#Stats1 ul{margin:0;border:0;padding:0;height:32px;background:url(//goo.gl/ZHG881) no-repeat 0 -34px} #Stats1 li{margin:10px 0;border:0;padding:0 0 0 40px;list-style-type:none} #totalComments{height:32px;background:url(//goo.gl/ZHG881) no-repeat} #totalCount{height:32px;background:url(//goo.gl/ZHG881) no-repeat 0 -68px}

Thứ Sáu, 1 tháng 2, 2013

CHÁU SẾP CÓ Ở TRUỒNG KHÔNG ?

Sao cho các cháu  thảy đều được no ấm thế này ? (ảnh Google)
Nghe con em nó bảo tôi sáng tác nhạc ra mà bán đi lấy tiền làm việc từ thiện, tôi mới chợt nhớ ra cũng phải năm, bảy năm nay tôi giã từ cái nghề vác ngà voi ấy, kể từ dạo thấy việc cô Đ. làm. Chả ra làm sao! Vẫn biết một con sâu làm rầu nồi canh, nhưng từ ấy, cái cô tên Đ. này làm cho tôi và cả tay "sếp" ( ở VN. bây giờ ai cũng là sếp) K. từ sốc đến nản, từ nản đến bỏ cuộc, thề không làm điều mà người ta gọi là việc từ thiện nữa. Dạo ấy ca đoàn chúng tôi, ỷ là một tập thể có sức khỏe, có tuổi trẻ, có lòng thành và tình thương rộng mở, đã hăng say lao đầu vào những công tác giúp đỡ bà con nghèo, lo lắng cho trẻ em khốn khó. Chúng tôi chủ trương không cho ai biết danh tánh, việc làm, bấy giờ cứ âm thầm rủ nhau  đi đến những mái ấm nhỏ bé, vô danh, những bệnh viện ngày lễ nghỉ, những hoàn cảnh không ai để ý đến... Chúng tôi bảo nhau gom góp tiền, quà lo cho những trường hợp ngặt nghèo mà bây giờ ti vi chiếu đầy ấy. Trong số những mái ấm chúng tôi đã tìm đến nhiều lần để chứng kiến điều kiện ăn, ở của các cháu thiếu thốn ra sao, có nhà của cô Đ. Sau mấy năm trời, sếp của tôi lo phụ giúp cô nuôi các cháu ăn học, chạy chỗ này, chỗ kia, nỉ non xin xỏ, cho đến một ngày, sếp tôi phát hiện ra, từ vốn nuôi trẻ, cô Đ đã tậu được năm ngôi nhà cao tầng cả thảy, và "người" đã cho bố mẹ anh chị em "người" đứng tên. "Người" vô can." Người" thật đã vô tâm, vô tình, vô tính không khác gì một cái frigidaire trước nỗi cô hàn của lũ trẻ mồ côi. Đang khi chúng tôi giúp "người" thì "người" chỉ lợi dụng trẻ con mà thôi. Tôi kể chuyện này không có bằng chứng, nhưng cái bằng chứng minh bạch nhất là ...lòng tôi. Tại sao bây giờ tôi lạnh nhạt với chuyện ...bao đồng ? Tại sao tôi có thể ôm mặt khóc khi nhìn ảnh các cháu vùng cao ăn uống khổ sở, thắt lòng xót dạ lại khi biết chúng phải ở truồng giữa thời tiết giá lạnh, chân tay tím ngắt, mà tôi buộc không làm được gì ? Bởi vì tôi đã bị cái tủ lạnh ấy làm đông cứng. Đó là bằng chứng thật nhất tôi chỉ biết nói ra thế . Ai không tin thì thôi.
Nhưng nói gì thì nói, lòng tôi thúc tôi, bắt tôi phải làm việc tôi có thể làm trong lúc này.
Hôm qua, xem bài báo Thư ngỏ của Trần Đăng Tuấn, tôi hơi bất bình vì công lao chú Tuấn viết thư dài mà lại thiếu thốn hình ảnh. Chỉ có 1 tấm ảnh, lại mờ mịt. May nhờ có Internet, tôi mới tìm thêm ra được bài mách lẻo thủ tướng rõ như ban ngày : Chúng nó ăn uống thế này đây,thưa thủ tướng nơi blog MTH.
Cái ông MTH hay quá ha, sau đó lại mách thủ tướng thêm cái tội chúng trẻ vùng cao Việt Nam mình dám ở truồng nữa. Ăn rồi lại còn mặc nữa, thật hư, thật tội."Thưa thủ tướng, chúng nó đang ở truồng"cái tít như thế, gõ Google mà xem. Mách thế là khéo rồi, thời nay lên mạng mách là nhanh nhất. Thủ tướng một là mù hơn tôi, hai là làm ngơ ngó lơ, hoặc bày vẽ cho có lòng thương xót tí, chứ không thể nói là không biết ( xem tại đây, đoạn đầu thì hiểu ).
Vậy, còn phần tôi, bởi tôi đã được xóa mù, thì tôi phải sử dụng khả năng "biết chữ" để làm gì cho các cháu. Không làm gì cho các cháu được thì tôi phải níu áo các sếp yêu.
Các sếp giàu lòng nhân ái, các sếp có tấm lòng vàng quý hóa, xin xem ảnh các cháu vùng cao ở truồng nè .
Các sếp có làm được gì cho các cháu đỡ cóng không ?
À quên, phải chờ "các quan chức ở cấp giữa" đã chứ nhỉ.




