patron không biết chớ ở đây, lâu lâu họ lại hủy chuyến bay vào giờ chót, nói tại máy bay ăn-banh (en panne) ở đâu đó. Máy bay cũng như xe hơi vậy, ai biết lúc nào nó nằm đường.
Rồi hắn đi ra xe.
Tôi ngồi xuống một phô-tơi, nhìn quanh, hành khách khá đông. Nhiều người ngồi với một số hành lý như thùng cạc-tông, bao bị, va-ly v…v.. Không phải họ không biết gửi hành lý, nhưng vì những gì họ đã gửi đã đủ số ký-lô dành cho mỗi hành khách, nên số còn lại họ… xách tay, cho dầu là vừa nhiều món vừa nặng, vừa cồng kềnh!
Không khí nóng bức. Mấy cái quạt trần quay vù vù, cộng thêm mấy cây quạt đứng xoay qua xoay lại, vậy mà cũng không đủ mát. Thiên hạ ngủ gà ngủ gật, tôi cũng ngã người trên lưng ghế, lim dim…
Trong lúc tôi thiu thiu ngủ thì loáng thoáng nghe có ai ca vọng cổ. Tôi mở mắt nhìn quanh rồi thở dài, nghĩ : “Tại mình nhớ quê hương xứ sở quá nên trong đầu nghe ca như vậy.”  Rồi lại nhắm mắt lim dim… Lại nghe vọng cổ nữa. Mà lần nầy nghe rõ câu ngân nga trước khi “xuống hò”:
“Mấy nếp nhà tranh ẩn mình sau hàng tre rũ bóng… đang vươn lên ngọn khói… á… lam… à… chiều….”
Đúng rồi! Không phải ở trong đầu tôi, mà rõ ràng có ai ca vọng cổ ngồi kia. Tôi nhìn ra hướng đó, thấy xa xa dưới lùm cây dại có một người đen nằm võng. Và chỉ có người đó thôi. Lạ quá! Người đen đâu có nằm võng. Tập quán của họ là nằm một loại ghế dài bằng gỗ cong cong. Ngay như loại ghế bố thường thấy nằm dưới mấy cây dù to ở bãi biển… họ cũng ít dùng nữa.
Tò mò, tôi bước ra đi về hướng đó để xem là ai vừa ca vọng cổ lại vừa nằm võng đong đưa. Thì ra là một anh đen còn trẻ, còn cái võng là cái võng nhà binh của quân đội Việt Nam Cộng Hòa hồi xưa. Tôi nói bằng tiếng Pháp :
- Bonjour!
Anh ngừng ca, ngồi dậy nhìn tôi mỉm cười, rồi cũng nói “Bonjour”.Tôi hỏi, vẫn bằng tiếng Pháp :
- Anh hát cái gì vậy?
Hắn đứng lên, vừa bước về phía tôi vừa trả lời bằng tiếng Pháp :
- Một bài ca của Việt Nam. Còn ông? Có phải ông là “le chinois” làm việc cho hãng đường ở Borotou không ?
Tôi trả lời, vẫn bằng tiếng Pháp :
- Đúng và sai! Đúng là tôi làm việc ở Borotou. Còn sai là vì tôi không phải là người Tàu. Tôi là người Việt Nam.
Bỗng hắn trợn mắt có vẻ vừa ngạc nhiên, vừa mừng rỡ, rồi bật ra bằng tiếng Việt, giọng đặc sệt miền Nam, chẳng có một chút lơ lớ :
- Trời ơi! …. Bác là người Việt Nam hả ?
Rồi hắn vỗ lên ngực :
- Con cũng là người Việt Nam nè!
Thiếu chút nữa là tôi bật cười. Nhưng tôi kiềm lại kịp, khi tôi nhìn gương mặt rạng rỡ vì sung sướng của hắn. Rồi tôi bỗng nghe một xúc động dâng tràn lên cổ. Thân đã lưu vong, lại “trôi sông lạc chợ” đến cái xứ “khỉ ho cò gáy” nầy mà gặp được một người biết nói tiếng Việt Nam và biết nhận mình là người Việt Nam, dù là một người đen, sao thấy quý vô cùng. Hình ảnh của quê hương như đang ngời lên trước mặt.
Tôi bước tới bắt tay hắn. Hắn bắt tay tôi bằng cả hai bàn tay, vừa lắc vừa nói huyên thuyên :
- Trời ơi! … Con mừng quá! Mừng quá! Trời ơi!... Bác biết không? Bao nhiêu năm nay con thèm gặp người Việt để nói chuyện cho đã. Bây giờ gặp bác, thiệt… con mừng “hết lớn” bác à!
Rồi hắn kéo tôi lại võng :
- Bác nằm đi! Nằm đi!
Hắn lại đống gạch “bờ-lốc” gần đấy lấy hai ba viên kê bên cạnh võng rồi ngồi lên đó, miệng vẫn không ngừng nói :
- Con nghe thiên hạ nói ở Borotou có một người Tàu. Con đâu dè là bác. Nếu biết vậy, con đã phóng Honda vô trỏng kiếm bác rồi! Đâu được tới bây giờ. 
Hắn móc gói thuốc, rồi mời tôi :
- Mời bác hút với con một điếu.
Hắn đưa gói thuốc về phía tôi, mời bằng hai tay. Một cử chỉ mà từ lâu tôi không còn nhìn thấy. Một cử chỉ nói lên sự kính trọng người trưởng thượng. Tôi thấy ở đó một “cái gì” rất Việt Nam.
Tôi rút điếu thuốc để lên môi. Hắn chẹt quẹt máy, đưa ngọn lửa lên đầu điếu thuốc, một tay che che như trời đang có gió. Tôi bập thuốc rồi ngạc nhiên nhìn xuống cái quẹt máy. Hắn nhăn răng cười :
- Bộ bác nhìn ra nó rồi hả?
Tôi vừa nhả khói thuốc vừa gật đầu. Đó là loại quẹt máy Việt Nam, nho nhỏ, dẹp lép, đầu đít có nét cong cong. Muốn quẹt phải lấy hẳn cái nắp ra chớ nó không dính vào thân ống quẹt bằng một bản lề nhỏ như những quẹt máy ngoại quốc. Hắn cầm ống quẹt, vừa lật qua lật lại vừa nhìn một cách trìu mến :
- Của ông ngoại con cho đó! Ông cho hồi ổng còn sống lận.
Rồi hắn bật cười :
- Hồi đó ông gọi con bằng “Thằng Lọ Nồi”.
Ngừng một chút rồi tiếp :
- Vậy mà ổng thương con lắm à bác !
Hắn đốt điếu thuốc, hít một hơi dài rồi nhả khói ra từ từ. Nhìn cách nhả khói của hắn, tôi biết hắn đang sống lại bằng nhiều kỷ niệm. Tôi nói :
- Vậy là cháu lai Việt Nam à?
- Dạ. Má con quê ở Nha Trang.
- Rồi má cháu bây giờ ở đâu?
Giọng của hắn như nghẹn lại :
- Má con chết rồi. Chết ở Nha Trang hồi năm 1975.
- Còn ba của cháu?
- Ổng hiện ở Paris. Tụi nầy nhờ có dân Tây nên sau 1975 được hồi hương. Con đi quân dịch cho Pháp xong rồi, về đây ở với bà nội. Con sanh ra và lớn lên ở Sài Gòn, về đây, buồn thúi ruột thúi gan luôn!
Tôi nhìn hắn một lúc, cố tìm ra một nét Việt Nam trên con người hắn. Thật tình, hắn không có nét gì lai hết. Hắn lớn con, nước da không đến nỗi đen thùi lùi như phần đông dân chúng ở xứ nầy, nhưng vẫn không có được cái màu cà phê lợt lợt để thấy có chút gì khác. Tóc xoắn sát da đầu, mắt lồi, môi dầy. Tôi chợt nói, nói một cách máy móc :
- Thấy cháu chẳng có lai chút nào hết!
Hắn nhìn thẳng vào mắt tôi, giọng nghiêm trang:
- Có chớ bác. Con có lai chớ bác.
Hắn xòe hai bàn tay đưa ra phía trước, lật qua lật lại :
- Bên nội của con là nằm ở bên ngoài nầy đây nè. 
Rồi hắn để một tay lên ngực, vỗ nhè nhẹ về phía trái tim : Còn bên ngoại nó nằm ở bên trong. Ở đây, ở đây nè bác.
Bỗng giọng hắn nghẹn lại :
- Con lai Việt Nam chớ bác !
