#Stats1 ul{margin:0;border:0;padding:0;height:32px;background:url(//goo.gl/ZHG881) no-repeat 0 -34px} #Stats1 li{margin:10px 0;border:0;padding:0 0 0 40px;list-style-type:none} #totalComments{height:32px;background:url(//goo.gl/ZHG881) no-repeat} #totalCount{height:32px;background:url(//goo.gl/ZHG881) no-repeat 0 -68px}

Thứ Hai, 28 tháng 1, 2013

TẶNG CHỊ EM

NHT. Bây giờ thịt bẩn hơn rau, chị em nên làm món chay cho gia đình :  

LAN MAN SÁCH CŨ


Lan man sách cũ
by Khuong Ha Bui on Saturday, January 26, 2013 at 3:51am •
Những ngày đầu tiên sống ở Sài Gòn, tôi còn rảnh rỗi nên tham gia một câu lạc bộ thơ văn trẻ của Nhà văn hóa Thanh Niên. Phương Lan cũng là thành viên của CLB, chị học khoa Văn nên hiểu biết nhiều về văn học. Một ngày đẹp trời, tôi thấy Lan cầm vài cuốn sách, trong đó có cuốn Uyên Ương Gãy Cánh của Kahlih Gibran. Cuốn sách mỏng dính, gáy te tua, bìa xơ xác vá chằng vá đụp, giấy màu ngà đã ngả sang nâu, đây đó loang lổ vết nước… Nói chung nhìn nó rất tội nghiệp bên cạnh những cuốn sách giấy trắng tinh (pha bột đá đó mà), nặng chịch và cáu cạnh mới in xong.
Đó là lần đầu tiên tôi thực sự “gặp” một cuốn sách cũ. Đó, cũng là lần đầu tiên tôi hiểu thế nào là “tiếng sét ái tình”. Người yêu đầu đời của tôi đúng theo kiểu “hình thức phản bội nội dung”: nàng trần trụi một cách sexy và rách rưới một cách kiêu kỳ. Nàng bay bổng, ngập tràn tình yêu và thơ mộng đến khó thở. Và mùi hương của nàng là điều mà tôi sẽ không bao giờ quên được. Đó là tổng hòa của rất nhiều thứ: mùi bụi, mùi ẩm mốc, mùi nồng nồng của bột gỗ ngày càng đậm vì bị nhiều thứ mùi khác xung quanh ảm vào sau mấy chục năm… Ngoài ra, thứ mùi đó còn làm tôi nhớ lại tuổi thơ của mình. Hồi xưa ông nội là thợ mộc. Phía sau bếp có một gian phòng rộng, một  bên nuôi heo, một bên là “xưởng mộc” nơi ông giắt cây viết chì lên tai mà cưa búa, gọt đẽo suốt ngày. Tôi thường tha thẩn chơi ở đó với những mảnh gỗ vụn, dăm bào. Mùi dăm bào tươi và ngòn ngọt, nhưng chỉ cần một hai tuần thì nó sẽ khô và có mùi gỗ cũ khi để ở chỗ tối tăm ẩm ướt lâu ngày.
Chính vì nàng sở hữu thứ “mùi hương của tuổi thơ” đó, mà tôi đã bị nàng dẫn dụ vào một thế giới hoàn toàn mới mẻ, và cũng là khởi nguồn của rất nhiều cơ duyên trong đời tôi sau này. Nhưng đó là một câu chuyện khác, sẽ kể trong một dịp khác.
Sau lần gặp gỡ đầu tiên và “fall in love” lập tức với sách cũ, tôi được Phương Lan dẫn tới vài tiệm sách cũ trên đường Nguyễn Thị Minh Khai. Mãi sau này, khi đã lùng sục ở khá nhiều nơi, tôi mới biết đó là khu “chém đẹp” nhất nhì Sài Gòn. Sau 1975, hầu hết sách được in dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa đều bị tịch thu. Bởi vậy, những đầu sách còn sót lại trở  nên ngày một khan hiếm và giá khá cao so với sách mới. Bố tôi kể, hồi những năm 80s, bố từng phải cắn răng mua bộ Tam Quốc Diễn Nghĩa do Mộng Bình Sơn dịch năm 1966 với giá… 4 chỉ vàng. Tuy nhiên, sau vài chục năm, khi khoảng cách giữa hai miền không còn quá hằn sâu, dòng sách cũ in trước 75 trở thành mục tiêu săn lùng của những người ưa hoài niệm và những kẻ thích sưu tầm. Bởi vậy, những đầu sách quý hiếm bắt đầu xuất hiện nhiều trở lại trên thị trường nên giá cả cũng dần trở nên hợp lý hơn. Nguồn gốc của những cuốn sách từng bị “truy sát” này thường là từ tủ sách gia đình, bố mẹ chết đi để lại một mớ sách mà con cháu chỉ thấy chật nhà; hoặc từ các thư viện; hoặc, thậm chí, từ trong kho của “bên thắng cuộc”, khi họ tịch thu và vứt xó cả một thời kỳ huy hoàng của văn chương Việt.
Năm 2009, tôi mua bộ Tam Quốc Diễn Nghĩa do Tử Vi Lang dịch với giá 750k, theo nhiều người thì đó là mức giá khá đúng, tuy nhiên có thể thấy nó chênh lệch rất lớn với giá mà bố tôi phải mua (dù là bản dịch khác). Cho đến bây giờ, nếu bạn vào trang sachxua.net, diễn đàn về sách cũ lớn nhất của VN, sẽ thấy hầu hết các đầu sách đều đã có một mặt bằng giá chung khá đồng nhất. Nơi đây là cả một thế giới online mua bán sách cũ nhộn nhịp. Có người mua về đọc, có người mua về để… ngắm, có người mua đi bán lại, số dân buôn sách chuyên nghiệp cũng không ít. Thỉnh thoảng tôi cũng đặt mua vài cuốn, nhiều cuốn cũng chỉ để… ngắm và hẹn lên hẹn xuống ngày nào đó sẽ cùng nàng tình tự. Nói thêm một chút, cũng nhờ mua sách trên trang web này mà tôi có thêm một số người bạn rất hay ho sau mấy phi vụ “gặp mặt giao hàng”.
Tôi thì không thích sách in trong thời kỳ bao cấp cho lắm, dù nó cũng là sách cũ, nhưng in quá xấu và lại vô cùng phổ biến, có thể tìm bất cứ nơi đâu thì tại sao ta không mua sách mới in lại cho nó tử tế và có vẻ tôn trọng nội dung cuốn sách hơn?! Sách in trước 75 thường dùng loại giấy tốt và nhẹ tênh, màu ngà vàng đỡ hại mắt hơn giấy trắng bây giờ, và rất ít lỗi mo-rát, chưa kể bìa thường rất đẹp do chủ yếu dùng tranh minh họa của các họa sĩ có tiếng thời đó. Quan trọng nhất là, trước 75, Sài Gòn có rất nhiều cuốn sách triết, văn học nước ngoài rất hay được dịch ra tiếng Việt mà mãi đến tận giờ vẫn chưa hề được tái bản lại. Chưa kể có những tác giả Việt Nam với nhiều tác phẩm có giá trị, mà nếu không nhờ internet và sách cũ, tôi sẽ không bao giờ có may mắn được biết đến tên họ.
Mỗi cuốn sách thời đó thường in mỗi lần đến mấy nghìn bản, mà có khi bán hết veo trong một thời gian ngắn. Cứ thử làm một phép so sánh thật đơn giản: sách in của Sài Gòn trước 75 đương nhiên gần như chỉ có dân miền Nam được đọc, trong khi dân số hồi đó không thể mang ra so với dân số hiện nay. Vậy mà, thời bây giờ, có những cuốn sách thực sự có giá trị, mà với 90 triệu dân với tỉ lệ mù chữ thấp hơn rất nhiều so với ngày xưa, NXB chỉ dám rón rén in… 500 bản. Chỉ chừng đó, mà vẫn tồn kho.
Một điều khác khiến sách cũ trở nên đặc biệt, đó là vì nó… cũ, tức là nó có đời sống riêng, nó nhiều tuổi hơn mình, nó chứng kiến nhiều điều hơn mình. Đôi khi, tôi mua một cuốn sách cũ chỉ bởi vì trông nó như một cô gái già tội nghiệp, rất thảm hại dù đã từng một thời vàng son được nâng niu trìu mến. Đôi khi cô còn là nạn nhân hay chứng nhân của lịch sử. Cô, với tâm hồn hoài cổ, chỉ thích nói về những điều đã cũ, đã bị lãng quên và có nguy cơ bị vứt vào sọt rác. Còn gì đáng buồn hơn một đời sống bị vứt vào sọt rác? Tôi không đến mức tin sách có linh hồn, nhưng chắc chắn một điều, nhưng ai mê đọc sách đều cảm nhận được sức sống của chúng truyền qua mình khi lần giở từng trang, đọc ngấu nghiến từng dòng chữ, từng câu chuyện. Tôi nhận ra rằng, bất cứ cuốn sách nào, dù cũ đến đâu, dù nói về điều gì, đều mang lại cho ta ít nhất một kinh nghiệm nào đó. Thậm chí, dù có là loại kinh nghiệm kiểu như “biết vậy đừng đọc cuốn sách dở ẹc này”, thì cũng là một kinh nghiệm không tệ. Vậy thì, cớ gì ta lại bỏ qua một cô gái già, khi nàng có thể kể cho ta rất nhiều điều về tình yêu, về cuộc sống?
Tôi cứ nhớ mãi một kỷ niệm rất đáng xấu hổ về cái lần đi xem sách ở tiệm Minh Ngọc trên Nguyễn Thị Minh Khai. Bữa đó, tiệm này có bán cuốn Ý Thức Mới Trong Văn Nghệ Và Triết Học của Phạm Công Thiện, một tác giả mà tôi rất thích. Đây cũng là một trong những cuốn sách rất quan trọng trong sự nghiệp và góp phần làm nên tên tuổi của Phạm Công Thiện ngày xưa. Cuốn sách đề giá 350k - một số tiền không quá lớn, nhưng không hề nhỏ so với một kẻ vẫn còn ăn bám bố mẹ như tôi thời đó. YTMTVNVTH là một cuốn sách khá hay và hiếm. Bởi vậy tôi thèm lắm. Tôi cứ đi ra đi vào, lượn qua lượn lại, suy tính đắn đo mãi dù biết chắc là mình chẳng dám mua. Bạn tin không, lần đầu tiên trong đời, tôi nảy ra ý định… ăn cắp. Ông chủ tiệm thì đã bắc một cái ghế đẩu, đang ngồi đốt thuốc rung đùi nhìn ra ngoài đường, chỉ còn mình tôi trong tiệm và đấu tranh khổ sở với cái điều xấu xa vừa nhen nhúm trong đầu. Tôi nhìn xuống túi xách của mình: dư sức nhét cuốn sách vào mà không ai biết. “Mình có nên lấy không?”, tôi nghĩ. Tôi đứng thần người ra đến năm phút vì hồi hộp và phân vân. Nhưng rồi ngay lúc đó, tự nhiên tôi nghĩ đến bố. Trong các bữa cơm gia đình, bố tôi thường vừa ăn vừa… càm ràm anh em tôi vì những lỗi lầm, hoặc kể những câu chuyện nho nhỏ để dạy chúng tôi về tư cách của một con người. Hình ảnh bố mặt nhăn nhăn, vừa nhai vừa nói, tay cầm chén cơm, tay cầm đôi đũa ve vẩy vẽ vời trước mặt để minh họa cho những câu chuyện của ông khiến tôi tự nhiên sực tỉnh và có được quyết định cuối cùng: thôi về! Tôi ra về và cũng không mua cuốn sách nào khác, đơn giản vì không có tiền.