\




Thứ Năm, 31 tháng 1, 2013

CAM LÒNG Ở NÚI SAO ?


Nhiều khi mình muốn trốn đời luôn, nhưng khổ cái không đi tu được. Ai bảo đi tu là sướng chứ mình thấy đi tu khổ hơn ngoài đời nhiều, thôi không lên núi được thì xuống núi, xuống núi vưỡn hơn, muốn làm gì thì làm, ở trên núi, sợ nhất tiếng chuông. Chuông chùa thì phải tụng kinh, chuông cha lập tức làm thinh lên đền. Thế là  quanh quẩn làm sao sư bèn  xuống núi.
Lững thững gặp khối sự hay, tuy nhiều khi muốn ngồi khuất một mình, nhưng  sáng sớm mở mắt thấy chuyện nọ chuyện kia lại "bước chân đi cấm kỳ trở lại".
Hôm qua, liếc mắt đọc mấy cái tít trên một tờ nhật báo, định buột miệng than, xong lại thôi, than mãi à, ngày nào cũng than à, nghĩ bụng, bây giờ không cần suy nghĩ, chỉ lấy bút gom các cái tít to trên báo vào là thành một bài rất đáng hãi :
Sự lạc hậu được mặc định, vác hàng lậu từ Trung quốc về Việt Nam, lương thấp sao giữ được nhân tài, lãnh đạo nhiều hơn nhân viên, bắt hai nghi phạm giết đại gia ngành chè, một phạm nhân tử vong bất thường, tiêu huỷ hơn một tấn thịt gà thối, sản xuất gia vị không bảo đảm vệ sinh, lâm tặc đánh kiểm lâm trọng thương, lừa đảo qua mạng, hàng nhái ngập Móng Cái, một km đường cao tốc tốn 28,2 triệu USD, lừa “chạy” trường giá 250 triệu, những quyết sách giáo dục thiếu thuyết phục, khổ vì quy định lỗi thời, án lòng vòng số phận bị đùa cợt, làm rõ vì sao trẻ em thiếu đói….
Ấy là chỉ ở nguyên trên trang 01 của  2 tờ báo thôi, và ấy là chỉ nguyên ghi mỗi cái tít thôi. Tóm lại, toàn là những chuyện buồn, chuyện lo.
Sang tới báo hôm nay, lại liếc sơ. Thấy hơi hơi vui vì  vài tít có chữ Cần, chữ Cứu, chữ Bắt thiếu uý công an, nhưng vội lưu ý đến Thư ngỏ gửi bộ trưởng LĐ-TB-XH (tại đây) , bởi , thời nay nhiều thư ngỏ gửi rất “tâm trạng” nhưng hình như không được giải quyết  chắc vì không dán tem. Muốn xem thư ngỏ này có tâm trạng gì, xem rồi thật thương vì thư viết quá dài, kết luận  cũng chỉ  nào là “xin nhà nước”, “ hãy tiết kiệm”, “hãy tạo điều kiện”.
Nhẹ tênh !
Tấm ảnh đen trắng kèm bài thì mờ mịt, mới nhìn hết hồn tưởng con cháu mình ở vùng cao gầy đến  như bộ xương người thế này a , hóa ra không phải, là cái váy vàng xếp li, hai cánh tay cháu còn bưng nổi bát canh lều bều. Đây là bức ấy chụp màu ở trên mạng :
Chú thích trên báo Thanh Niên: Em bé vùng cao và suất cơm thiếu chất mà nhà báo Trần Đăng Tuấn bắt gặp. Ảnh Trần Đăng Tuấn.
Các cháu ơi, cố lên, ở Bắc Triều Tiên họ đói hơn mình nữa cơ, (tại đây)
( Nguồn HNC ,  blog)
hãy cố chờ cái bác bộ trưởng trả lời chú Trần Đăng Tuấn, chủ lá thư ngỏ này nhá. Chú Tuấn và mọi người thương các cháu lắm nhưng  chú đang còn phải “xin”, phải “hãy” các cháu ạ. Còn bao giờ “cho”, “ làm” của bác bộ trưởng thành sự thật thì bác đây không biết.
Cám ơn chú Tuấn đã vui lòng tả chân cảnh các bé mầm non đến bữa thì cô giáo phải “véo” từ các nắm cơm của các em khác dồn lại cho bé ăn. Có bé ăn bí ăn củ, có bé …chẳng có gì ăn.
Thôi thì rõ ràng hơn hết là  cứ đăng  ảnh màu lên thế này,  xem có thương không.( Ảnh trích từ bài : CHÚNG NÓ ĂN UỐNG NHƯ THẾ NÀY ĐÂY, THƯA THỦ TƯỚNG, blog MTH)