Trong khoảnh khắc, tôi xúc động đến quên mất màu da đen của hắn, mà chỉ thấy trước mặt một thanh niên Việt Nam, Việt Nam từ cử chỉ tới lời lẽ nói năng. Tôi vỗ nhẹ lên vai hắn mấy cái, gật đầu nói :
- Ờ… Bác thấy. Bây giờ thì bác thấy.
Hắn mỉm cười :
- Ở đây, người ta nói con không giống ai hết, bởi vì con hành động cư xử, nói năng không giống họ. Bà nội con cũng nói như vậy nữa! Còn con thì mỗi lần con nhìn trong kiếng, con vẫn nhận ra con là người Việt Nam. Bác coi có khổ không?
Rồi nó nhìn tôi, một chút trìu mến dâng lên trong ánh mắt :
- Bây giờ con gặp bác rồi, con thấy không còn cô đơn nữa. Gặp một người mình, ở cái xó xa xôi hẻo lánh nầy, thiệt là trời còn thương con quá!
Tôi im lặng nghe hắn nói, nhìn hắn nói mà có cảm tưởng như hắn đang nói cho cả hai : cho hắn và cho tôi. Bởi vì cả hai cùng một tâm trạng.
Hắn vẫn nói, như hắn thèm nói từ lâu :
- Nhớ Sài Gòn quá nên con hay ca vọng cổ cho đỡ buồn. Hồi nãy bác lại đây là lúc con đang ca bài “Đường Về Quê Ngoại” đó bác.
- Bác không biết ca, nhưng bác rất thích nghe vọng cổ.
Giọng nói hắn bỗng như hăng lên :
- Vọng cổ là cái chất của miền Nam mà bác. Nó không có lai Âu, lai Á gì hết. Nó có cái hồn Việt Nam cũng như cá kho tộ, tô canh chua. Bác thấy không? Bởi vậy, không có gì nhắc cho con nhớ Việt Nam bằng bài ca vọng cổ hết.
- Bác cũng vậy.
Tôi nói mà thầm phục sự hiểu biết của hắn. Và tôi thấy rất vui mừng có một người như vậy để chuyện trò từ đây về sau. 
Có tiếng máy bay đang đánh một vòng trên trời. Chúng tôi cùng đứng lên, hắn nói :
- Nó tới rồi đó. Con phải sửa soạn xe trắc-tơ và rờ-mọt để lấy hành lý. Con làm việc cho hãng Air Afrique, bác à.
Rồi hắn nắm tay tôi lắc mạnh :
- Thôi, bác đi mạnh giỏi. Con tên là Jean. Ở đây ai cũng biết “Jean le Vietnamien” hết. Chừng về bác ghé con chơi, nghen.
Bỗng, hắn ôm chầm lấy tôi siết nhẹ rồi giữ như vậy không biết bao nhiêu lâu. Tôi nghe giọng hắn lạc đi :
- Ghé con nghe bác…. Ghé con…!
Tôi không còn nói được gì hết. Chỉ vừa gật đầu vừa vỗ vỗ vào lưng hắn như vỗ lưng một người con.
Khi hắn buông tôi ra, tôi thấy hai má của hắn ướt nước mắt. Tôi quay đi, lầm lũi bước nhanh nhanh về nhà ga mà nghĩ thương cho “thằng Jean le Vietnamien”. Hồi nãy nó ôm tôi, có lẽ nó đã tưởng tượng như là nó đang ôm lại được một góc trời quê mẹ.
Trên máy bay, tôi miên man nghĩ đến “thằng Jean”, rồi tự hứa sẽ gặp lại nó thường. Để cho nó bớt cô đơn. Và cũng để cho tôi bớt cô đơn nữa!
Bây giờ, viết lại chuyện “thằng Jean” mà tôi tự hỏi : “Trong vô số người Việt Nam lưu vong hôm nay, còn được bao nhiêu người khi nhìn trong gương vẫn nhận ra mình là người Việt Nam? Và có được bao nhiêu người còn mang trong lòng bài ca vọng cổ, để thấy hình ảnh quê hương vẫn còn nguyên trong đó?”

Tiểu Tử
(Tạp chí Đi Tới 79, tháng 7 -8 & 9 - 2004)

BỨC TRANH PHỤC SINH ẤN TƯỢNG NHẤT

"Các môn đệ Phêrô và Gioan chạy đến Mộ lúc buổi Sáng Phục Sinh " -  Eugène Burnand

Bức tranh Phục Sinh ấn tượng nhất
Trần Mạnh Trác4/24/2014

Từ trước đến nay, sự kiện Phục Sinh đã từng là nguồn cảm hứng cho nhiều danh hoạ bực thầy như Rembrandt, Rubens, Paolo Verones hay Sebastiano Ricci.
Những bức tranh nổi tiếng cuả họ thường diễn tả cảnh huy hoàng lúc Chuá Sống Lại, sự khải hoàn bên trên ngôi mộ trống, sự sững sờ cuả đám quân canh, hoặc niềm vui tột độ cuả bà Madalena.
Ít được biết đến, vì không có hình Chuá, và vì ít được sao chép cho mục đích thờ phượng, nhưng được đánh giá là một kiệt tác có ý nghiã nhất trong các tác phẩm Phục Sinh, đó là tác phẩm cuả một hoạ sĩ Thuỵ Sĩ không mấy tiếng tăm tên là Eugène Burnand. Bức tranh có một cái tên rất dài: "Các môn đệ Phêrô và Gioan chạy đến Mộ lúc buổi Sáng Phục Sinh ", niên lịch năm 1898, đang được lưu trữ tại viện Bảo Tàng Musée d'Orsay ở Paris.
Những ai bỏ công đi tới bảo tàng d'Orsay để chiêm ngắm bức tranh, đều đồng ý là bức tranh đã đánh động tâm hồn họ một cách đặc biệt.
Bức tranh không vẽ cảnh Chuá hiển vinh, chỉ miêu tả hai nhân chứng, một người là tông đồ già nhất và một người là tông đồ trẻ nhất cuả Chuá Giêsu.
Vị tông đồ trẻ, Gioan, là người duy nhất đã có đủ can đảm đi theo chân Chuá cho đến tận đồi Golgotha, và cũng là vị tông đồ duy nhất không phải chết tử vì đạo. Còn vị tông đồ già kia, Phêrô, là người vừa mới chối Chuá nhiều lần vì sợ hãi, nhưng sau cùng thì ông đã chọn việc bị xử tử bằng cách chịu đóng đinh ngược đầu chứ không phủ nhận sự Phục Sinh cuả Chúa Kitô.
Trong bức tranh, Gioan siết tay cầu nguyện trong khi Phêrô áp chặt bàn tay trên trái tim mình. Tóc và áo của hai người bay ngược về phiá sau diễn tả một cuộc chạy bộ vội vàng, nôn nóng để được chứng kiến một sự kiện đã thay đổi cục diện cuả cả Trời lẫn Đất một cách vĩnh viễn.
Tuy chỉ vẽ có hai người, nhưng bức tranh gợi ý đến ba nhân vật khác, Chuá Giêsu, Mẹ Maria và bà Madalena.
Người ta có cảm tưởng bà Mary Madalena đang ở gần bên, đứng ngay cạnh bức tranh. Và hầu như người ta có thể nghe thấy giọng nói hớn hở của bà, chỉ mới vài giây trước đó, đã xông vào nhà của các môn đệ mà báo tin Người đã sống lại.
Hình ảnh cuả Phêrô diễn tả toàn thể mối quan hệ giữa ông với Chuá Giêsu. Đôi mắt ông mở to ẩn chứa một sự hỗn hợp giữa lo âu và hy vọng. Ông đang bị dằn vặt bởi ba lần chối Chuá nhưng đã không đánh mất niềm hy vọng được cứu rỗi. Người ta có thể liên tưởng tới vài ngày sau đó khi Chuá ngồi bên đống lửa và hỏi Phêrô ba lần, " Con có yêu Thầy không ? ", và ba câu trả lời cuả ông đã rửa đi tất cả những tội lỗi quá khứ.
Hình ảnh Gioan với đôi mắt đăm chiêu và thái độ tuân phục nhắc nhở tới những giây phút đau buồn trên núi Sọ vẫn còn chưa vơi trong lòng ông, lúc đó Chuá Giêsu đã hướng về mẹ mình và nhắn nhủ với Gioan rằng "Đây là mẹ con, " và hướng về Gioan mà nói với Mẹ rằng "Đây là con bà." Toàn thể loài người đã được ủy thác cho Mẹ và Mẹ cũng đã nhận loài người làm con cuả mình từ lúc đó.