Ý Thức Mới Trong Văn Nghệ Và Triết Học - tác phẩm của Phạm Công Thiện viết khi chưa được 19 tuổi.
Từ sau lần đó, tôi bắt đầu có ý thức để dành tiền đi mua sách cũ. Những cuốn sách hay và hiếm thường có giá khá cao, gấp đôi gấp ba sách mới in, nhưng nếu đủ khả năng, tôi vẫn mua. Tôi sung sướng ngắm tủ sách của mình ngày càng đầy thêm với những gáy sách te tua, cũ kỹ. Những cuốn rách nát quá, tôi mang đi đóng bìa lại cẩn thận. Rồi khi tôi bắt đầu đi làm, có chút tiền, tôi còn mang những cuốn mình rất quý đi đóng bìa da thật, mạ chữ vàng, giá đóng sách khoảng 70-100k một cuốn (bây giờ có lẽ khoảng 150k). Cách nào đó, thật là phung phí và xa xỉ. Nhưng biết làm sao được, mỗi người đều có vài thói quen, vài tính xấu, vài đam mê nào đó. Đam mê sách cũ thì vô hại, và cũng tự nhiên như chuyện yêu đương vậy thôi. Đã yêu, thì làm sao cưỡng lại được, phải không?
Vậy mà thời gian gần đây, không hiểu sao tự nhiên trong tôi nhen nhóm cái ý nghĩ sẽ “giải tán” mớ sách cũ của mình, chỉ giữ lại cuốn nào thực sự yêu thích. Khi ta không còn đủ thời gian để thưởng thức, không còn đủ sức giữ tất cả những mối tình bên mình, thì ta để các nàng ra đi. Tôi chỉ nghĩ đơn giản rằng, nếu đã không hẳn là tri kỷ, thì ta giữ lại có khác gì giam hãm, trong khi còn biết  bao nhiêu trái tim ngoài kia chờ đợi các nàng?
Nghe đồn khi người ta bắt đầu biết buông, bắt đầu biết tha thứ, là khi người ta bắt đầu già. Nghĩ thấy cũng hơi chạnh lòng, hehe :D…
(chép lại  từ Email Bố của Khương Hà gửi cho bạn bè)

Thứ Sáu, 25 tháng 1, 2013

ÁP MẶT VÀO TƯỜNG

Tôi đứng áp mặt vào tường 
muốn khỏi phải nhìn thấy sự thật
đang xảy ra trước mắt 
khi cái mặt anh chạm xi măng cứng ngắc 
thì nhãn quan thu hẹp nhiều phần
chỉ còn thấy xám cứng là xám cứng
còn hơn nhìn những mảng khác khốn cùng
Những chém giết hành hạ người cô thế
những ăn chặn lừa đảo những cướp bóc giữa thanh thiên
những văn hóa văn ho (*)..rất ...hồn nhiên
dù gì toàn dân ta vẫn đoàn kết
lại những ba hoa súng không cần... điếc
những cái gọi là 
qua đó thấy đạt nhiều thắng lợi
ối giời ơi
những cái ghế mọt cuối đời
lại thêm những đớn hèn khiếp nhược
cái đau ai cũng cảm mà ít người dám than
mồm câm miệng còn có cơm ăn
còn sổ hưu còn thản nhiên ra phố
còn Tết còn lô-tô 
còn ô hô năm mới
nhắm mắt lại cho con ngươi đỡ mỏi
dẫu biết sự thật đã len lỏi vào trong
đâu chỉ thị giác có công
những đắng cay chua xót không do cái lưỡi
còn mừng vì con tim có tuổi
kinh nghiệm đời cho tướm máu ra
thôi cứ giãy giọn đi chẳng thà
lại thương nhà 
năn nỉ
mất thì giờ lướt quá
đừng gõ nữa
úp mặt vào tường
đứng thế
hình như 
xem ra
bình ổn
máu có dồn xuống hai chân
thấp khớp là bệnh thường ai cũng phải
chịu vậy.
NHT
(*) ...văn ho rất hồn nhiên...
Ảnh trên FB QV.