Nhưng nói thương bằng miệng không, đâu có được.
Mà muốn cho các cháu được có cơm có thịt thì phải làm sao ?
Trước hết,
Phải "xin", phải "hãy", và phải chờ cách cho  ở quyết định của những cấp quan chức ở giữa.
Đấy, nhìn lũ trẻ con ốm đói thế này, ai yên lòng mà …lên núi cho cam.

BÀN VỀ NHẠC SẾN

NHT. Khi cần biết ý kiến một người bạn nhờ tìm người hòa âm phối khí cho vài bài hát để thực hiện một CD, tôi hỏi : Thích nhạc sang hay nhạc sến ? Người bạn ngớ ra, hỏi lại thế nào là sang, thế nào là sến. Tôi cũng chẳng biết giải thích sao cho bạn  hiểu, bởi vì câu trả lời cho vấn đề này phải tùy thuộc vào kiến thức âm nhạc, thói quen nghe nhạc, đôi tai của của người hỏi, lại phải nói theo khía cạnh nào, phương diện nào nữa. Trước đây, trên tạp chí  nào đó, người ta có những bàn cãi về sang - sến rồi, hồi đó tôi có nhận xét là những giải thích ấy mang tính mơ hồ, chủ quan, cảm thụ cá nhân, tuy nhiên cũng có một vài ý tưởng hay. Thế nhưng để bảo phân tích cách dễ hiểu cho bạn, thì không biết phải nói thế nào đây. Vì bạn chuẩn bị làm album tân nhạc, nhưng đam mê của bạn lại là ...Cải lương. 
Vậy để đua theo trào lưu tân thời, văn minh Internet, tôi đây liền lướt web tìm câu trả lời. 
OK, có ngay. Ngắm thằng cu này cho vui. Đố biết nó đang hát nhạc sang hay nhạc sến mà mê tơi truyền cảm thế ? Theo tôi, cứ nhắm tít mắt hát quên chết như cu tí này là hát ...hay .