Bầu không khí khẩn trương cuả hai nhân vật trong tranh cho thấy rằng tuy một Thế Giới mới với một cuộc sống mới đã xuất hiện, nhưng mọi người vẫn còn sống trong lo âu và nghi ngờ vì đó là một bí ẩn vượt quá tầm hiểu biết và sự kiểm soát cuả con ngườì nhỏ bé.
Xét về mặt nghệ thuật, bức tranh "Các môn đệ" cuả Eugène Burnand đã được vẽ trong bối cảnh một nền nghệ thuật mới (thứ Bảy) đang ló dạng, đó là nghệ thuật điện ảnh.
Do đó bức tranh đã mang ảnh hưởng cuả nền nghệ thuật sống động mới này, nhằm để diễn tả hành động, để kể một câu chuyện. Cảnh Phục Sinh cuả ông không mô tả những tĩnh vật như mồ đá đã mở hoặc những gương mặt 'sững sờ' đầy kịch tính, nhưng là diễn tả một cảnh chuyển động với nắng lên, mây bay và những gương mặt biểu lộ một tâm tư sôi nổi.
Tuy thể loại hiện thực cuả Burnand sẽ bị thay thế nhanh chóng bởi nghệ thuật thứ Bảy và không được tiếp đón nồng hậu ở Âu Châu khi đó đang bị rơi vào một nạn 'đói' tâm linh trước những tấn công cuả nhiều lý thuyết vô thần. Tuy nhiên bức tranh cuả Burnand đã đóng góp rất nhiều vào những phong trào 'tái sinh tôn giáo' ở cuối thế kỷ 19 tại Mỹ Châu, đã trở thành rất bình dân trong giới thợ thuyền ở 'Tân Thế Giới'. Họ nhìn thấy hình ảnh cuả chính họ ở nơi hai người thuyền chài nghèo khó đang vội vã, lo lắng nhưng cũng tràn đầy hy vọng và họ sẽ được hớn hở vui mừng, trong một buổi sáng tinh sương cách đây 2000 năm về trước.
NGUỒN : (tại đây)

Thứ Hai, 28 tháng 4, 2014

NHỮNG VỊ THÁNH KẾ TIẾP


Những vị thánh kế tiếp

Bốn ngày trước, tại sân ga trung tâm Milano miền bắc Ý.
- Bạn đang đi đến thành phố nào thế?
+ À, mình về Roma.
- Roma? Mấy hôm nay các chuyến tàu đi Roma đông nghẹt người. Hình như có một sự kiện gì đó sắp diễn ra ở đó hả bạn?
+ Đúng vậy. Một sự kiện có một không hai trong lịch sử. Còn bạn đang đi về đâu?
- Tôi chuẩn bị lên đón chuyến tàu đi Paris, một thành phố hoa lệ mà tôi đã ao ước đi đến khi còn là một cậu bé tiểu học.
+ Mình năm vừa rồi cũng có dịp đi Paris. Đẹp và thơ mộng với tháp Eiffel, đồi Montmartre và dòng sông Seine. Một nơi rất lý tưởng để đi du lịch.
- Sự kiện sắp tới ở Roma là gì vậy?
+ Đó là buổi lễ phong thánh cho hai vị giáo hoàng được dân chúng yêu mến và ngưỡng mộ: Gioan XXIII và Gioan Phaolô II.
- Ồ, phong thánh hả? Tôi cũng được rửa tội lúc nhỏ nhưng lâu rồi tôi không thực hành đạo nên không rõ ý nghĩa của nó. Nhưng tôi nghe mấy đứa bạn nói rằng phong thánh là thần thánh hóa một con người và như thế là xúc phạm đến Chúa.
+ Ồ, chắc có sự hiểu lầm về từ “phong thánh” với từ “thần tượng” hay từ “thần thánh hóa” đấy bạn.
- Nghĩa là thế nào nhỉ?
+ Đơn giản lắm bạn. Phong thánh nghĩa là công nhận rằng ân sủng của Chúa hoạt động nơi một người, cùng với ý muốn tự do và sự cộng tác tự do của người đó, đã đạt đến độ tuyệt vời. Người ấy được biểu dương như một chứng tá sống động cho cộng đoàn đức tin trong việc sống trung tin và thánh thiện ơn gọi làm môn đệ của Thầy Giêsu. Người được phong thánh được ví như là một ngón tay chỉ về Mặt Trời là chính Chúa để Chúa càng được ngợi khen, phụng thờ và vinh danh. Ngược lại, thần tượng hay thần thánh hóa một con người là biến họ thành đối tượng trung tâm hoặc thành đối tượng của sự thờ phượng.
- Thì ra là có sự khác biệt nhiều như thế. Cảm ơn bạn!
Hai hành khách tình cờ gặp nhau tại sân ga Milano. Trao đổi một chút vậy rồi chia tay.
+++
Hôm nay, Chúa Nhật phục sinh tuần thứ hai, Chúa Nhật lòng thương xót, ngày phong thánh.
Trời Roma không mưa bay không nắng cháy. Có người bảo rằng bầu trời hôm nay không trong xanh lý tưởng, nhưng thật ra nó thật hoàn hảo cho hàng triệu người quy tụ về đây để tham dự Thánh Lễ phong thánh. Các ngả đường đều kín chặt người. Từ ngày hôm trước, họ đã đến đây cầu nguyện, hát ca và dựng lều trải bạt trên các con đường lẫn vỉa hè để nghỉ qua đêm. Một bầu khí sống động, linh thiêng, ấm cúng của đoàn dân Chúa từ khắp các quốc gia với bao nhiêu ngôn ngữ văn hóa. Trong đám đông hiệp nhất ấy, hẳn là có người chưa biết Thầy Giêsu thực sự là ai, có người chưa nghe về Thầy, có người đang tìm thấy lại niềm tin và niềm vui được là một phần của thân thể sống động này. Cầu mong không có ai cảm thấy mình lạc lõng thất vọng.
Buổi lễ diễn ra. Hàng triệu con tim tại Roma hiệp thông với hàng tỷ con tim trên thế giới đang hướng về biến cố hân hoan này. Niềm tin và tình yêu hòa quyện với nhau làm nên những giọt nước mắt hạnh phúc và biết ơn. Đức Thánh Cha Phanxicô đã cảm động công bố hai Đức Thánh Cha Gioan XXIII và Gioan Phaolô được kể vào hàng ngũ các thánh được tôn phong vì lợi ích tâm hồn của Giáo Hội khắp nơi. Hai Đức Thánh Cha ấy là ai?
Gioan XXIII là người của yêu thương. Ngay từ thời còn rất trẻ Người đã quan tâm săn sóc những người đau khổ, đặc biệt là các tù nhân. Gioan là người của đối thoại đầy lắng nghe và tôn trọng. Người nhiều lần làm cầu nối cho các đối thoại hòa giải giữa các tôn giáo, xóa đi nhiều ngăn cách do khác biệt. Gioan là một mục tử nhân hậu theo gương Mục Tử Nhân Hậu Giêsu. Bao nhiêu cuộc đời đổ bể được trái tim đầy tình cha của Người chạm đến và chữa lành. Gioan là người của hòa bình. Người không chỉ yêu hòa bình mà còn giữ hòa bình cho thế giới tránh khỏi một cuộc chiến tranh nguy hiểm sắp sửa nổ ra sau đệ nhị thứ chiến giữa hai khối Mỹ và Nga-Cuba. Ngày 25 tháng 10 năm 1962, chính nhờ lời kêu gọi các nhà lãnh đạo thế giới “đừng giả điếc với tiếng kêu than của nhân loại” mà các bên đã nhượng bộ và tránh được cuộc chiến tranh này. Đức Gioan XIII còn là người rất nhạy cảm với nhu cầu của thế giới đương thời. Vì thế, Người đã triệu tập công đồng Vatican II (1962-1965) để đưa Giáo Hội hòa nhập vào thế giới mà phục vụ con người hôm nay cách hữu hiệu nhất.