VĂN CAO - MỘT THIÊN TÀI BỊ LƯU ĐÀY

TRẦN MẠNH HẢO
Văn Cao - Ảnh NĐT
Văn Cao – Ảnh NĐT
“Trong âm nhạc, Văn Cao sang trọng như một ông hoàng. Trên cánh đồng ca khúc, tôi như một đứa bé ước mơ mặt trời là con diều giấy thả chơi. Âm nhạc của anh Văn là âm nhạc của thần tiên bay bổng. Tôi la đà đi giữa cõi con người. Anh cứ bay và tôi cứ chìm khuất. Bay và chìm trong những thân phận riêng tư….” – (Trịnh Công Sơn)
Năm 2013 này là năm kỷ niệm 90 năm ngày sinh của thiên tài văn nghệ Văn Cao  - người đã tự lưu đầy mình vào vĩnh cửu bằng ba tài năng lớn : hội họa, thi ca và âm nhạc. Văn Cao nhà cải cách tiền phong cả ba nghệ thuật : hội họa, âm nhạc và thi ca. Bài này chỉ nói về kiếp nhạc của Văn Cao.
Không đợi khi xuân đến, tết về như dịp này, chúng tôi mới nghe lại bản nhạc bất hủ : “Mùa xuân đầu tiên” Văn Cao khởi viết  cuối tháng 12-1975, hoàn thành trong dịp tết Bính Thìn năm 1976. ( Xin quý bạn đọc vào công cụ tìm kiếm : www.google.com , rồi đánh tên bản nhạc để có thể nghe rất nhiều ca sĩ hàng đầu hát bài : “ Mùa xuân đầu tiên” này).
Đây là bài hát có số phận đặc biệt nhất trong cuộc đời sáng tác của Văn Cao. Đây cũng là bài hát mang nhiều tâm trạng đối lập, hòa trộn nước với lửa  : vui ít, buồn nhiều, mừng ít, tủi nhiều, hoan ca ít, bi ca nhiều, tha thiết ít, nghẹn ngào nhiều, bâng khuâng ít, đau đáu nhiều, tự sự ít, ai oán nhiều, mê say ít, thở than nhiều, cứng cỏi ít, run run nhiều, da diết ít, nỉ non nhiều, cười ít, khóc nhiều, sum họp ít, cô đơn nhiều, yêu thương ít, đau thương nhiều, gặp gỡ ít, bơ vơ nhiều…
Hầu như tất cả các trạng thái tình cảm trái ngược nhau của con người đều có trong bản nhạc kỳ lạ này : ai vui hát lên thì nghe vui, ai buồn hát lên thấy buồn não ruột, ai đau khổ hát lên thấy một trời đau khổ, ai sầu thảm hát lên thấy cả một thế giới sầu thảm đang đồng cảm cùng mình…
Nghe đi nghe lại bản nhạc này, ta thấy xuất hiện trong tâm trí mình rất nhiều tâm trạng không thể dùng ngôn ngữ diễn đạt. Nếu bạn đã hoặc đang đi qua bể khổ trần gian, nghe bản nhạc “ Mùa xuân đầu tiên” bạn sẽ cảm thương, nhờ nước mắt diễn đạt nỗi lòng mình.
Riêng lời bài hát đã là một bài thơ hay :
“Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về
Mùa bình thường mùa vui nay đã về
mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên
Với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông
một trưa nắng cho bao tâm hồn.
Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về
Người mẹ nhìn đàn con nay đã về
Mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên
Nước mắt trên vai anh, giọt sưởi ấm đôi vai anh
Niềm vui phút giây như đang long lanh.
ôi giờ phút yêu quê hương làm sao trong xuân vui đầu tiên.
ôi giờ phút trong tay anh đầu tiên một cuộc đời êm ấm.
Từ đây người biết quê người
Từ đây người biết thương người
Từ đây người biết yêu người .
Giờ dặt dìu mùa xuân theo én về
Mùa bình thường, mùa vui nay đã về.
Mùa xuân mơ ước ấy xưa có về đâu
với khói bay trên sông, gà đang gáy trưa bên sông
một trưa nắng thôi hôm nay mênh mông.”
Rất nhiều chim én, nhiều nắng gió, có nước mắt vui gặp gỡ của đàn con nay đã về, có cuộc đời êm ấm…nhưng sao hình ảnh “khói bay trên sông, gà đang gáy trưa trên sông” lặp lại hai lần làm không gian của “Mùa xuân đầu tiên” xa xôi, bơ thờ thế, xao xác thế, hoang vắng thế, hiu quạnh thế, đơn độc có phần cô đơn thế ? Chợt nhớ nỗi buồn thiếu quê hương của Thôi Hiệu trong Hoàng Hạc lâu xưa, cũng một tiếng gà trưa Văn Cao nay, một khói sóng trên sông xa Văn Cao nay, u hoài khôn xiết  : “ một trưa nắng thôi hôm nay mênh mông” :
Nhật mộ hương quan hà xứ thị,
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
(Trời về chiều tối, tự hỏi quê nhà nơi đâu?
Trên sông khói tỏa, sóng gợn, khiến buồn lòng người!)
Chợt nhớ Lưu Trọng Lư “thời con nai vàng ngơ ngác” với câu thơ tiền chiến xưa sao rất đồng cảm với nỗi vui não nùng Văn Cao nay : “ Tiếng gà trưa xao xác não nùng”.
Bài hát như một điệu valse bằng nước mắt; sự thướt tha, quý phái của một giai điệu bi thương; sự sang trọng của ngậm ngùi, day dứt; sự lãng mạn của một phiêu linh, xô dạt; sự mê đắm của một vu vơ; sự đoan trang của cái đẹp lỡ thì; sự liêu trai của ngơ ngác, đìu hiu; sự dịu dàng của nỗi thương đau, xót nhớ….
Chừng như đã mấy chục năm chiến tranh liên miên chưa từng có xuân về ? Chừng như gần hết cả đời người bận chuyện đấu tranh giai cấp giành giật  miếng ăn chưa từng thấy chim én báo xuân ? Chừng như đã rất lâu rồi sự căm thù trùm lên xã hội không còn ai biết thương người ? Chừng như đã lâu lắm rồi ta tha hương trên chính quê hương mình ? Chừng như suốt mấy cuộc chém giết kinh hoàng mạo danh cách mạng, không còn ai biết yêu con người ? Chừng như mấy mươi năm rồi con người đã quên mình còn nước mắt ? Chừng như lâu rồi tâm hồn người không được sưởi nắng mùa xuân ?
Và chừng như lâu lắm rồi Văn Cao quên không còn nhớ mình từng là nhạc sĩ lãng mạn đã có cả chục ca khúc vào hàng kiệt tác ? Chừng như cây đàn piano cũ kỹ do Hội nhạc sĩ Việt Nam cho Văn Cao thuê mỗi tháng 07 đồng, ( thuê căn gác chật hẹp cũ kỹ 108 Yết Kiêu 15 đồng) đã bị thời gian phủ bụi đầy rêu mốc ? Chừng như đôi tai Văn Cao đã bị súng đạn thời cuộc, sự hò hét xướng ca hò vè phục vụ chính trị một thời làm ù đặc, khi tất cả các kiệt tác âm nhạc của ông đều bị chế độ Việt Nam dân chủ cộng hòa ( Miền Bắc) cấm hát, trừ bài quốc ca  ( kể cả thơ Văn Cao cũng bị cấm) ?
Và chừng như toàn bộ vết thương cuộc đời Văn Cao, vết thương cuộc đời dân tộc, bỗng mượn ngón tay ông mà nhỏ xuống cây đàn piano những giọt nước mắt giai điệu, khiến những vết thương chợt mở miệng ca hát : “Mùa xuân đầu tiên”
Chừng như nỗi niềm ngày 30 tháng tư năm 1975 : “có một triệu người Việt Nam vui thì cũng có một triệu người Việt Nam buồn” ( lời ông cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt) đã hiện ra nơi bài hát : “ Mùa xuân đầu tiên” của Văn Cao ? Trong bài hát ấy, kỳ lạ thay, tôi nghe có một nửa nước vui thắng trận trào nước mắt và một nửa nước buồn thua trận cũng trào nước mắt, chợt ôm chầm lấy nhau mà quằn quại, mà dằn vặt giằng xé nhau, cười khóc mếu máo bầm dập nhau, nên vui ấy sao buồn hiu hắt thế, lênh đênh phiêu bạt thế, nức nở nghẹn ngào thế ?
Có lẽ, chính vì những điều trên mà kiệt tác “ Mùa xuân đầu tiên” của Văn Cao sau khi được báo “Sài Gòn giải phóng” in trước  tết Bính Thìn: 01- 01 – 1976, được hát trên Đài Tiếng nói Việt Nam mấy lần liền bị cấm suốt 24 năm ( 1976-2000). Sinh thời, Văn Cao không được nghe, được nhìn thấy đứa con tinh thần lớn lao này của mình được trình diễn. Sau khi ông mất ( 1995) 05 năm, “ Mùa xuân đầu tiên” mới ra khỏi nhà tù kiểm duyệt của chế độ.
Xin quý bạn đọc hãy nghe nhà thơ, họa sĩ Văn Thao, con trai trưởng của nhạc sĩ Văn Cao kể sơ qua về sự ra đời của bài hát này :
“Sau khi bài TIẾN VỀ HÀ NỘI ra đời cuối năm 1949, bố bị đưa ra kiểm điểm và bị phê phán khắp nơi. Từ đó bố đã thề, sẽ không sáng tác ca khúc chính trị nữa… Nhưng rồi những năm tháng sau này đôi lúc hứng khởi bố vẫn sáng tác. Vẫn biết có sáng tác ra cũng chẳng được dàn dựng…
Tôi còn lưu giữ được một số tác phẩm của ông sáng tác sau này nên tôi hiểu những điều ông nói. Giá như ông không bị rơi vào cái nạn “Nhân văn” và bị “vô hiệu hoá” mất 30 năm thì tôi chắc rằng ông sẽ còn sáng tác được thêm nhiều tác phẩm cho nền âm nhạc Việt Nam.
Những ngày tháng sau đó, căn gác nhỏ nhà Văn Cao không lúc nào ngớt khách. Những khuôn mặt bừng sáng. Những nụ cười rạng rỡ. Những giọt nước mắt sung sướng bên những ly rượu tràn đầy và có cả những khuôn mặt, một thời không dám bước chân đến căn gác nhỏ này vì sợ “bị vỗ vai”.
Văn Cao đã sáng tác xong ca khúc MÙA XUÂN ĐẦU TIÊN vào đúng dịp tết Bính Thìn.”
(trích bài “Văn Cao với ca khúc “Mùa xuân đầu tiên” của Văn Thao in trên “Tạp chí Sông Hương” số 179-180)
Văn Thao tiết lộ tiếp rằng, bài hát bị cấm ở Việt Nam nhưng bên nước Liên Xô người ta lại dịch sang tiếng Nga, phát trên Đài phát thanh Matxcova :
“Nhưng cũng thật bất ngờ (không hiểu bằng con đường nào), trong cái năm 1976 ấy MÙA XUÂN ĐẦU TIÊN đã được in ở nước Nga và được Liên Xô trả nhuận bút cho tác giả 100 Rúp. Văn Cao phải viết giấy uỷ quyền qua sứ quán để con gái ông đang học bên đó lĩnh hộ. Ông bảo con gái: “Con cứ lấy mà tiêu, ở nước mình bao lâu nay bố có được biết đến đồng nhuận bút tác phẩm nào đâu.””