Bàn về nhạc sến
Tôi không phải là fan của nhạc sến, nhưng thỉnh thoảng vẫn nghe nhạc sến. Thật ra, tôi thấy rất khó phân biệt đâu là nhạc sến, và đâu là nhạc sang, bởi vì lằn ranh quá mong manh, nhất là trong bối cảnh âm nhạc Việt Nam. Hôm nay thấy trên báo Sức khỏe và Đời sống , cơ quan ngôn luận của Bộ Y tế, có bài “Nhạc sến biến dị” của Vương Tâm bàn về nhạc sến thời trước 1975 ở trong Nam. Chúng ta phải ngạc nhiên một tờ báo y tế của Bộ Y tế lại quan tâm đến … nhạc sến! Cũng là một bài báo lạ.
Nhưng trước hết, chúng ta cần phải biết “sến” là gì và nhạc sến là loại nhạc nào? Trong bài viết, tác giả không trả lời hai câu hỏi đó. Thay vào đó, tôi để ý đến đoạn như “Riêng dòng nhạc Sến, những điệu thức Bolero, Ballade... gắn với nội dung lời ca bi lụy, thất tình, đau khổ về số phận trớ trêu của kiếp nghèo, tập trung vào những chia ly và mất mát trong tình yêu. Lời hát não nề, than vãn cầu mong được bù đắp. Nhạc thì được phát triển giàu chất tự sự lê thê, buồn bã khai thác âm hưởng cổ nhạc theo hướng yếm thế, ru ngủ lòng người tạo nên cảm giác chán chường bế tắc.”
Tôi thấy một đoạn văn ngắn này có nhiều vấn đề cần phải xem xét lại. Trước hết, tôi không hiểu “điệu thức” là gì. Còn nhạc thì làm sao giàu chất tự sự được? Có lẽ tác giả muốn nói đến ca từ giàu chất tự sự chăng?
Điều làm tôi ngạc nhiên là tác giả cho rằng nhạc sến khai thác cổ nhạc! Nên nhớ rằng cổ nhạc như vọng cổ viết theo điệu ngũ cung (hò, xự, xang, xê, cống -- tương đương với ngũ hành là kim, mộc, thủy, thổ, hỏa), không phải như loại “tân nhạc” với thể điệu boléro có 7 nốt (do, re, mi, fa, sol, la, si). Mấy năm sau này tôi thấy có nhạc sĩ (như Minh Vy chẳng hạn) có công soạn tân nhạc nhưng mang âm điệu ngũ cung (như ca khúc Vọng cổ buồn chẳng hạn), và theo tôi đó là một nỗ lực rất đáng khen và khuyến khích.
Còn tác giả viết nhạc sến là những bài có điệu boléro, ballade, … chính là lấy từ chữ của một bài viết trên (Thanh Niên) vào năm 2005. Trong bài báo trên tờ Thanh niên, tác giả Hà Đình Nguyên viết: “Chưa có một quy định "chuẩn" nào để phân biệt bản nhạc này thuộc loại "sến", bản kia không "sến" nhưng không biết do đâu mà hầu như tất cả các bản nhạc được sáng tác trước 1975 - nhất là những bản có điệu boléro, rumba, ballade... đều bị quy là nhạc sến (tiếng "sến" được hiểu theo nghĩa dè bỉu, mỉa mai, khinh thị...).”
Nếu những cho rằng chia li và mất mát trong tình yêu là “sến”, thì tôi không biết tác giả có xem nhật kí của Bác sĩ Đặng Thùy Trâm là sến không? Tôi e rằng định nghĩa “sến” của tác giả chưa ổn mấy. Thật vậy, nếu định nghĩa theo nội dung (như đau khổ về số phận,trớ trêu của kiếp nghèo, những chia ly và mất mát trong tình yêu) thì tôi nghĩ một số bài “nhạc đỏ” cũng có thể xem là … sến, vì cũng có những chia li, nhưng trắc trở trong tình yêu, thân phận trong những bài “nhạc cách mạng”.
Điều làm tôi cực kì ngạc nhiên là tác giả liệt kê ca khúc Giết người trong mộng của nhạc sĩ Phạm Duy vào hàng nhạc sến! Không hiểu tác giả bài viết có biết qua hay có nghe qua ca khúc này chưa mà nói đó là một bài nhạc sến. Xin nói cho tác giả biết rằng ca khúc này thật ra là Phạm Duy phổ từ thơ của Hàn Mặc Tử đấy. Trong bài Hành khất, thi sĩ Hàn Mặc Tử viết:
Làm sao giết được người trong mộng
Để trả thù duyên kiếp phụ phàng ?
và nhạc sĩ tài hoa Phạm Duy lấy hai câu này để viết thành một ca khúc rất hay theo nhịp 4/4. Bài đó rất thịnh hành thời trước 1975. Tôi chưa nghe ai nhận xét rằng đó là một bài nhạc sến cả.