Gioan Phaolô II là một người của cảm thương sâu xa. Lớn lên giữa cảnh chiến tranh bắt bớ của phát xít Đức và chế độ vô thần tại Ba Lan, Người hiểu thế nào là khó khăn, thống khổ và nguy hiểm. Khi được chọn vào sứ mạng mục tử kế vị Thánh Phêrô, Người đã không ngừng đến với anh chị em khắp nơi trên thế giới để công bố Tin Mừng, để chữa lành họ khỏi những sợ hãi, để giảng dạy họ về chân lý đức tin có sức giải thoát họ khỏi văn hóa bạo lực và sự chết, để hòa giải những đối kháng trong gia đình nhân loại. Thế giới không bao giờ quên ngày Gioan Phaolô bị một tay súng chuyên nghiệp Mehmet Ali Agca ám sát (13.5.1981) tại quảng trường Thánh Phêrô. Người tin rằng chính Mẹ Maria đã che chở mình (13.5.1917 là ngày Mẹ hiện ra lần đầu tiên tại Fatima). Thế giới không quên khi Người xin mọi người cầu nguyện cho “người anh em Agca của tôi”. Thế giới càng không quên ngày Người đến trại giam thăm kẻ đã ám sát mình, tha thứ cho anh cho dù anh không xin tha thứ, và Người cũng xin nhà cầm quyền Ý trả tự do cho anh. Người đã sống theo lời dạy của Thầy Giêsu: “Anh chị em hãy yêu thương kẻ thù nghịch và cầu nguyện cho kẻ bắt hại anh chị em.” (Mt 5:44). Các tổn hại sức khỏe và đau khổ người gánh chịu nhiều năm sau này là hậu quả trực tiếp của cuộc ám sát ấy. Khi Người qua đời năm 2005, Agca đã khóc thương Đức Gioan Phaolô II.
+++
Giờ ăn trưa tại một quán pizza khu Borgo Sant’Angelo gần đền thánh Phêrô.
+ Ồ, xin chào bạn. Chúng ta gặp nhau ở Milano cách đây mấy ngày phải không?
- Đúng rồi. Wow, thật là thú vị. Đúng là trái đất tròn thiệt!
+ Aha, nhưng mình tưởng bạn đi Paris chứ.
- Hôm đó tôi quyết định đổi hành trình và mua vé về Roma để tham dự buổi lễ hôm nay cho biết. Và tôi đã quyết định sáng suốt!
+ Thì ra là vậy. Thế bạn có cảm nghĩ gì về buổi lễ hôm nay không?
- Tôi thấy cảm động.
Cuộc trò chuyện giữa hai người bạn tình cờ quen nhau tiếp tục diễn ra trong mùi thơm của bánh pizza nướng.
- Tôi có một câu hỏi hơi ngớ ngẩn vì không hiểu biết nhiều.
+ Ồ, không sao đâu, bạn cứ hỏi, đừng ngại.
- Vậy cho tôi hỏi: Hôm nay có thêm hai vị giáo hoàng được phong thánh. Tôi đã có vợ con và lối sống của chúng tôi cũng khác hai vị này. Có thánh nào làm gương cho đời sống vợ chồng ngày nay không bạn?
+ À à à… mình chưa bao giờ nghĩ đến trường hợp này. Mình biết là trong lịch sử hơn hai ngàn năm của Hội Thánh Công Giáo có nhiều vị đi tu được phong thánh, nhưng còn những vị thánh làm điển hình cho đời sống vợ chồng thì mình chưa được nghe nói đến. Nhưng hai vị thánh mới này là những người rất quan tâm đến đời sống gia đình của giáo dân.
- Đúng thế. Tôi để ý thấy nhiều người đã vỗ tay thật lớn lúc Đức Phanxicô giảng rằng Đức Gioan Phaolô II là một vị giáo hoàng của các gia đình. Nhưng họ vẫn là những người sống bậc tu trì khác những ai sống đời gia đình.
+ Vâng, mình nghĩ có thể có những vị thánh cho đời sống vợ chồng nhưng chắc hiếm.
- Cái gì càng hiếm thì thường là càng quý, phải không bạn?
+ Ha ha ha…
- Xin lỗi làm pizza của bạn bị nguội mất rồi.
+ Ồ không sao. Mình phải cảm ơn bạn đã hỏi như thế để mình có dịp nghiên cứu lại cho chính mình.
- Ai sẽ là những vị thánh kế tiếp vậy bạn?
+ Ồ, điều này thì không thể nói trước được. Phải có người nào dám can đảm sống cho thánh ý Chúa thì mới mong được như vậy.
- Tôi hy vọng các vị thánh tiếp theo sẽ là những người sống đời gia đình để làm gương cho đời sống gia đình vì gia đình hôm nay có rất nhiều khủng hoảng trầm trọng.
+ Ừ, bạn nói đúng. Thế giới hôm nay rất cần những vị thánh này. Nhưng ai sẽ trở thành thánh như vậy đây?
- Tại sao không phải là chúng ta, bạn nhỉ?
Anh bạn kia nghe vậy thì mỉm cười, gật gật đầu, ăn miếng pizza cuối cùng, suy nghĩ….

Giuse Việt, O.Carm.
       (tại đây)

ĐỨC THÁNH GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II

     
  Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
TÁC PHẨM, TÁC GIẢ NGƯỜI DỊCH THƠ
Ngày 27 Tháng 04, Năm 2014 sắp tới đây, Hội Thánh sẽ tôn phong hiển thánh cho Đức Thánh Cha Gioan Phao Lô Đệ Nhị. 
 Con người, cuộc sống, lòng đạo đức, thánh thiện, nhân cách, tinh thần làm việc và cách lãnh đạo Giáo hội của ngài... Cả thế giới đã rõ, đã biết, đã tường tận, nhất là lòng kính trọng, khâm phục, ngưỡng mộ và kính mến, không những thế mà còn rung cảm thương cho cuộc đời của ngài từ khi còn là một cậu bé mồ côi mẹ, rồi lớn lên đi lao động, đi quân dịch, cũng mang ba lô,  đội nón sắt... hiên ngang bảo vệ quê hương. Hết nghĩa vụ quân ngũ, ngài lên đường theo tiếng gọi lương tâm, vào chủng viện đi tu, làm linh mục, giám mục, hồng y, làm giáo hoàng và giờ đây, ngài đang chuẩn bị làm thánh cho chúng ta. Cả loài người thiên hạ sẽ gọi và tuyên xưng ngài là Thánh Nhân. 
 Bắt đầu năm phụng vụ 2015 và mãi đến suốt đời, Hội Thánh Công Giáo sẽ có và dành riêng một ngày đặc biệt trong năm, và Giáo hội khắp nơi trên Hoàn vũ sẽ mừng lễ kính vị Thánh Gioan Phao Lô II này trong ngày đó.
 Nói và viết về ngài, có lẽ với tôi và cả với bạn nữa sẽ rất dè dặt, vì quả thật ngôn ngữ giới hạn của chúng ta không đủ để diễn đạt trong khi sự nhân đức và thánh thiện của ngài thì quá bao la và cao cả. Có nhiều người đã nói, đã viết về ngài, về vị thánh sống từ khi ngài còn nơi dương thế. Vâng, cả thế giới này đã thực hiện và làm những điều đó mỗi ngày ròng rã suốt gần bốn mươi năm qua bằng nhiều hình thức qua các phương tiện truyền thông và báo chí, trên các trang mạng kể từ khi ngài được bầu làm giáo hoàng năm 1978 rồi mãi đến khi ngài qua đời, và vẫn còn khơi dậy cho đến hôm nay. Tôi tin tưởng ảnh hưởng của ngài sẽ còn rộng lớn hơn trong tương lai và sẽ mãi mãi trong dòng chảy của kiếp nhân sinh. 
Thánh nhân Gioan Phao Lô Đệ Nhị đã đi vào lòng lịch sử của Thế giới, của Giáo Hội Công Giáo và bất biến trong lòng kính yêu, trong mỗi trái tim của người tín hữu hiện diện khắp nơi trên quả địa cầu này.
 Tuy nhiên, có lẽ bạn và tôi sẽ không biết đến về một lĩnh vực rất riêng của ngài mà theo Đức Cha Giáo Phận Bắc Ninh Cosma Hoàng Văn Đạt nghiên cứu và tìm hiểu rằng, Ngài là một trong bảy nhà thơ lớn của nền văn học nước Ba Lan. Và nếu hôm nay không có Giáo sư Phanxicô Lê Đình Thông, một học giả có tiếng tăm tại Pháp nói riêng và Hải Ngoại nói chung đã khổ công nghiên cứu, chuyển ngữ, rồi dịch thơ của thánh nhân lại bằng tiếng Việt Nam của chúng ta, một ngôn ngữ mẹ đẻ rất gần gũi bên cạnh như hơi thở, như cơm với cá, như mẹ với con, thì có thể tôi chưa biết trọn vẹn đến ngài.