Qua tiết lộ trên của anh Văn Thao, con trưởng nhạc sĩ thì nhà ông Văn Cao trên căn gác nhỏ 108 Yết Kiêu suốt một thời luôn luôn có công an ngầm canh gác, ai đến đều “ bị vỗ vai” hỏi tên tuổi, xem đến nhà tên phản động “Nhân Văn” làm gì ? Người viết bài này sau năm 1975 có lần đến thăm nhạc sĩ Văn Cao để cho ông mượn cuốn tiểu thuyết vĩ đại : “Giờ thứ 25” của văn hào Romania Constantin Virgil  Gheorghiu ( 1916-1992) mang ra từ Sài Gòn như đã hứa, cũng đã từng bị công an mật “vỗ vai” hỏi đi đâu ? Bèn bảo : đi phỏng vấn tác giả “Quốc ca” viết bài in báo cũng bị cấm à ? Người “ vỗ vai” hất đầu cộc lộc : “Vào đi “.
Người ta đã cầm giữ Văn Cao như một tù nhân lương tâm bị giam lỏng, một thứ nhà tù tại chỗ, nhà tù nhân dân kiểu xã hội chủ nghĩa. Rằng Văn Cao bị vô hiệu hóa suốt 30 năm vì tội Nhân Văn – Giai Phẩm. Rằng suốt 30 năm ấy, nhạc sĩ Văn Cao sống rất nghèo khổ, “ bố có được biết đến đồng nhuận bút tác phẩm nào đâu “.
Chúng ta lại được nghe người con trai thứ của nhạc sĩ Văn Cao, nhà thơ Nghiêm Bằng kể sơ qua về sự ra đời của “ Mùa xuân đầu tiên” :
“Đó là một đêm vào giữa tháng 12-1975. Chúng tôi đang sống với cha mẹ trong ngôi nhà số 108 Yết Kiêu. Mùa đông Hà Nội rét tê tái. Cha tôi đã từ lâu rồi không đàn. Vậy mà trong đêm ấy, tôi nghe có tiếng chân nhè nhẹ lần từng bước từ phòng trong ra gần chiếc đàn piano – đối diện với chiếc đivăng tôi đang ngủ.
Một giai điệu khe khẽ vang lên, nó được đàn bởi một bàn tay phải. Cũng phải nói thêm là cha tôi đã đàn trên chiếc đàn vốn được Hội Nhạc sĩ VN cho thuê lại với giá 7 đồng rưỡi một tháng (lương tôi hồi đó là 63 đồng, còn tiền thuê nhà là 15 đồng); từ ngày kỷ niệm 30 năm Tiến quân ca (1974), chiếc đàn mới được tặng hẳn cho cha tôi thì cha lại rất ít có dịp dùng đến.
Bài hát đã được báo Sài Gòn Giải Phóng số năm mới 1-1-1976 in trang trọng ở bìa 4 và thu thanh ngay sau đó, được phát trên sóng Đài Tiếng nói VN, nếu tôi không nhầm thì do ca sĩ Trần Khánh và đoàn ca nhạc Đài Tiếng nói VN trình bày. Bài hát được phát khoảng mươi lần trong chừng một tháng (hồi ấy ca khúc được truyền bá chủ yếu qua sóng phát thanh), rồi không hiểu sao lặng lẽ chìm đi, như thể bị quên lãng.
Như mọi lần, trong suốt mấy chục năm, cha không tỏ ra bực bội gì, chỉ hơi buồn thôi. Cha tôi nói chắc chắn bài hát sẽ có ngày được hát lại và mọi người sẽ yêu nó. Và như mọi lần, cha tôi lại đúng. Chỉ có điều lúc đó cha tôi không còn nữa. Khi bài hát lần đầu tiên được phát trên sóng truyền hình Việt Nam năm 2000, cha tôi đã mất được năm năm.”
Nhà thơ NGHIÊM BẰNG
THU HÀ ghi
Nhà văn Vũ Thư Hiên, trong tác phẩm “ Đêm giữa ban ngày”, kể lại lời Văn Cao nói với ông về Tố Hữu hay Trường Chính chủ trương đánh “Nhân Văn”, kể lại chuyện ông lãnh tụ Trường Chinh cho gọi Nguyễn Tuân và Văn Cao lên cảnh cáo sau vụ “ Nhân Văn – Giai Phẩm” < *1 *> (xem thú thích dưới bài )
Xuân Diệu đấu tố Văn Cao là trùm phản động, là đầu sỏ chống cộng < *2*> ( xem chú thích cuối bài)
Với tất cả tội trạng tày trời do Xuân Diệu đấu tố Văn Cao công khai trên báo chí, tội của Văn Cao có khi còn to hơn tội của bà nhà văn Thụy An và ông Nguyễn Hữu Đang ( cùng bị án 15 năm tù giam, 05 năm quản thúc vì hai người này bị cho là đầu sỏ gây ra vụ  án chống đảng “ Nhân văn – giai phẩm”). Sở dĩ Văn Cao thoát tù mọt gông vì ông chính là tác giả Quốc ca.
Ngay sau vụ “ Nhân Văn”, nhà nước cộng sản tính lấy một bài hát “Cách mạng tiến quân” của Đỗ Nhuận làm bài quốc ca, thay bài “ Tiến quân ca” của Văn Cao nhưng việc không thành. Mấy năm sau, năm 1981 nhà nước mở cuộc thi quốc ca trong suốt hai năm, quyết thay bài hát của tên phản động đang bất đắc dĩ dùng làm quốc ca; nhưng mấy trăm bài dự thi thay đổi quốc ca, không bài nào được chọn ( vì quá tẻ nhạt) để thay thế bài ca lịch sử của Văn Cao.
Nếu không có bài quốc ca che chắn, có lẽ Văn Cao có thể đã chết trong tù Cộng sản? Một Văn Cao mềm mỏng, nồng nàn, say đắm, lãng mạn tận cùng ( với các ca khúc bất diệt : “Buồn tàn thu”, “Suối mơ”, “Bến xuân”, “Trương Chi”, “ Thiên Thai”…) trong một Văn Cao tỉnh bơ, quyết liệt, lạnh băng, thần kinh thép, thậm chí dữ dằn, sắt máu : “ thề ăn gan uống máu quân thù” … “ đường ta đi xây xác quân thù”…đến cùng tận khi một mình một xe đạp, đến tiệm hút thuốc phiện ở Hải Phòng, dương khẩu súng lục số 7165 của tổ chức ( do Nguyễn Đình Thi trao) nhắm thẳng vào đầu Đỗ Đức Phin ( bị Việt Minh cho là tay sai của Nhật) tuyên án từng lời đanh thép : tao bắn mày vì mày là Việt gian tay sai giặc Nhật ! Đoạn, Văn Cao bóp cò súng cái đoàng, đầu Đỗ Đức Phin nức toác, tóe máu; rồi ông thủng thẳng nhét súng vào thắt lưng, đủng đỉnh đạp xe đi như đang dạo mát…
Sau này, cả cuộc đời còn lại, Văn Cao vô cùng ân hận vì đã bắn chết một con người là Đỗ Đức Phin. Đến nỗi, sự sám hối quằn quại khôn xiết này đã khiến ông không còn dám gõ lên piano những giai điệu lãng mạn tuyệt đẹp thuở ban đầu  kiểu “Suối mơ”, “Bến xuân”… nữa; vì ông có cảm giác tay mình còn nhuốm máu đồng loại. Thế mà, có những kẻ vô lương tâm, can dự vào việc giết chết hàng chục triệu đồng bào vô tội của mình mà vẫn vênh mặt tự hào, chẳng một chút ăn năn sám hối !
Nghe nói Văn Cao còn bắn sẩy ( bắn hụt) hai mật thám Nhật tại Hà Nội  là Cung Đình Vạn và Võ Văn Cẩm ( không biết có phải vì ông căm thù quân Nhật từng giết bố vợ mình là cụ Nghiêm Xuân Huyến – một chủ báo, chủ xuất bản lớn Hà Nội từng bị Nhật thủ tiêu trong tù ?). Một con người như thế không dễ gì thỏa hiệp, đầu hàng, thà chết cho điều mình tin yêu hơn là phải sống như một chiếc bóng trong suốt hơn ba mươi năm bị giam lỏng trong án tù thả rông : “Nhân văn – Giai phẩm”…
Có lần, Văn Cao kể cho người viết bài này (trong một bàn rượu đơn sơ “cuốc lủi”, lạc rang, đậu phụ mắn tôm, với bạn tâm giao : nhà văn Mạc Phi, nhà văn Sơn Tùng…) rằng : “ Sau vụ Nhân Văn, anh em “chống đảng” chúng tôi, ngoài mấy người bị án tù 15 năm, tất cả đều bị đi cải tạo lao động trên Tây Bắc. Trong chặng đường đi đày trên tàu hỏa, dù tôi đang đau dạ dày nặng sắp chết vẫn bị điệu đi, mấy lần tôi đã toan nhảy xuống đường tự tử khi tàu chạy, nhưng hình bóng đàn con lóe lên trong đầu như ánh chớp, hình bóng bà Băng ( bà Nghiêm Thúy Băng – phu nhân nhạc sĩ) còng lưng nuôi đàn con bơ vơ mất bố, tôi liền bỏ ý định tự sát để tiếp tục sống hèn mà trở về nuôi con…”…
Có lẽ men “cuốc lủi” làm Văn Cao cảm động, tay ông run run, kể tiếp : “ Thảm nhất là khi ở nơi cải tạo lao động, đến bữa ăn, cứ thấy mình ngồi bàn nào là anh em ( cùng bị đi đày lao động) lại tìm sang bàn khác ngồi, không ai chịu ngồi cùng bàn ăn với kẻ đầu sỏ Nhân Văn, đến nỗi chị nuôi trại đi đày phải xẻ một suất cơm ôi cá thối cho tôi ngồi một mình một bóng mà ăn cho khỏi chết đói chứ nào có ngon lành gì …”
Ngày 30 tháng tư 1975, ngày kết thúc 30 năm chiến tranh, theo mấy người con và mấy người bạn thân của nhạc sĩ kể lại, Văn Cao im lặng không nói gì, không reo mừng hò hét vỗ tay vỗ chân rầm rập trong hàng nghìn ca khúc khẩu hiệu điếc tai như phần lớn đồng nghiệp đã hét. Có lẽ, ông nghĩ rằng, nhờ chiến thắng này mà có thể thân phận “ tù tại ngoại” của ông cũng sẽ được giải phóng, thoát án giam lỏng nhân văn chăng ?
Dồn nén khát vọng tự do mấy chục năm, dồn nén khát vọng hòa bình mấy chục năm, dồn nén khát vọng mùa xuân mấy chục năm, dồn nén khát vọng thoát khỏi “nhà giam tư nhân” mấy chục năm, dồn nén khổ đau buồn hận mấy chục năm, dồn nén oan ức bị chà đạp mấy chục năm, chợt một sáng cuối đông, đầu xuân năm 1976, vỡ òa cảm xúc, vỡ òa nước mắt nhỏ giọt yêu thương, nhỏ giọt mật đắng nghẹn ngào lên từng phím đàn  thành giai điệu Văn Cao “ Mùa xuân đầu tiên” chăng ?
Thành ra, “Mùa xuân đầu tiên” chính là lời reo vui của đắng cay, niềm rưng rưng kiếp nạn giải thoát, nỗi hoan ca ngục tù gặp nắng gió mênh mông…?
Văn Cao và NTT, 1994 - Ảnh Nguyễn Đình Toán
Văn Cao và NTT, 1994 – Ảnh Nguyễn Đình Toán
Xin xem thêm tài liệu tổng kết vụ án “ Nhân Văn – Giai Phẩm” (NVGP) của đại tá công an A 25 Thái Kế Toại đã in công khai trên rất nhiều trang mạng, để thấy thân phận của Văn Cao suốt ba mươi năm dưới chế độ “ưu việt gấp triệu lần tư bản” thê thảm là dường nào  < *3 *> ( xem chú thích cuối bài)
Qua lời tự thú của vị đại tá công an phụ trách theo dõi văn hóa văn nghệ trên, ta thấy số phận kẻ trọng tội NVGP bị lưu đày trong chính căn phòng mình, trên chính quê hương mình của Văn Cao và các bạn hữu NVGP của ông hầu như đã bị tước quyền công dân, tước hết quyền sáng tạo nghệ thuật, bị “giam tại nhà”, bị đấu tố, bị làm nhục, bị cải tạo lao động hà khắc; không khác mấy so với những kẻ thua trận Việt Nam cộng hòa bị tù tội trong danh phận học tập cải tạo sau năm 1975…
Không thấu hiểu hoàn cảnh sống bị chà đạp, bị lăng nhục, vùi dập, bị đói khổ, bị mất hết tự do nơi Văn Cao suốt ba mươi năm, chúng ta sẽ không cảm nhận được hết nỗi vui của người tù vừa tìm thấy một khe hở gió nắng, được vụt lóe  với khói trên sông , với tiếng gà trưa hiu quạnh trong nỗi đau nghẹn ngào “ Mùa xuân đầu tiên” này…
Chính nỗi đau buồn kia đã đẩy Văn Cao tới chân tường của cô đơn, lưu đày ông vào ly rượu và khói thuốc. Chứng nghiện rượu đã giúp Văn Cao phần nào quên đi thực tại thê thảm, giúp ông có nghị lực để sống qua thời thương khó. Nhiều đêm, không ngủ được, thức khuya để tìm ảo giác trong men rượu, thấy bóng mình in trên tường, Văn Cao chợt rùng mình hoảng sợ, ngỡ là công an mật nửa đêm xuyên tường đến hỏi cung ông, suýt nữa làm ông co cẳng ù té chạy…
Suốt một đời Văn Cao không chạy thoát khỏi bóng mình, không thoát khỏi kiếp lưu đầy thiên bẩm của một nghệ sĩ lớn mà thời đại dường như không đủ chỗ cho mình tỏa bóng. Đành thu bóng lại như con mèo nghệ thuật nằm cuộn tròn trong đống tro tàn cải tạo tại gia mà ăn năn hối cải về tội chống đảng của mình.
Đâu rồi chàng trai Văn Cao yêu đời, yêu người, tự do tự tại, thanh bình, phiêu lãng miền thiên giới, thần tiên sống lẫn con người, lãng mạn tới tận cùng chân trời góc bể  trong những ca khúc tiền chiến tuyệt tác ? Xin cùng nghe lại bản nhạc đầu tay tuyệt diệu của trang thiếu niên 16 tuổi, và xem lại lời của ca từ “ Buồn tàn thu” :
Buồn Tàn Thu
Ai lướt đi ngoài sương gió, Không dừng chân đến em bẽ bàng, Ôi vừa thoáng nghe em mơ ngay bước chân chàng, Từ từ xa đường vắng. Đêm mùa thu chết, nghe mùa đang rớt rơi theo lá vàng. Em ngồi đan áo lòng buồn vương vấn, em thương nhớ chàng. Người ơi còn biết em nhớ mong, Tình xưa còn đó xa xôi lòng. Nhờ bóng chim uyên, nhờ gió đưa duyên Chim với gió bay về, chàng quên hết lời thề. Áo đan hết rồi, cố quên dáng người, Chàng ngày nào tìm đến? Còn nhớ đêm xưa kề má say sưa Nhưng năm tháng qua dần, mùa thu chết bao lần. Thôi tình em đấy, như mùa thu chết rơi theo lá vàng.
“Buồn tàn thu” một ni buồn đẹp, trong veo dù tình em tưởng “chết rơi theo lá vàng”. Cái buồn của tình yêu “ em thương nhớ chàng” Văn Cao kết hợp hồn nhạc ngũ cung với chất khải huyền Thánh ca Thiên Chúa giáo rất cổ thi; như người chinh phụ nhớ chinh phu “ Chinh phụ ngâm”  Đặng Trần Côn – Đoàn Thị Điểm, như thần thiếp nhớ quân vương “ Cung oán ngâm khúc” Nguyễn Gia Thiều, Kiều nhớ Thúc Sinh trong mùa thu chết “Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san” Nguyễn Du thuở lục bát  “ người lên ngựa, kẻ chia bào” của “ bụi hồng dặm cuốn chinh an”…
Cái buồn của con người gặp cái buồn của trời đất, rất “ mang mang thiên cổ sầu” Văn Cao. Chàng thiếu niên 16 tuổi đã ký thác đời mình trong vàng thu lá chết, lấy lá vàng mùa thu làm chiếc diều của của nghệ thuật  muôn đời siêu thoát. Chàng tự lưu đày mình vào mùa thu một cách tự nguyện. Chàng chết đuối theo vàng thu chìm nghỉm để bất tử trong giai điệu du dương, sang trọng, như danh họa Nga gốc Do Thái Levitan phó linh hồn cho mùa thu Nga vĩnh cửu sơn dầu…
Ngay từ 16 tuổi, bằng sự lãng mạn tận cùng qua “ Buồn tàn thu”, Văn Cao đã sung sướng được đắm chìm vào vương quốc Cái – Đẹp. Chàng dùng nỗi buồn làm rượu, làm lương thực hằng sống nuôi dưỡng những giai điệu du dương lãng mạn đẹp nhất của nền tân nhạc Việt Nam thuở ban đầu trong năm kiệt tác vô song :” Buồn tàn thu”, “ Suối mơ”, “ Bến xuân” ( lời Phạm Duy) “ Trương Chi” và “ Thiên Thai”…
Dường như năm bản nhạc lãng mạn trên là năm bản thánh ca của tâm hồn con người, đưa ta thoát mọi phàm tục để được thánh hóa, được thăng hoa tới muôn vàn mê đắm, thoát khỏi hận thù mà bất tử với thương yêu ? Bản tình ca của nỗi buồn, của Cái – Đẹp ban sơ được hát lên cùng thiên giới thiêng liêng niềm hoài niệm trần thế; nơi suối nguồn róc rách mê ly chảy ra từ năm dòng kẻ nhạc Văn Cao, theo giai điệu thiên thần réo rắt thanh tao kia mà rót vào hồn ta hơi thở đất trời, rót vào tai ta chất men say của niềm ham sống, của tin yêu và hoài vọng. Âm nhạc Văn Cao nâng cánh con người bay lên cõi đẹp, cõi mê, cõi thần tiên, cõi hằng sống là vì thế chăng ?
Chừng như Văn Cao đã ngầm ký gửi thân phận mình vào hai ca khúc lãng mạn một cách siêu nhiên có phần kỳ bí, huyền nhiệm : “ Thiên thai” và “ Trương Chi”, vừa mang phong cách cao sang, nền nã,  cổ điển của nghệ thuật Apollon – thần ánh sáng và thi ca, vừa mang phong cách ma mị, xuất thần, cuồng si của nghệ thuật Dionysos – thần rượu nho ( theo quan niệm về bi kịch Hy Lạp của Nietzsche) ?
Văn Cao, ngay từ độ đôi mươi, đã tự đày ải mình lên miền thiên giới trong đại kiệt tác “ Thiên Thai”. Cuộc nhập “Thiên Thai” ấy không chỉ có hai chàng Lưu Nguyễn mà thực ra đã có ba chàng : người tham gia khí muộn vụ thiên hành lên cõi tiên ấy chính là Văn Cao :
Tiếng ai hát chiều nay vang lừng trên sóng
Nhớ Lưu Nguyễn ngày xưa lạc tới Đào Nguyên
Kià đường lên tiên, kìa nguồn hương duyên
theo gió tiếng đàn xao xuyến
Phím tơ lưu luyến, mấy cung u huyền
Mấy cung trìu mến như nước reo mạn thuyền
Âm ba thoáng rung cánh đào rơi
Nao nao bầu sương khói phủ quanh trời
Lênh đênh dưới hoa chiếc thuyền lan
Quê hương dần xa lấp núi ngàn
Bâng khuâng chèo khua nước Ngọc Tuyền
Ai hát trên bờ Đào Nguyên
Thiên Thai chốn đây Hoa Xuân chưa gặp Bướm trần gian
Có một mùa đào dòng ngày tháng chưa tàn qua một lần
Thiên Tiên chúng em xin dâng hai chàng trái đào thơm
Khúc nghê thường này đều cùng múa vui bầy tiên theo đàn
Đèn soi trăng êm nhạc lắng tiếng quyên
đây đó nỗi lòng mong nhớ
Này khúc bồng lai
là cả một thiên thu trong tiếng đàn chơi vơi
Đàn xui ai quên đời dương thế
Đàn non tiên đàn khao khát khúc tình duyên
Thiên Thai! Ánh trăng xanh mơ tan thành suối trần gian
Ái ân thiên tiên em ngờ phút mê cuồng có một lần
Gió hắt trầm tiếng ca tiếng phách ròn lắng xa
Nhắc chi ngày xưa đó đến se buồn lòng ta
Đào Nguyên trước Lưu Nguyễn quên trần hoàn
Cùng bầy tiên đàn ca bao năm
Nhớ quê chiều nào xa khơi Chắc không đường về
Tiên nữ ơi!
Đào Nguyên trước Lưu Nguyễn khi trở về
Tìm Đào Nguyên, Đào Nguyên nơi nao ?
Những khi chiều tà trăng lên
Tiếng ca còn rền trên cõi tiên
Văn Cao và hai chàng Lưu Nguyễn đã nhập “ Thiên Thai” nghệ thuật. Nơi đó, Cái Đẹp chính là tiên nữ, khởi nguồn mọi xúc cảm hồn người. Nghệ thuật, nói cho cùng KHÔNG VỊ BẤT CỨ ĐIỀU GÌ, vì nó là cái chân thiện mỹ đã được thánh hóa, được đóng dấu thiên giới cao sang. Tột cùng của nghệ thuật là sự thoát tục, sự thăng hoa con người lên những thế giới khác, tâm hồn khác, rung động khác, mê ly khác, ảo diệu khác… do con đò của tưởng tượng chở ta sang bờ bên kia của sự thật, bờ bên kia của thế giới.
Những giai điệu thần tiên mê ly hết mực Văn Cao đã đưa hồn ta du nhập cùng ba chàng lãng tử Lưu – Nguyễn – Văn vào cõi trời. Thiên Thai ấy, tiên nữ ấy, nghê thường ấy hóa ra không ở đâu xa, lại ở chính nơi hồn ta khi được âm nhạc thiên tài Văn Cao đánh thức…
Văn Cao hóa thân vào bi kịch nghệ thuật Trương Chi, hay chính hồn chàng Trương Chi đã ám lấy cuộc đời Văn Cao trong một ca khúc hay đến rợn người, hay đến ngờ có ma trong giai điệu du dương chìm lắng, thê lương, rờn rợn liêu trai, khuya khoắt ngồi nghe một mình có thể nổi da gà :
Một chiều xưa trăng nước chưa thành thơ
Trầm trầm không gian mới rung thành tơ
Vương vất heo may hoa yến mong chờ
Ôi, tiếng cầm ca thu tới bao giờ.
Lòng chiều bơ vơ lúc thu vừa sang,
Chập chùng đêm khuya thức ai phòng loan
Một cánh chim rơi trong khúc nhạc vàng
Đây đó từng song the hé đợi đàn.
Tây hiên Mỵ Nương khi nghe tiếng ngân
Hò khoan mơ bóng con đò trôi
Giai nhân cười nép trăng sáng lả lơi, lả lơi bên trời
Anh Trương Chi
Tiếng hát vọng ngàn xưa còn rung,
Anh thương nhớ.