 Qua tập thơ của Đức Thánh Cha Gioan Phao Lô II đã được vị giáo sư này dịch lại mà tôi nhận được từ một anh nhạc sĩ bạn. Tôi lắng đọng tâm hồn để đọc từng chữ, từng câu, từng ý tưởng và lần lượt từ bài này qua bài khác. Dòng thơ ấy đã lôi cuốn tôi vào một tri thức của chữ nghĩa và của văn chương, dẫn tôi đến bến bờ không phải là sự trừu tượng mà thực thể cho tôi được cảm, được nhận và biết thêm về cuộc sống đời thường với tình cảm sâu kín rất thật, rất giản dị nơi con người của thánh nhân.
 Bài thơ "Mẹ Ơi" (Trích đoạn I) của ngài. Qua một góc nhìn với một lăng kính giới hạn nào đó, tôi thấy được tình cảm của ngài đối với người mẹ của mình, một thứ tình cảm luôn dạt dào nhưng luôn khắc khoải và lắng sâu. Ngài không thể che dấu niềm đau vật vờ và nỗi chua xót thiếu thốn người mẹ trong đời sống.
 Chúng ta có thể tưởng tượng và nhìn ra được cuộc đời đơn côi của một đứa bé bị mất mẹ, với những tháng ngày ngỏ vắng, dại khờ, với lờ mờ sớm trưa mà ngài phải gánh lấy trong quãng đời thơ dại đó. Tựa đề bài thơ này chỉ vỏn vẹn có mỗi hai chữ "Mẹ Ơi". Vâng, chỉ có hai tiếng giản dị đó thôi cũng đủ cho chúng ta thấy được sự khao khát tình mẫu tử nơi ngài, khao khát của môt đứa bé luôn cần có mẹ bên cạnh  để được chở che và vỗ về, được gọi "mẹ ơi" bất cứ khoảnh khắc nào trong đời sống từ khi bé thơ và thậm chí đến khi đã khôn lớn. Nhưng quả thật, ngài đã bất hạnh vì không được gọi hai tiếng thiêng liêng đó. Hai tiếng gọi đầu đời trên môi của em bé mà không một ai hướng dẫn, không một trường lớp nào dạy dỗ, chỉ bảo. Chỉ có Thượng Đế mới gắn chặt tình mẫu tử thiêng liêng đó ngay từ những giây phút phôi thai khi đứa bé được thụ thai, rồi nên hình, nên dạng trong dạ lòng của người mẹ. 
 Tôi nghĩ rằng: hơn ai hết, dịch giả Giáo sư Lê Đình Thông đã thẩm thấu và cảm nhận điều sâu xa về cuộc đời thiếu thốn tình mẫu tử của thánh nhân, để chọn và dịch lại hai tiếng "Mẹ Ơi" rồi đặt tên làm tựa đề cho bài thơ này. 
 Hãy điểm qua một vài câu thơ của ngài được chuyển ngữ và dịch thơ lại sau đây: "Dòng đời trôi nổi bấp bênh, qua bao năm tháng lênh đênh nổi sầu. Mẹ tôi mất cũng đã lâu, làm sao quên được niềm đau vật vờ...." Thế đó! Ôi tình cảm thật chân thiết đã in sâu vào tâm trí, trong tiềm thức của ngài mà khi đọc qua, có lẽ chúng ta không ngăn chặn được cái nghèn nghẹn co thắt đâu đó trong tim, và có thể giọt lệ đang làm ta cay mắt và chực ứa trào. Chưa hết, bài thơ "Hoa Trắng" cũng là một kiệt tác về văn chương nhưng cũng rất đậm sâu về tình cảm mà tác giả đã diễn tả như tiếng kêu rên rỉ âm thầm, xót đau trong lòng của một đứa bé mất mẹ. 
 Bài thơ Hoa Trắng này đã thật sự dẫn đường tôi đến để nhìn thấy ngôi mộ của mẹ thánh nhân. Tôi tin chắc ngôi mộ này rất đơn sơ và có thể lót đá hoặc quét vôi trắng nằm chênh vênh, đơn độc ở một góc chân trời nào đó mãi tận nước Ba Lan. Bài thơ này đã cho tôi cảm nghiệm thêm nổi buồn, xót xa, qua những năm tháng trong từng giây phút trống vắng, lạc lõng, đơn côi giữa dòng đời mà thánh nhân đã đối diện và sống trong hoàn cảnh mất mẹ từ khi ngài còn rất nhỏ bé, khoảng tám chín tuổi nếu người viết nhớ không lầm. 
 Tôi đây cũng đã mất mẹ, mới mất cách đây bốn năm thôi và mất khi tôi đã là năm mươi tuổi. Vâng, năm mươi tuổi mà mất mẹ thì cũng xem như đã vững chân đứng trong dòng đời ngược xuôi, tự lo và xoay xở và tự sống còn về thể lý. Tuy nhiên và mặc dù thế, trong tôi vẫn luôn cảm nhận được sự đau xót, thương tiếc, đơn côi, bơ vơ, lạc lõng đến thế nào ấy, nhất là khi tôi thất thểu bám sau quan tài để tiễn đưa mẹ tôi xuống lòng huyệt. Dòng lệ và dòng suy tư đã làm tôi ý thức được là kể từ nay tôi sẽ không còn mẹ trong cuộc đời, sẽ không bao giờ được gần bên mẹ, được gọi tiếng mẹ ơi khi cần đến, khi đau khổ hay hoạn nạn để được mẹ ủi an, khi hạnh phúc hay khi sướng vui để kể cho mẹ mừng, khi thất bại hay công thành danh toại để chia sẻ với mẹ... Với những cảm nhận chia ly và mất mát của tôi đó, thì huống gì sự đau đớn, chua xót và đơn côi đối với một đứa bé mới lên tám tuổi thì niềm đau sâu thẳm đến chừng nào ? Làm sao và có thể đứa bé tự định hướng được trong cuộc đời ?.
 Những đau xót và thương tiếc của thánh nhân được diễn tả qua các vần thơ trong bài Hoa Trắng, đã thật sự dao động trong tâm hồn tôi, đã làm tôi phải chảy nước mắt khóc thương nhớ đến mẹ của tôi mà giờ đây ngôi mộ và thân xác của mẹ cũng đang nằm cô quạnh dưới lòng đất lạnh: "Mẹ tôi mộ đá trắng ngần, nở bông hoa trắng xoay vần đời con. Vành tang mất mẹ mỏi mòn, bao năm xa cách một lòng nhớ thương. Mẹ tôi mộ trắng xót thương, tình yêu hoa trắng còn vương cõi trần, Mẹ tôi mộ vắng vấn vương..." (Bài thơ Hoa Trắng).
 Hãy dành thời gian để đọc hai muơi lăm bài thơ của ngài, rồi thả dòng suy tư về đời sống và con người của thánh nhân. Ngoài các nhân đức và đời sống thánh thiện, ngài còn có lòng đặc biệt yêu quê hương và đất nước của mình. Có hai câu nói mà ngài đã nói và đã để lại cho chúng ta thấy được lòng yêu nước, yêu quê hương, thương giống nòi thật mãnh liệt ở trong trái tim của ngài. 
 Trong thời gian làm Giáo hoàng, ngài đã thẳng thắn và can đảm nhưng rất chân thành bày tỏ lòng yêu nước của mình. Ngài nói: "Dù là một vị Giáo hoàng, nhưng tôi vẫn có trái tim để yêu quê hương và đất nước của tôi".  Ngài còn khẳng định lòng yêu quê hương và muốn bảo vệ cho đồng bào dân tộc của mình qua câu nói sau đây:  "Tôi sẽ cởi áo giáo hoàng để về bảo vệ và chiến đấu nếu Liên xô hay một quốc gia nào đó tiến quân xâm lược đất nước tôi".  
 Ngày đắc cử ngôi vị Giáo hoàng và đứng trên ban lơn, ngài cất tiếng chào mừng và chúc bình an cho mọi tín hữu. Ngoài lời chào mừng và chúc bình an đó, ngài đã dùng một đoạn ngắn của Thánh Mathêu trong Phúc âm để nói với dân chúng: "Các con đừng sợ !" Một câu nói ngắn ngủi ấy thôi, thế mà sau này đã làm tan rã các thế lưc tà quyền và những mưu mô của thế tục.  Vì "Các con đừng sợ" nên người dân Đông Đức đã mạnh dạn hiên ngang đứng dậy dùng búa thẳng tay phá sập bức tường ô nhục Bá Linh năm 1989 để vượt qua Tây Đức tìm  lại bà con, gia đình, tìm lại tự do mà sau bao nhiêu năm nằm sợ sệt vì phải bị bức tường ngăn cách dòng máu lưu thông trong huyết quản từ một người Mẹ chỉ vì ý thức hệ và lòng tham bá chủ của những đứa con cứng đầu, ngổ nghịch, tham lam và khó dạy ! "Các con đừng sợ", ngài cũng đã lập lại một lần nữa trong kỳ Đại Hội Giới Trẻ như để nhắc nhở những thế hệ trẻ sau này đừng sợ mà hãy mạnh dạn chiến đấu với nền văn hóa của sự chết, văn hóa của bóng tối và của tội lỗi...