Oán trách cuộc từ ly não nùng.
Đò trăng cắm giữa sông vắng.
Gió đưa câu ca về đâu?
Nhìn xuống đáy nước sông sâu.
Thuyền anh đã chìm đâu!
Từng khúc nhạc xa vời
Trong đêm khuya dìu dặt tiếng tơ rơi.
Sương thu vừa buông xuống
Bóng cây ven bờ xa mờ xóa dòng sông
Ai qua bến giang đầu tha thiết,
Nghe sông than mối tình Trương Chi
Dâng úa trăng khi về khuya,
Bao tiếng ca ru mùa thu.
Ngoài song mưa rơi trên bao cung đàn
Còn nghe như ai nức nở và than,
Trầm vút tiếng gió mưa
Cùng với tiếng nước róc rách ai có buồn chăng?
Lòng bâng khuâng theo mưa đưa canh tàn
Về phương xa ai nức nở và than,
Cùng với tiếng gió vương,
Nhìn thấy ngấn nước lấp lánh in bóng đò xưa.
Đò ơi! Đêm nay dòng sông Thương dâng cao
Mà ai hát dưới trăng ngà
Ngồi đây ta gõ ván thuyền,
Ta ca trái đất còn riêng ta.
Đàn đêm thâu
Trách ai khinh nghèo quên nhau,
Đôi lứa bên giang đầu.
Người ra đi với cuộc phân ly,
Đâu bóng thuyền Trương Chi?
Bi kịch Trương Chi chính là bi kịch của nghệ thuật, bi kịch cuộc đời, hơn nữa là bi kịch của thiên tài và thời đại, bi kịch của Văn Cao và chế độ…Hình như Văn Cao đã đổi vai cho chàng ca sĩ thiên tài Trương Chi trong câu chuyện cổ diễm tình, được kể lại bằng hồn Văn Cao với giai điệu bi ca, khốc ca, hú ca, Mỵ Nương ca ?
Hồn Trương Chi u uẩn, u u trong gió sương vương vấn trên sông, đêm đêm đã lấy đi hết nước mắt nàng Mỵ nương ân hận nghìn đời. Nay hồn ấy, tình đơn phương yêu đến chết ấy lại nhập vào hồn Văn Cao với giai điệu sầu thương, nức nở, lấy đi bao giọt khóc của người nghe nhạc hôm nay.
Thương thay chàng Trương Chi Văn Cao đã dâng hiến cả tâm hồn và thân xác mình cho tình yêu con người, cho tình yêu thời đại, yêu đến nỗi cuồng điên kiểu Xuân Diệu : “ Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi” nhưng đã bị thời đại đáp lại bằng “cú đớp chính trị” Nhân Văn Giai Phẩm tàn mạt cả một đời .
Nàng Mỵ Nương cuộc đời, nàng Mỵ Nương thời đại không chấp nhận tình yêu đơn phương tận hiến ấy, yêu và ca hát như con ve tới chết cho nàng, vì nàng, một tình yêu phi điều kiện, phi chính  trị. Cũng như Trương Chi, Văn Cao đã bị nàng Mỵ Nương – Thời đại phụ tình, hớp hết hồn chàng, rút hết gan ruột chàng trong các ca khúc kháng chiến bất hủ : “ Trường ca Sông Lô”, trong “ Tiến quân ca”, trong “ Làng tôi”, trong “Tiến vế Hà Nội”, trong “ Ngày mùa”… ăn ốc đổ vỏ, rồi nhốt chàng vào mật thất cô đơn như một huyệt mộ của tự do trá hình có tên là căn gác chật hẹp 108 Yết Kiêu, Hà Nội, thuê 15 đồng một tháng ( ở tù tại gia mà phải thuê a ?)…
Trương Chi đã yêu, đã chết cho mối tình lý tưởng đơn phương, thân xác tan vào sông nước và hồn hóa thành đá quý làm chén ngọc cho Mỵ Nương gieo nước mắt thương tình thành sông. Văn Cao không ném thân xác mình vào cát bụi để được chết vì yêu như Trương Chi; nhưng linh hồn ông, âm nhạc ông đã đang và mãi mãi sẽ được người đời yêu thương đón nhận. Hồn Văn Cao còn hát mãi tiếng tuyệt vời Trương Chi trên dòng sông âm nhạc, nơi sẽ có hàng nghìn Mỵ Nương xinh đẹp mong ước chàng sống lại để hậu thế được yêu chàng như lời thơ R. Tagore vẽ hộ tình yêu mai sau dành cho chàng Trương Chi – Văn Cao :
Nàng ơi / tất nhiên là nàng sẽ ra đời / trong một thế kỷ nào đó / xin nàng tha thứ cho / nếu quả vì tôi kiêu hãnh / vẽ dáng nàng đang đọc thơ tôi / khi trăng rọi im lìm qua khe chữ / tôi biết đêm nay / dưới trăng mờ / nàng thắp đèn chờ / dù nàng biết chẳng bao giờ nhà thơ ( nhạc sĩ – chua thêm TMH) đến nữa …” ( bản dịch từ tiếng Anh của Cao Huy Đỉnh)
Tiền bối Văn Cao ơi !
Âm nhạc sang trọng bậc nhất nước Việt của ông còn sống mãi. Những bài hát rất hay, rất quý phái cao sang đầy chất thánh ca của ông vẫn hằng tụng ca con người, tụng ca Cái Đẹp, như một cứu cánh góp phần cứu chuộc dân tộc ta, đất nước ta đang có cơ bị diệt vong bởi chính sự băng hoại của những tà thuyết phi nhân. Xin được gọi ông bằng tên gọi thường nhật trìu mến nhất mà thế hệ đi sau ông vẫn hằng được gọi thầm tên ông : ANH VĂN; như ngày xưa thi thoảng được hầu rượu ông nơi quán rượu gần rạp xiếc. Vâng, anh Văn suốt một đời sống chết cũng chỉ vì hai chữ Nhân Văn thiêng liêng, cao cả này mà thôi .,.
Sài Gòn ngày 23-01-2013
Trần Mạnh Hảo
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Phần chú thích :
Chú thích <*1*> :
“Tố Hữu ấy à? Không, không phải đâu. Cần phải công bằng. Tố Hữu có không ưa mình, có làm khổ mình thật, do lòng đố kỵ mà ra. Mình cũng ghét cái thằng bắng nhắng ấy lắm. Nhưng có thế nào nói thế ấy. Tố Hữu chỉ là kẻ thừa hành thôi. Nói gì thì nói, trong lòng Tố Hữu vẫn còn một chút gì của nhà thơ chứ. Bề ngoài thì thế đấy – Tố Hữu lãnh đạo cuộc đánh từ đầu chí cuối. Người ta tưởng vụ Nhân văn – Giai phẩm nổ ra là bởi báo Nhân văn đăng mấy bài phê bình thơ Tố Hữu, Tố Hữu tức, Tố Hữu đánh. Nhầm hết. Longue Marche (tiếng Pháp, có nghĩa là cuộc quân hành dài, ý nói Trường Chinh) mới là kẻ sáng tác ra vụ Nhân văn – Giai phẩm. Để chạy tội Cải cách ruộng đất. Để tạo ra cái hố rác mà trút mọi tội lỗi của Lúy[2] vào đấy. Chính Longue Marche chứ không ai khác. Đừng tước bản quyền của Lúy, tội nghiệp! Longue Marche còn cho mời mình và Nguyễn Tuân đến gặp. Lúy nói cả tiếng đồng hồ về đảng tính, về trách nhiệm đảng viên. Chiêu hồi mà. Nguyễn Tuân nghe, mặt hất lên, ngáp không cần che miệng. Nguyễn Tuân vẫn thế – bất cần đời. Đôi lúc cũng có hèn một tí, hèn có mức độ thôi, trong đại đa số trường hợp là kẻ bất chấp. Mình nói với Longue Marche: “Nếu trong vườn hồng có sâu thì ta phải chịu khó mà bắt bằng tay, từng con một. Đổ ụp cả đống thuốc trừ sâu vào đấy thì chết cả vườn hồng. Rồi anh sẽ thấy: qua đợt đánh phá này không biết bao giờ nền văn nghệ Việt Nam mới ngóc đầu dậy được!” Lúy nghe, mặt câng câng. Cái cách của Trường Chinh là thế. Lúy gọi mình đến còn có ý này nữa: Lúy muốn mình phải hiểu – tôi đã chịu khó nghe các anh rồi đấy nhá, tôi dân chủ lắm rồi đấy nhá! Chứ còn cái nền văn nghệ của các anh, nó đáng giá mấy xu?.
Chú thích <*2*> :
“Những tư tưởng Nhân văn-Giai phẩm luồn lách như chạch; không phải lúc nào nó cũng lộ liễu như trộn trấu, cát vào gạo cơm ta ăn, khiến ta biết ngay; mà có khi nó giấu tay rỏ thuốc độc vào những chai thuốc dán nhãn hiệu là “bổ”. Văn Cao vào hạng có bàn tay bọc nhung như thế. Sự giả dối đã thành bản chất của Văn Cao, nên những cái lạc hậu, thoái hoá của Văn Cao cứ nghiễm nhiên mặc áo chân lý và tiến bộ. (…)
Vào đời giữa thời phát-xít Nhật đổ bộ vào Đông Dương, lúc lớn lên nhạy cảm nhất lại là lúc chủ nghĩa đế quốc Pháp Nhật toát ra cái chất cuối mùa đồi trụy nhất, phản động nhất, Văn Cao đã ngộ độc rất nặng. (…)
Trong bài hát Trương Chi, Văn Cao gán cho người đánh cá cái khinh bạc tột độ của mình, không coi nhân quần ra cái gì hết, chỉ có một mình mình trên trái đất; hơi lạnh của chủ nghĩa cá nhân tuyệt đối toát ra như một âm khí nặng nề:
Ngồi đây ta gõ mạn thuyền
Ta ca trái đất còn riêng ta! (…)
Những ngày đầu Cách mạng tháng Tám, những ý nghĩ phiêu lưu, tìm thi vị xa vời, mới lạ trong cách mạng, là một chặng đường tất yếu của tư tưởng nhiều người; mơ ước “Hải quân Việt Nam”, “Không quân Việt Nam” lúc đó cũng là một trạng thái của lòng yêu nước.
Nhưng ta phải giật mình khi nhớ lại những lời hát:
Ta là đàn chim bay trên mây xanh 
Mắt nhìn trong khói những kinh thành tan… 
… Ta là tinh cầu bay trong đêm trăng 
Ta không trách trình độ chính trị của ta và của tác giả khi đó còn thấp. Chúng ta giật mình vì cái lối bay để mà bay, tự say lấy mình đó là tiền thân của cái lối “Hãy đi mãi” của Trần Dần; chúng ta giật mình hơn nữa là cái máu anh hùng chủ nghĩa làm cho Văn Cao sảng khoái nhìn thấy “những kinh thành tan” dưới bom đạn mà không chút xót thương, và “chiến công ngang trời” kia lại là của “không quân Việt Nam”, mà không nói là chiến tranh tự vệ! 
Mấy bài thơ năm 1946, 1948 của Văn Cao, có dụng ý tốt, nhưng cũng bộc lộ cái tính chất nghệ thuật của Văn Cao, thích khúc mắc, khó hiểu, thích loè lên lấp lánh, pha với sự lập dị, chộ người, toát ra một màu vị tan rã, như bài “Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc”, hay như bài “Ngoại ô mùa đông 46″ (Văn nghệ số 2, tháng 4-5/1948):
Ta đi trong nhà đổ 
Nghe thời gian đã nhạt khúc ân tình 
Tuy phòng the chiếc áo trẻ sơ sinh
Còn xiêm hài dành hương phấn cũ…