Lòng yêu quê hương và đất nước của ngài có thể diễn tả qua người diễn viên nơi sân khấu cuộc đời "Quanh ta có biết bao người, tác phong chín chắn nói cười thong dong. Ta như thác nước xuôi dòng, mà không hổ thẹn tấm lòng sắt son..." (Bài thơ Diễn Viên).
 Dù là một vị Giáo hoàng cao trọng, nhưng tôi nghĩ ngài rất gần gũi với người chân lấm tay bùn, người thấp cổ bé miệng. Từ người lao công của hầm mỏ, đến những công nhân lao động chân tay như: xẻ đá, đục, gõ, cưa, bào, và những giọt mồ hôi. "Dùng bàn tay chai đá nứt làn da. Giơ búa cao đập tan bao tảng đá. Đá chẻ ra bao ý nghĩ mặn mà. Nhờ chịu khó ta làm nên tất cả..." Vâng, thơ hay mà người dịch thơ cũng tuyệt vời và khéo léo. Nhưng hình như chúng ta đang nghe có tiếng thở dài mệt nhoài và thấy những giọt mồ hôi nhễ nhãi, lấm tấm trên khuôn mặt và ướt đẫm trên chiếc áo lao động của ngài. "Người thợ điện nghỉ ngơi cơn gió mát, xẻ non cao đào sông rạch xa gần. Bác nông phu phơi lúa chín ngoài sân, bầy con nít nắm tay nhau ca hát..." (Bài thơ Xưởng Thợ). 
Gần gũi nhất là tác giả vẽ cho ta một bức tranh, trong đó có hình ảnh sống động của bác nhà nông, con trâu với đồng lúa, với ánh sáng mặt trời đang chiếu dọi trên đồng ruộng. Cho ta thấy bác phu đang cầy cấy mà có thể bác phu đó cũng chính là ngài với những mong ước rất chi là bình thường và giản dị... Sự mong đợi từ những cây mạ non khi vừa ươm xuống lòng ruộng, rồi từng ngày chăm bón ngóng chờ được nẩy mầm, niềm sung sướng khi thấy lúa trổ đòng đòng, thỏa lòng khi được mùa gặt bội thu, hát câu ca vang trên con đường đê, khấp khởi hân hoan kê vai quẩy gánh thóc về. 
Hãy nhìn vào bức tranh, để thấu và cảm nhận được lòng ngóng trông của bác nhà nông: "Ánh mắt nào con mong còn đợi, mau đến mùa lúa mới đơm bông. Cấy cầy vất vả nhiều công, mong sao mưa thuận, cầu mong gió hòa..." (Bài thơ Mùa Lúa Mới).   
 Tôi nghĩ thánh nhân khi đương thời đã có cái nhìn rất thực tế về Nhân Sinh Quan. Ngài không bao giờ bi quan mà luôn có tinh thần lạc quan trong mọi tình huống nơi đời sống. Đặc biệt nơi ngài là sự quan tâm đến những người chung quanh và lòng xót thương khi gặp người bị nạn. 
 Nếu giả sử ngài không phải là vị giáo hoàng mà tôi chỉ biết và tìm hiểu sau khi đọc các vần thơ, tôi sẽ thấy nơi ngài có lòng thương người và rất quan tâm những ai bên cạnh dù thời gian eo hẹp và dù có bận rộn trong đời sống. "Tâm trí ta mệt nhoài tim bấn loạn, khu phố đông người qua lại vội vàng. Lời dặn dò nghe đó đây loáng thoáng, chớ bỏ qua rồi ra sẽ muộn màng..." (Bài thơ Tiếng Thầm).
 Trong cuộc sống và dòng đời vội vã, có lẽ bạn và tôi không dành thời gian nhiều để quan tâm người bên cạnh, mà thật ra người nào cũng có liên quan trong đời sống của chúng ta bằng cách này hay cách khác. Từ người láng giềng, hàng xóm đến những bạn bè, những người Thầy, người Cô dạy dỗ ta, những người cùng mang một dòng máu đỏ da vàng, thâm chí đến những người thân trong gia đình... thử hỏi có mấy khi ta mở lời chào và thăm hỏi hay quan tâm đến đời sống và sức khỏe của họ thật lòng ? Xã hội và môi trường bây giờ có xu hướng về chủ nghĩa cá nhân, họ không còn cái xót thương và lòng trắc ẩn khi gặp người bị hoạn nạn hay thiếu may mắn trong đời sống, thậm chí nghoảnh mặt hay vô tâm để rồi phải sảy ra "những điều trông thấy mà đau đớn lòng" (Nguyễn Du).
 Cách đây không lâu bên nước Trung Quốc, có một em bé bị xe cán và bị thương khá nặng khi băng qua đường. Biết bao người qua lại đã nhìn thấy em bé tội nghiệp đang nằm dẫy dụa với các vết thương, nhưng tất cả đều vô tâm mặc dù con phố luôn tấp nập và đông người. Có lẽ vì bận rộn chạy cho kịp cuộc sống để rồi không một ai chịu cúi xuống ra tay giúp đỡ hoặc đưa em bé đi bệnh viện, hoặc băng bó vết thương cho em. Cuối cùng vì kiệt sức bởi máu ra quá nhiều và em đã nhắm mắt lìa trần chết tất tưởi một cách thê thảm và oan uổng. Khi chết rồi, xác em cũng nằm trên góc con phố đó đến chiều tối cũng không có một ai màng đến.  
Em nhắm mắt lìa trần nhưng có mở được mắt lương tri cho những người dân cùng mang dòng máu với em trên con phố nào đó ở bên Trung Quốc ? Em nhắm mắt chết tất tưởi, nhưng tôi tin em đã mở mắt loài người trên thế giới để họ nhìn thấu rõ những con người đó đã đánh mất hết lương tâm, chai lì lòng trắc ẩn, coi thường tình người, mất tính nhân bản mà hậu quả là do sự nhồi nhét một thứ chủ nghĩa lạc hậu, lỗi thời, một thứ chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cá nhân.
 Nếu bạn lên youtube mà người Việt Nam đã đưa lên. Hãy mở xem những cảnh người lớn đánh nhau trên đường phố, trong trường học với các học sinh, thậm chí các học sinh nữ. Biết bao người đứng xung quanh chỉ để xem mà không hề chịu vào để can ngăn và giúp kẻ yếu được thoát nạn. Họ quá dửng dưng như thể con tim và lương tâm của họ không còn một chút xót thương và rung cảm của đồng loại. 
Hãy nghe lời khuyên của thánh nhân: "Đừng nhìn nhau vẻ hời hợt bề ngoài, đến bên nhau trong sâu lắng khôn nguôi..." (Bài thơ Tiếng Thầm) 
 Vì chủ nghĩa cá nhân đã che lấp cái tình nghĩa con người, xem vật chất là trên hết. Văn hóa của bóng tối và văn hóa của sự chết đã làm tắt nghẽn dòng máu loài người, bóp chết trái tim biết rung cảm và xót thương, đóng cửa và nhốt lý trí lại nơi hàng rào trong bức tường ích kỷ, làm cho kém đi sự nhận thức và lu mờ để không còn có khả năng biết được những "cái đẹp sẽ cứu rỗi thế giới". Hậu quả là biết bao cảnh đau lòng sảy ra trên thế giới từ chiến tranh chết chóc, khủng bố, đánh bom tự sát, nạn bạo hành trong gia đình, học trò đánh thầy, bác sĩ thủ tiêu bệnh nhân xuống sông vì lỡ làm chết để che dấu bởi cách chữa trị hời hợt và thiếu lương tâm. Các tệ nạn, cướp bóc, giành giựt, hỗn loạn, đảo lộn mọi thứ trong đời sống. Tất cả điều đó cũng phát xuất từ các chủ nghĩa nói trên và xem thường cung cách giáo dục ở các nhà trường từ đức dục, trí dục, luân thường đạo lý, nhân lễ nghĩa trí tín, lòng đạo đức, tính thương người... 
 Có lẽ thánh nhân đã nhìn thấy một xã hội, một thế giới băng hoại đó nên ngài mới viết ra những lời tâm huyết để mời gọi và nhắn gửi đến chúng ta, nhất là nhắn gửi đến các bạn trẻ: "Các bạn trẻ tìm đường bước tới. Đường loanh quanh trăm lối về đâu. Biết chăng muốn bước qua cầu. Con đường chính đạo nhiệm mầu trong tâm..." Ôi thật là thâm thúy và nhiệm mầu ! (Bài thơ Đường Sáng).
 Bạn đọc mến,
 Như đã nói từ đầu, tôi chỉ muốn đề cập đến một góc cạnh trong lăng kính rất giới hạn của ngôn ngữ, và chỉ vỏn vẹn những vần thơ mà tôi cho đó là cái nhìn rất Nhân Sinh Quan trong đời sống đời thường của Đức Thánh Cha Gioan Phao lô II.  Những bài thơ, vần thơ tôn giáo, đạo đức, tu đức... của thánh nhân mà Giáo sư Lê Đình Thông cũng đã chuyển ngữ và khéo léo dịch thơ lại rất ý nghĩa và thanh thoát... Tôi không dám luận bàn hay phân tích, nhưng sẽ đọc mãi để cảm hóa lòng đạo đức của mình. 
 Trong tri thức và những gì là của ngài, cũng huyền nhiệm và cao cả. Từ cuộc sống đời thường nơi dương thế, đến khi ngài làm giáo hoàng, bị ám sát với bốn viên đạn xuyên qua ngực nhưng không chết, và thậm chí ngay cả thời gian mà ngài qua đời trong những ngày lễ Phục sinh và kính Lòng Thương Xót Chúa, cũng nằm trong sự huyền nhiệm đó, mà hễ điều gì, cái gì đã là huyền nhiệm thì con người và khoa học cũng không thể giải thích và chứng minh được. 
Xin bạn hãy nhắm mắt suy luận để thấy rõ hơn những gì tôi vừa đề cập. 
Vâng, tất cả nơi ngài là huyền nhiệm và cao cả đối với tôi. 
 Tôi xin mời bạn hãy đọc những vần thơ đó sớm có thể. Khi đọc những vần thơ đó là chính bạn đang thực sự cầu nguyện. Nội tâm và trí đoán của bạn một cách nào đó đang siêu thoát và có thể đang chạm đến Đấng Thượng Trí. 
 Trong tri thức và lòng đạo đức của ngài, trong tâm tình và văn chương phong phú, kiệt tác, xuất chúng của ngài trải dài trên những vần thơ đó, đích thật là huyền nhiệm nhưng giãi bày, thanh thoát nhưng tình cảm, cao sâu nhưng gần gũi, triết lý nhưng thực tế, có thể sờ mó được, nhất là tấm lòng tình cảm chân chất của ngài đối với mẹ hiền, với quê hương và với nhân thế. 
 Cuộc đời trải dài tám mươi lăm năm của ngài nơi dương thế, đã để lại biết bao điều thánh đức và gương sáng, về đời sống mục tử và chứng nhân. Nhân thế cũng đã để lại lòng thương mến, kính yêu, trân quí mà người người khắp nơi trên thế giới luôn hướng về Tòa thánh nơi căn phòng có ánh sáng lọt qua cửa sổ trong những đêm ngài hấp hối, rồi tiếng khóc vỡ òa khi tin ngài qua đời. Cuối cùng chiếc quan tài bằng gỗ tạp đơn sơ, giản dị và khiêm hạ như chính con người và đời sống của ngài. Chiếc quan tài đặt xuống mặt đất giữa quảng trường Thánh Phêrô mêng mông biển người, không có đèn nến hoa đăng, không có vải lụa gấm vóc giăng đầy như các chủ tịch của nước Bắc Hàn qua đời, cũng không trầm thơm ngào ngạt, hay khói hương nghi ngút như các vị vua chúa hay các bậc quyền quí, cao sang. Nhưng thay vào đó, ngài có hàng triệu triệu con tim khắp nơi trên thế giới, đủ mọi thành phần đã nhỏ lệ khóc thương tiếc ngài. Ngài đã sống thánh giữa trần gian và đã mang lại cho con người những điều của Chân, Thiện, Mỹ... 
 Một nhà thơ người Hoa Kỳ mang tên Ralph Waldo Emrson đã nói: "When you were born you were crying and everyone else was smiling. Live your life so at the end, your're the one who is smiling and everyone else is crying." Tạm dịch: Khi bạn sinh ra, bạn khóc mà mọi người đều cười. Hãy sống làm sao đến cuối đời khi bạn ra đi, bạn cười mà mọi người đều khóc.
 Vâng, tất cả mọi tín hữu đều đã khóc thương tiếc ngày ra đi của ngài, mặc dù ai cũng biết ra đi là khởi điểm cho ngày trở về theo quan niệm và tín lý của Ki-tô giáo.
 Người khôn ngoan thì luôn xây nhà trên đá, luôn nghĩ để dọn đường cho sự sống vĩnh hằng mai sau, còn dưới thế thì sẽ để lại tiếng thơm tiếng tốt muôn đời mà chính bia miệng của loài người sẽ nhắc mãi qua câu tục ngữ: "Trăm năm bia đá thì mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ". 
Thánh nhân biết rõ điều đó nên đã tự nói và luôn nhắc nhở lòng mình qua bài thơ ngắn ngủi của ngài sau đây: " Đời người ngắn ngủi không bằng, cây đa cổ thụ đầu làng xanh lâu. Hơn nhau cuộc sống đời sau, linh hồn sống mãi nhiệm mầu huyền vi". Hoặc là: " Đời người thân xác mất đi, linh hồn như cánh chim di miệt mài. Sau này cát bụi hình hài, bao nhiêu sự nghiệp một mai còn hoài" (Bài thơ Độc Thoại).
 Vâng, giờ đây mọi người sẽ không còn khóc nữa, nhưng sẽ cùng với ngài hân hoan tạ ơn Chúa và rồi cùng cười trong tiếng lòng với nước mắt sung sướng, nước mắt của hạnh phúc để đón nhận ơn thánh cao cả nhất mà ngài được tôn phong là Đấng Hiển Thánh như Thánh Phao lô đã khẳng định: "Qua Thập Giá, sẽ đến được Vinh Quang".
 Có lẽ đã có sự linh ứng khi ngài còn đương thời để rồi bài thơ "Bức Tường" mà ngài đã viết từ hôm nào về một vị thánh, và hôm nay vị thánh đó có lẽ chính là ngài: "Tường thẳng đứng hai bên là hốc đá. Tượng Thánh Nhân còn thanh thản nguyện cầu. Luôn mở ra trang sách thánh nhiệm mầu. Ngập tâm trí trầm hương bao điều lạ..." Ôi, thật là huyền nhiệm. Vâng, như tôi đã nói: Tất cả nơi ngài là huyền nhiệm, là cao cả !.
 Thưa bạn!
 Đến đây có lẽ bạn và tôi sẽ chợt nghĩ và sẽ đề cập đến người đã chuyển ngữ và dịch thuật hai mươi lăm bài thơ của thánh nhân, đó là Giáo sư Lê Đình Thông mà tôi có đề cập ở phần đầu.
 Tôi nghĩ rằng đây là một ơn thánh đặc biệt đã tác động cho vị giáo sư mũi tẹt da vàng, sống đời tị nạn lưu vong trên phần đất không phải là nơi chôn nhau cắt rốn của quê hương mình. Lại còn không phải khi sinh ra, vị giáo sư này được hấp thụ thứ ngôn ngữ của mẹ đẻ, gần gũi như hơi thở, như mẹ với con, mà rất xa lạ qua các ngôn ngữ Tiếng Tây, Tiếng Tàu, nhất là Tiếng Ba Lan. Nếu bạn có nói một cách rành mạch một thứ tiếng nào mà không phải ngôn ngữ của mẹ đẻ, thì cũng sẽ giới hạn trong một phạm vi nào đó của chuyên môn, trong xã giao, giao dịch hay trong đời sống thường nhật. Nhưng đối vị với vị giáo sư này thì lại khác. Ông ta đã vượt xa điều tôi tưởng. Hai mươi lăm bài thơ của thánh nhân mà ông ta đã dịch lại cũng đủ để chứng minh điều tôi muốn nói. Tôi nghĩ vị giáo sư này không những là một nhà thơ lỗi lạc mà còn là một nhà Ngôn Ngữ Học uyên thâm. 