Chữ Phạn, La-tinh nhường máu tô diệt Pháp 
Gió lạnh khi qua viện tàng thư 
Cháy cong queo, bìa giữ chút di từ 
Kierkegaard, Heiddeger và Nietzsche… (…)
Giả dối như một con mèo, kín nhẹn như một bàn tay âm mưu trong truyện trinh thám, bài thơ Anh có nghe thấy không? lập lờ, ấp úng, bí hiểm, hai mặt, tuy nhiên công chúng cũng hiểu nó muốn nói gì. Văn Cao gọi ai là “chúng nó”? Đối lập với ai là “chúng ta”?
Bao giờ nghe được bản tình ca 
Bao giờ bình yên xem một tranh tĩnh vật 
Bao giờ 
Bao giờ chúng nó đi tất cả (…)
Trên đất nước ta, “chúng nó” là Mỹ-Diệm ở miền Nam, là tay chân Mỹ-Diệm ở miền Bắc, là bọn phá hoại Nhân văn-Giai phẩm; chúng nó là thế đấy (…)
Những con người của chúng ta, từ Cách mạng tháng Tám đến nay, xuất hiện, trưởng thành dần dần và mãnh liệt, để đi tới “lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu”, dù chúng ta có còn khuyết điểm, nhược điểm gì, cả Trái đất cũng biết chúng ta vĩ đại!”(Xuân Diệu, Dao có mài mới sắc Nxb Văn học, Hà Nội 1963, tr. 101-114. Bản điện tử do Lại Nguyên Ân cung cấp, tài liệu Talawas)
Chú thích <*3*> :
Được đăng bởi nguyentrongtao.info
và VANDANVIET.COM
NTT: Nhà văn Lê Hoài Nguyên tên thật là Thái Kế Toại, nguyên Đại tá công an, công tác tại A25 (chuyên theo giõi văn nghệ sĩ và văn hóa) đã gửi tới NTT.ORG một chuyên luận dài về Nhân Văn Giai Phẩm, và chúng tôi đã đăng làm 5 kỳ từ đầu tháng 8/2010, được nhiều trang mạng đăng lại. Nay tác giả đã chỉnh sửa lại bài viết của mình và nhờ NTT.ORG đăng lại trọn vẹn bài viết này. Các bạn hãy đọc nó như đọc một “góc nhìn” về sự thật.
VỤ NHÂN VĂN – GIAI PHẨM MỘT TRÀO LƯU DÂN CHỦ, MỘT CUỘC CÁCH TÂN VĂN HỌC KHÔNG THÀNH
LÊ HOÀI NGUYÊN
Xin trích một số đoạn trong tài liệu này, để chứng minh phong trào Nhân Văn Giai Phẩm 1955 -1958  chỉ là một trào lưu tìm dân chủ, tìm tự do cho văn học nghệ thuật, không hề mang tính phản động, lật đổ chế độ như chính quyền cộng sản đã vu cáo, để đàn áp các đồng chí của Văn Cao một cách khốc liệt, như từng xảy ra mà  đại tá công an A 25 Thái Kế Toại đã chứng minh và kết luận một cách khoa học, thấu tình đạt lý, khiến kẻ viết bài này miễn bình luận :
“Tác giả ( tức đại tá công an A 25 Thái Kế Toại) tin rằng Nhân Văn – Giai Phẩm (NVGP) không phải là một vụ án gián điêp phản động. Các văn nghệ sỹ trí thức NVGP không có mục đích lật đổ chế độ. Họ chỉ mong muốn ĐCSVN, chính phủ sửa chữa những sai lầm và xây dựng ngay một nền dân chủ pháp trị, một đời sống tinh thần có tự do tư tưởng, một đời sống văn học nghệ thuật tự do sáng tạo…
…Còn vụ án được đem xét xử công khai có thể nói đấy là một vụ án xử vì mục đích chính trị chưa đủ chứng cứ cấu thành tội danh hoạt động gián điệp mà động cơ của nó có thể có sự lợi dụng để khuất lấp tai tiếng và bảo vệ vị trí của chính những người lãnh đạo Đảng đã mắc sai lầm trong CCRĐ
…Nội dung bản án kết tội NVGP trong phiên xử án như sau:
“Chúng là những tên gián điệp phản cách mạng, phá hoại hiện hành,hoạt động có tổ chức, thực hiện âm mưu của địch, tiến hành những hoạt động chiến tranh tâm lý đê hèn nhất, những hoạt động phá hoại thâm độc nhất, để cuối cùng lật đổ chế độ chúng ta ở miền Bắc…”
…- Nhà nước cộng sản huy động hầu hêt các phương tiện thông tin đại chúng của chính quyền tham gia phê phán. Báo Nhân Dân, Hà Nội Mới, Quân Đội Nhân dân, Tạp chí Học Tập, Tạp chí Văn Nghệ, Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam, Văn Nghệ Quân Đội, Tạp chí Điện Ảnh… Đặc trưng của các cơ quan ngôn luận cộng sản là chỉ cho phép sự phê bình chính thống, không cho phép người bị phê bình được nói lại…
…-Huy động các cơ quan quản lý trí thức, văn nghệ sỹ tổ chức các cuộc kiểm thảo, phê bình đấu tố những người tham gia NVGP, sau khi đấu tố đương sự phải viết bản tự thú tội để công khai hóa trên các phương tiện tuyên truyền…
…-Sử dụng các biện pháp nghiệp vụ của hệ thống công an để bắt bớ, đàn áp…
…-Sử dụng các biện pháp quản lý hành chính như khai trừ Đảng, khai trừ BCH khai trừ hội viên các hội VHNT, treo bút không cho xuất bản tác phẩm có thời hạn hoặc vĩnh viễn, cách chức, chuyển công tác, hạ lương, đưa ra khỏi biên chế, bắt buộc cư trú ở những vùng xa Hà Nội, đưa đi cải tạo bằng lao động chân tay ở nông trường, nhà máy, hợp tác xã nông nghiệp…
…- Ngoài ra gia đình các đối tượng còn phải chịu sự đối xử khắc nghiêt của các cơ quan quản lý xã hội và toàn xã hội như việc học hành, thi cử, phân công công tác, lấy vợ lấy chồng…
…Đáng lẽ có những hình thức kỷ luật chỉ có thời hạn vài ba năm nhưng cuối cùng kéo dài cho tới thời kỳ đổi mới. Các đối tượng hết hạn tù và quản chế đang là công dân bình thường nhưng vẫn bị quản lý như người mất quyền công dân…
Nói chung là cái biện pháp tổng hợp ấy có một mãnh lực vô hình ghê gớm, nó làm tê liệt mòn mỏi sức lực và tinh thần của một bộ phận trí thức tinh hoa trong thời gian dài 30 năm…
…Năm 1958 là năm đen tối của họ (NVGP), bị đấu tố, kỷ luật, ngồi tù, cải tạo lao động…
…Trong thời gian này Hồ Chí Minh đi thăm Liên Xô, Mông Cổ, CHDCND Triều Tiên có ghé thăm Bắc Kinh, chứng kiến và có thể học hỏi các kinh nghiệm tổ chức phong trào đánh phái hữu . Việt Nam cử Tố Hữu, Huy Cận và Hà Xuân Trường sang học tập kinh nghiệm, chính sách của Trung Quốc…
… Bản thân Trường Chinh cũng không thể đẩy cao hơn tốc độ cuộc chiến chống NVGP vì ông ta không còn đầy đủ quyền lực như trước nữa…
…Phải nói rằng ngôn ngữ văn học miền Nam đã đi trước hiện đại hóa so với ngôn ngữ văn học miền Bắc mấy chục năm. Phải chăng đó là hậu quả của việc thủ tiêu cuộc cách mạng văn học của NVGP?”
(hết trích bài của đại tá công an A 25 Thái Kế Toại)

(nguyentrongtao.wordpress.com)

VIỆT NAM HÌNH HÀI CHỮ S



Thứ Năm, 24 tháng 1, 2013

ĐỂ CÁM ƠN THANG THIEU


373111_513382712014083_581802536_n
Lương Kháu Lão

HUY ĐỨC SẼ  KHÔNG ĐƠN ĐỘC

Là một trong những người sống gần trọn đời trong chế độ cộng sản, tôi chỉ đọc, chỉ biết những gì báo chí của Đảng viết ra . Một thời tôi đã từng say mê những bài viết của Thép Mới, Nguyễn Thành Lê, Nguyễn Hữu Chỉnh , Hữu Thọ, Hoàng Tùng, và cả Bùi Tín nữa khi anh ta còn làm Phó Tổng biên tập Báo Nhân dân phụ trách tờ Nhân dân chủ nhật . Có lúc chợt nghĩ nếu Olimpic có môn viết xã luận thì chắc chắn Việt Nam sẽ có huy chương vàng !
Sau năm 1975, một thế hệ các nhà báo trẻ xuất hiện. Họ trưởng thành ở một thành phố gặp muôn trùng khó khăn nhưng cũng mạnh mẽ trỗi dậy và đi đầu trong công cuộc đổi mới . Đó là Đỗ Trung Quân, Nguyễn  Ngọc Châu, Lê Thọ Bình, Bùi Thanh, Thủy Cúc , Lưu Đình Triều ,Tâm Chánh,  Đà Trang… ở tờ Tuổi trẻ, Huỳnh Ngọc Chênh, Nguyễn Văn Thịnh, Danh Đức … ở tờ Thanh Niên ; Trong số đó người nổi tiếng nhất là Huy Đức . Tôi đã có nhiều lần cộng tác với số nhà báo trẻ sớm thành danh nói trên nhưng với Huy Đức thì chưa một lần gặp mặt. Chỉ “ gặp” anh trên các bài viết nóng hổi tính thời sự và nhân văn . Sau khi buộc phải rời các tờ báo khá mạnh bạo ở Sài Gòn, Huy Đức nổi tiếng với blog “lề trái” Osin , nhưng tôi cũng ít đọc cho tới khi Bên thắng cuộc ra đời thì nó như một quả bom nổ giữa sự nhàm chán của dư luận làm rúng động cả “quân ta” lẫn “quân địch”.
Huy Đức tung ra ánh sáng biết bao chuyện được gọi là “thâm cung bí sử” mà cả hai bên chiến tuyến, hai bên cựu thù  đều  dấu kín . Huy Đức viết những điều mà nhiều người đương thời còn “sống nhăn răng” ra đó” nên người khen kẻ chê, người phản ứng gay gắt khi chạm nọc là điều không tránh khỏi .
Với một số bà con định cư ở Quận Cam và nhiều thành phố bên nước Mỹ xa xôi, những cay đắng họ phải gánh chịu từ chuyện cải tạo tư sản, cải tạo ngụy quân ngụy quyền, từ chuyện đổi tiền, chuyện vượt biên với biết bao rủi  ro và mất mát … sẽ không bao giờ nguôi ngoai sự uất hận trong lòng họ cho dù hòa bình đã hơn ba chục năm rồi và nhiều người đã lần lượt trở về quê hương đoàn tụ gia đình tìm cơ hội làm ăn, thậm chí nhiều người già trong đó có những người nổi tiếng  là tướng lĩnh là nhà chính trị trong quân đội Việt Nam cộng hòa, là văn nghệ sĩ nổi danh đã xin được về chết trên mảnh đất quê hương bởi vì như Đỗ Trung Quân đã viết khi còn là phóng viên Tuổi trẻ “Quê hương là chùm khế ngọt” . Ấy là lúc Trung Quân còn trai trẻ và tương lai của dân tộc cũng như tình yêu quê hương đất nước còn đang cháy bỏng trong trái tim anh chứ không phải của Đỗ Trung Quân chín chắn và trưởng thành như bây giờ .
Cho nên một số bà con Việt kiều dù chưa đọc một dòng Bên thắng cuộc nhưng nghe lời xúi dục của các phần tử quá khích đã đi biểu tình chống Bên thắng cuộc là một điều đáng tiếc . Nếu họ đọc , đọc thật kĩ và suy ngẫm về những điều Huy Đức nói về những “người thua cuộc” thì họ sẽ từ chối đi “biểu tình “ như vậy. Quả thật, nhờ những thông tin mà Huy Đức cung cấp trong kho sử thi đồ xộ của đất nước trong hơn ba chục năm qua , chúng ta bây giờ mới có thể biết được vì sao Cộng sản giải phóng được Sài Gòn và toàn Miền Nam. Không chỉ là chuyện hai miền “nội chiến”” nồi da xáo thịt”  mà  có sự can dự và hưởng lợi của các nước lớn mang danh đồng minh với cả hai phía của cuộc chiến dai dẳng ba chục năm
Tất cả các câu chuyện về thành phố Sài Gòn sau giải phóng đã được Huy Đức giải mã một cách đầy đủ và chân thực. Tại sao những người chịu đau thương và mất mát trong các sự kiện kể trên lại có thể phản đối tác giả khi anh đã giúp họ nói lên một phần sự thật để phần nào nguôi ngoai nỗi đau thương dấu kín bấy lâu. Có lẽ chỉ vì chuyện Huy Đức đã mô tả rất chi tiết việc quân đội Việt Nam cộng hòa tan rã nhanh chóng trước sức tấn công như vũ bão của quân đội miền Bắc chăng ? Lúc đó ở Hà Nội, tôi thắc mắc tại sao Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu vốn là một vị tướng lại ra lệnh “tùy nghi di tản” dẫn đến cuộc tháo chạy ồ ạt từ Ban Mê Thuột, đến Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng …cho đến tận Sài Gòn. Nếu chỉ bằng những thông tin trên báo chí Miền Bắc thì ta có thể suy ra rằng quân đội cộng hòa Sài Gòn là đội quân bạc nhược sau khi bị Mỹ bỏ rơi. Nhưng Huy Đức đã chỉ ra rằng có rất nhiều tướng lĩnh và sĩ quan đã “tử vì đạo”. Có người đã bắn chết cả gia đình sau đó tự sát như các võ sĩ Nhật Bản . Đáng lẽ người Việt phải rời quê hương ra đi phải  biết ơn Huy Đức đã cho tòan thế giới biết bên cạnh những tướng lĩnh bạc nhược vẫn có những người “anh hùng” như vậy chứ. Vậy thì cớ gì phản đối Bên thắng cuộc ?
Năm 1995, trên tờ Tuổi trẻ chủ nhật nhân kỉ niệm 20 năm ngày giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước tôi đã viết bài “Sài Gòn 1975-1995 dưới con mắt một người Hà Nội” . Bài viết kể chuyện về ông chú vì đói thông tin đã bán hết hàng hóa ôm một đống tiền, khi chính quyền quân quản đổi tiền ông mất trắng. Trong khi người cháu là sĩ quan quân đội, là đảng viên cộng sản ngày 30-4 vào tiếp quản thành phố đã không dám đến gặp người chú vì sợ bị liên lụy. Chuyện của người anh trai của tôi với ông chú không chỉ là chuyện cá biệt trong trận chiến ba mươi năm giữa những  người cùng dòng máu đỏ da vàng , cho nên chuyện cha con Lưu Quý Kỳ và Lưu Đình Triều cũng chẳng có gì là khó hiểu và anh Triều không nên có phản ứng với người đồng nghiệp một thời cùng chung lưng đấu cật làm nên thương hiệu của tờ Tuổi trẻ . Cuộc chiến Nam Bắc không chỉ hy sinh hàng triệu nhân mạng những người con ưu tú của dân tộc mà còn là cuộc chiến tranh ý thức hệ giữa một bên là cộng sản một bên là cộng hòa mà cuộc chiến về ý thức hệ này còn dai dẳng đến tận bây giờ. Nếu nó không chấm dứt với một bên thắng một bên thua hoàn toàn thì sẽ không bao giờ có hòa hợp dân tộc một cách đúng nghĩa.
Nếu như phần I của Bên thắng cuộc với tiêu đề “ Giải phóng” làm cho ai đó bên thua cuộc phản ứng là điều có thể hiểu được thì phần II có tiêu đề “ Quyền bính” đã và sẽ làm cho nhà cầm quyền Hà Nội, bên thắng cuộc phát điên . Bao nhiêu chuyện thâm cung bí sử dấu lẹm đã bị Huy Đức phơi bày. Huy Đức “khôn “ lắm, anh chỉ cung cấp thông tin có dẫn chứng người nói, dẫn chứng từ các văn bản “mật” chứ không bình luận. Tự thân các sự kiện nói lên tất cả tùy nhận thức của người đọc. Cũng không ai có thì giờ và tâm huyết đi kiểm chứng xem những thông tin Huy Đức tung ra là đúng hay sai, đúng bao nhiêu phần trăm, sai bao nhiêu phần trăm. Cho nên nói như Bùi Tín rằng Huy Đức mới chỉ nói 30% sự thật là nói đại. Còn 70% nữa Bùi Tín có giỏi thì nói nốt đi. Cần biết rằng để viết Bên thắng cuộc, Huy Đức không chỉ dành 3 năm để viết và chỉnh sửa, anh đã dành gần cả trọn cuộc đời làm báo của mình để tích lũy sử liệu , để thẩm tra các dữ kiện, để phỏng vấn các nhân vật và nhờ có internet, anh đã lưu trữ được nó trong một chiếc laptop nhỏ bé để mang theo nó sang nước Mỹ rồi tung nó ra toàn cầu bằng giải pháp kĩ thuật số, điều mà ở trong nước anh không thể làm được.
Sau một thời gian im ắng, các báo trong nước chủ yếu là các tờ báo công an bắt đầu phản công Bên thắng cuộc và tác giả Huy Đức. Đọc qua một vài bài tôi thấy hình như họ viết theo sự chỉ đạo của cấp trên nên gò ép và thiếu sự thuyết phục. Những “dư luận viên” mà ông Trưởng ban tuyên huấn thành ủy Hà Nội nói theo sự chỉ đạo của cấp trên không đủ tâm và đủ tài để chọi với các bài phản biện của các tay bút bên lề trái. Nó tương tự như bài của ông nghị Hoàng Hữu Phước viết trên blog của mình đại ý rằng một thằng nhóc mới 13 tuổi khi Sài gòn giải phóng thì biết gì mà viết nhăng viết cuội. Cái ông nghị rởm này như có bạn viết trên Facebook là đã bị ung thư dây thần kinh giai đọan cuối này làm sao có đủ trình độ và tư cách phê phán Bên thắng cuộc .
Chúng ta phải cám ơn Bên Thắng cuộc và tác giả Huy Đức đã dũng cảm giải mã biết bao sự thật ở Ba Đình . Ví dụ người có công tiến hành đổi mới đất nước là ông Trường Chinh về lí luận và ông Võ Văn Kiệt về hành động chứ không phải ông Nguyễn Văn Linh với mấy bài “Những việc cần làm ngay”. Ví dụ vì sao các lãnh đạo Việt nam từ thời ông Lê Duẩn, ông Trường Chinh, ông Nguyễn Văn Linh, ông Đỗ Mười, ông Lê Khả Phiêu, ông Nông Đức Mạnh , đến ông Nguyễn Phú Trọng hôm nay đều “kiên trì” định hướng xã hôi chủ nghĩa cho dù mang tiếng là giáo điều . Bởi vì tuy Huy Đức không nói ra nhưng nếu không bám vào cái  lí thuyết không tưởng đó thì không có lí do gì tồn tại  Đảng Cộng sản mà nếu không còn Đảng thì còn đâu mảnh đất tham nhũng như ngày hôm nay . Cho nên nói chống tham nhũng mà vẫn khư khư theo đuổi định hướng XHCN một cái rất mơ hồ thì chỉ là nói chống cho vui vậy thôi. Bây giờ bên Đảng có Ban nội chính chống tham nhũng, bên chính quyền lại mới đẻ thêm Ban chỉ đạo gì đó tương tự thì chỉ là cuộc chiến giữa Đảng và Chính quyền chứ bè lũ tham nhũng vẫn phè phỡn ngoài vòng pháp luật vì các ông đang kềm chế nhau chứ có đánh gì tham nhũng đâu
Trong hai thứ những người cộng sản sợ nhất là chủ nghĩa xét lại và chủ nghĩa giáo điều. Xét lại hiểu theo một cách nào đó là một sự đổi mới chủ nghĩa Maxk đã lỗi thời còn giáo điều là cố níu kéo cái đã lỗi thời đó để thể hiện mình là người trung thành tuyệt đối với lí tưởng mà thời trai trẻ mình đã mù quáng tuyên thệ . Tất cả những gì làm trái quy luật dù cố níu kéo bằng lý thuyết ma giáo hay bằng chuyên chính vô sản tàn bạo , mà tàn bạo nhất là chiến tranh đều không thoát khỏi sự phán xét và trừng phạt của lịch sử mà lịch sử thì rất công bằng.
Nhiều thế hệ người Việt nam phải biết ơn “sử gia” Huy Đức bằng những thông tin mà anh cung cấp . Những đời tư của các nhân vật quyền thế từ Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Chí Thanh, Võ Văn Kiệt, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Lê Đức Anh, Hoàng Văn Thái,  Lê Trọng Tấn, Văn Tiến Dũng, Đoàn Khuê, Võ Nguyên Giáp , Đinh Đức Thiện , Mai Chí Thọ, Nguyễn Hà Phan, Trần Xuân Bách,  Nông Đức Mạnh … Tất cả những sự kiện hư hư thực thực kể cả chuyện Hồ Chí Minh có vợ đăng trên tờ Tuổi trẻ -lí do mà Tổng biên tập Kim Hạnh mất chức và suốt đời không được làm báo , những chuyện Nông Đức Mạnh và Nguyễn Tấn Dũng có bố có mẹ chứ không phải là con ông nọ bà  kia đều đã được Huy Đức công khai danh tính và có thể đó là lí do mà các “dư luận viên” viết theo Lề Đảng sẽ vin vào đó để kết tội Huy Đức làm lộ bí mật quốc gia và bí mật đời tư chiểu theo nghị định này nghị định nọ để có thể bỏ tù khi Huy Đức về tới sân bay Tân Sơn Nhất.
Huy Đức đã không thể từ trong nước phát hành Bên Thắng cuộc, anh cũng chưa thể in thành sách . Anh lựa chọn phát hành trên mạng. Cách phát hành này có thể không mang lại cho anh nhiều tiền bạc tương xứng với công sức anh bỏ ra và giá trị của quyển sách mà anh mang đến cho độc giả nhưng bằng cách này sẽ có nhiều người trên thế giới tìm đọc quyển sách đang rất hot này. Càng có nhiều người khen kẻ chê càng có nhiều người tìm đọc. Đó là quy luật mà những người làm công tác tuyên giáo của Đảng Cộng sản rất biết nhưng họ vẫn cứ phải lên án nếu như không muốn bị cấp trên khiển trách , mắng mỏ . Và tôi nghĩ như ai đó đã từng viết rằng các lãnh đạo Việt nam, các Trung ương ủy viên, các ủy viên Bộ Chính trị càng nên đọc sách này để biết một phần sự thật mà họ chưa được biết . Biết để mà phòng thân và tránh các sai lầm khuyết điểm mà tư tưởng giáo điều đã ám ảnh họ , Trên hết ông Nguyễn Phú Trọng cần đọc quyển sách này . Và nếu là người thực sự cầu thị, thì ông phải khuyến khích các đảng viên của ông cùng đọc mới đúng . Và tôi tin lịch  sử sẽ rất công bằng với Huy Đức, một nhà báo dấn thân.
(Nguồn : QC)