 Có lẽ bạn và tôi không thể phủ nhận cách chuyển ngữ và dịch thuật lại, rồi diễn tả cũng chính bằng những vần thơ và tài tình chuyển qua thành các bài thơ Tiếng Việt Nam với các vần điệu, với các thanh âm bằng trắc để hoàn thành trọn vẹn từ các thể loại thơ lục bát, song thất lục bát, thơ đường, thơ tự do qua cách gieo vần thật phong phú và khéo léo, chứa đựng đầy đủ ngữ nghĩa với văn phong lôi cuốn... Nhà dịch thơ này còn lý luận, phân tích những từ của Hán Việt, rồi chọn và áp dụng vào những vần thơ nói trên. Thí dụ chữ "xiển dương" trong bài thơ Magnifica. Đây là văn từ ghép của Hán Tự mà vị giáo sư này đã dịch thuật lại để dùng từ này áp dụng cho thích hợp với cái khung cảnh, ngữ cảnh cũng như các chủ ngữ trong bài thơ Magnificat.  
Trước đây, từ ngữ này đã có một số người đã dùng, trong đó còn có cả nhà thơ, và nhạc sĩ mà một vị nào đó đã dùng từ này để đặt tên cho một bài hát với tựa đề: "Mẹ Triển Dương" có câu hát đầu: "Mẹ triển dương trên núi Li Ba Nô..." Theo Hán Ngữ thì chữ "xiển" nghĩa là "mở ra" chữ "dương" cũng có nghĩa là "rộng, lớn, bao la..." Như vậy: xiển dương có nghĩa là mở ra bao la, trong đại... "Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi bao điều trọng đại..." (Một trong đoạn kinh thánh của Thánh Luca 1, 47-55). Vậy, theo ý nghĩa, tôi nghĩ chữ "xiển dương" mới đúng và chính xác như vị giáo sư này đã dùng đến.
 Văn chương Tiếng Việt Nam rất phong phú với nhiều nét đặt thù lôi cuốn, có lẽ là nhờ âm điệu vì có các thanh âm năm dấu, sáu giọng nên tiếng Việt Nam "dễ thương" đến thế.  
 Lần đầu tiên khi đến Việt Nam và nghe Người Việt Nam nói chuyện, các nhà ngoại quốc đã quả quyết và nói rằng: "Người Việt Nam nói chuyện như hát vậy". Phải lắm, vì mỗi tiếng được phát ra là có âm điệu lên xuống bởi các thang âm của mỗi chữ mang các dấu: huyền, sắc, nặng, hỏi, ngã. Cũng thế, tiếng Việt Nam là một ngôn ngữ đơn âm và nếu dùng đơn phương hay lẻ loi một từ thì sẽ rất nghèo nàn, chính vì thế mới có các chữ được ghép lại qua sáng kiến của các học giả, nhất là các cụ xưa kia để cho tiếng Việt Nam thêm phần phong phú. 
 Những thế hệ đi trước đã ảnh hưởng rất nhiều đến chữ Nho và khi các cụ ghép lại, thường là tiếng Nôm, tiếng Hán đi đôi. Thí dụ: dân-chủ, độc- lập, thế-lực, chính-quyền, tà-quyền, v.v... Cũng thế, thiết tưởng hôm nay chúng ta gọi tên nước Việt Nam mà thiếu đi một chữ cũng là điều thiếu xót quan trọng. 
Nước Việt Nam không nên gọi tách riêng là Nước Việt, Người Việt Nam không nên nói là Người Việt, Tiếng Nói Việt Nam không phải là Tiếng Nói Việt, Nền Văn Hóa Việt Nam không phải là Nền Văn Hóa Việt, Dân Chủ Việt Nam mà gọi Dân Chủ Việt thì ra thể thống gì. V,v... 
Xin đừng chia, đừng cách, đừng xẻ đôi đất nước Việt Nam dù qua những hình thức nào đi nữa, ngay cả cái tên Nước Việt Nam, tên gọi thiêng liêng của đất nước đã có từ ngàn năm mà biết bao xương máu đã đổ xuống để bảo vệ và duy trì. Đừng xem thường rồi một lúc nào đó lâu dần thành quen miệng và cứ tưởng đó là "chân lý".  
Tôi chân tình và rất cảm phục cách chuyển ngữ rồi dệt lại và cuối cùng làm cho ra những vần thơ kiệt tác một cách trôi chảy mà bạn đang cầm trên tay. Tôi không có cơ hội đọc các bài thơ nguyên thủy của ngài, mà dẫu có đọc cũng không thể hiểu được vì có thể ngài viết bằng chính ngôn ngữ của ngài. Tuy nhiên, sau khi đọc các bài thơ đã được dịch lại, tôi đã cúi đầu để tạ ơn Chúa vì đã thấy và cảm nhận cách dịch thơ rất tài tình và tuyệt vời của Giáo sư Lê Đình Thông. Tôi nghĩ vị giáo sư này góp một bàn tay rất quan trọng để cho chúng ta hiểu thêm một góc cạnh trong đời sống văn chương của ngài, nhất là chắp cánh cho các bài thơ của thánh nhân đến với chúng ta là Người Việt Nam. 
Với sự thông thái và uyên bác, vị giáo sư này đã làm cho các bài thơ của thánh nhân ý nghĩa hơn, hay và mượt mà hơn, tô điểm và mặc thêm bộ áo để các bài thơ ấy tươi sáng, rực rỡ và duyên dáng hơn.
 Người ta thường nói "dịch" là "diệt". Nhưng với vị giáo sư này thì làm ngược lại, nghĩa là cho nó sống động hơn, đầy cảm xúc hơn qua nghệ thuật văn chương và thơ phú trời ban cho ông ta. Chính vì lẽ đó, các bài thơ ấy đã lôi cuốn trong tôi và tạo cho tôi nguồn cảm hứng lạ thường, điều mà những người làm công việc của nghệ thuật và của âm nhạc rất cần thiết và cần có. Nguồn cảm hứng ấy đã giúp tôi hoàn thành mười ca khúc phổ từ hai mươi lăm bài thơ kiệt tác đó.
 Một bài thơ hay và ý vị, ắt phải hội đủ những yếu tố cần thiết về bố cục, ý nghĩa, văn chương, cách gọt chữ, vần điệu, câu cú và điệp từ như tôi đã nói ở trên, nhất là chiều sâu của bài thơ. Tạ ơn Chúa, Giáo sư Lê Đình Thông đã có và đã đạt được những điều đó.
 Những thế hệ trước đã có các nhà thơ công giáo để đời như Hàn Mặc Tử. Lời thơ của vị này sâu thẳm, nhưng chúng ta có thể thấy máu và nước mắt trong từng câu thơ qua sự đau đớn về thể xác, nhưng cũng cho chúng ta cảm nghiệm cái tinh thần luôn biết cậy trông và phó thác. Gần đây có nhà thơ Xuân Ly Băng với các nhà thơ tiếng tăm khác, và hôm nay chúng ta có thêm Giáo sư Lê Đình Thông, một nhà thơ và một người dịch thơ tuyệt vời.
 Không phải là điều tự nhiên sắp xếp ý định của con người. Sự hiện diện hiếm có của vị giáo sư này trong những bài thơ của thánh nhân, tôi nghĩ là Thiên định. Như tôi đã nói ngay từ đầu và hay lập lại. Tôi đã nói gì ? Tôi đã nói rằng:  Tất cả những gì liên quan nơi thánh nhân là huyền nhiệm và cao cả và tôi tin tưởng điều đó, vì: "Một sợi tóc trên đầu rơi xuống, cũng là thánh ý nhiệm mầu của Thiên Chúa".
 Trong sách Luận Ngữ có câu mà Đức Khổng Tử khuyên chúng ta rằng: "Hãy lấy Đạo làm Hướng, lấy Đức làm Gốc, lấy Nhân làm Nơi Nương Tựa và lấy Nghệ làm Niềm Vui..." 
Quả thật, Giáo sư Lê Đình Thông còn làm hơn thế, vì tất cả công việc mà ông đang thực hiện không những chỉ để làm niềm vui cho riêng mình, mà còn lấy Nghệ Thuật để loan báo Tin Mừng giữa thế giới hôm nay.

 Văn Duy Tùng
Washington D.C. Ngày 15 Tháng 02, Năm 2014
---------------------------------------------------------------
Bài do tác giả gửi cho ht'blog.
Ht. xin chân thành cám ơn Nhạc Sĩ Văn Duy Tùng.