Tưởng cần nhắc lại rằng trước đây cũng có một ông nhạc sĩ trong nước (là con của cụ Nguyễn Xiển) viết rằng ca khúc Mùa thu chết của Phạm Duy là xuyên tạc cách mạng tháng 8! Chưa hết, ông nhạc sĩ này còn viết rằng Phạm Duy từng là bộ trưởng văn hóa thời Nguyễn Văn Thiệu! Đúng là “hết ý”. Hình như mấy ông viết mà không chịu tìm hiểu hay làm nghiên cứu về chủ đề mình viết.
Đến đây thì chúng ta cần phải đặt câu hỏi “sến” là gì? Giáo sư Cao Xuân Hạo  giải thích nguồn gốc chữ sến như sau: "Theo tôi, gốc của từ ‘sến’ phải bắt đầu từ chữ ‘sen’ trong nghĩa con sen, là đứa ở, con ở. [...] Từ ‘sen’ đọc trại thành ‘sến’ bởi sự khinh bỉ, là tầng lớp thấp, văn hóa kém. Còn nếu ứng dụng vào văn chương, nghệ thuật thì ám chỉ khẩu vị thấp hèn, ít có giá trị. Bàn riêng về chữ ‘sến’ trong ‘nhạc sến’, tôi nghĩ nghĩa gốc cũng vậy, không thay đổi nhiều lắm". Có thể xem thêm bài của Hoàng Phủ Ngọc Phan để biết thêm “câu chuyện”.
Báo Thanh Niên viết tiếp: "[…] Thôi thì, hễ loại nhạc nào mà các chị gánh nước mướn, các anh đạp xích lô, thợ thuyền (gọi chung là giới bình dân) khoái hát thì... đó là “nhạc sến”! Thật vậy, chúng ta chưa có một định nghĩa hoàn chỉnh nào để phân định rạch ròi giữa nhạc sến và nhạc sang. Trước năm 1975, người ta ngầm hiểu với nhau rằng “nhạc sến” chỉ những ca khúc “bình dân”, với điệu nhạc như vừa nói trên (boléro, rhumba, ballade, có khi cả slow), lời nhạc đơn giản đi thẳng vào những câu chuyện tình cảm éo le, tình nhân xa nhau (em thì ở “hậu phương”, còn anh ra “tiền tuyến”), hay chuyện cha mẹ không đồng ý cho cưới vì anh nghèo mà em thì giàu sang, v.v…
Theo tôi, nhạc sến có 3 đặc điểm chính như sau: nhạc điệu đơn giản, cách hát thì sướt mướt, và lời giản dị. Đặc điểm thứ nhất thì quá rõ ràng, vì phần lớn những bài ca mà người ta cho là sến thường dễ chơi. Chỉ cần một cây guitar là đủ. Còn âm điệu thì chỉ cần một hợp âm cũng đủ, hay nhiều lắm là 3 hợp âm. Thử so sánh bài Người yêu cô đơn với bài Áo anh sứt chỉ đường tà thì thấy bài nào dễ chơi hơn!
Đặc điểm thứ 2 là cách hát thường ngọt ngào, sướt mướt, và đau khổ. Không có cách diễn này thì không phải là nhạc sến. Nghe Chế Linh, Thanh Tuyền, Phương Dung, HoàngOanh, Thanh Thúy, v.v… thì sẽ thấy đặc tính này. Riêng Thanh Thúy mà ca nhạc của Trúc Phương thì ôi thôi nói mùi mẩn làm sao (và sến nữa)!
Đặc điểm thứ 3 có lẽ là “lợi hại” nhất là lời ca đơn giản, đi đẳng vào vấn đề. Nhạc sến không có những câu triết lí cao siêu, mà toàn là những câu chữ ngay cả anh tài xế xích lô và chị bán hàng cá có thể hiểu được:
Tại anh đó nên duyên mình dở dang
em nào mộng mơ quyền quý cao sang
hay:

Một hôm tôi đên tìm em
để từ giã lên đường
Gửi lại phố phường
chuyện đôi mình thương mai xa cách ngàn phương
Cuộc đời sương gió,
chiến chinh nơi miền xa qua những vùng xa lạ quá
Quê hương bao la,
những chiều đóng quân ven rừng,
gặp hoa trắng ngày xưa thương em nói sao cho vừa
(bài Người em xóm đạo)
Làm sao bảo anh xích lô và chị bán bún mắm hiểu được nhưng câu như sau:
Ta thấy em trong tiền kiếp với mặt trời lẻ loi
hay
Ôm lòng đêm nhìn vầng trăng mới về
nhớ chân giang hồ
Ôi phù du
từng tuổi xuân đã già
một ngày kia đến bờ
đời người như gió qua
hay
Từ giã hoàng hôn trong mắt em
tôi đi tìm những phố không đèn
Thật ra, có mấy người gọi là (hay tự xưng là) “trí thức” hiểu được những câu trên? Tôi nghĩ không nhiều đâu. Có thể họ nghĩ rằng họ hiểu, nhưng trong thực tế thì họ không hiểu.Có phải viết ra những câu chữ làm người ta phải vò đầu bức tóc để suy nghĩ nó có nghĩa là gì là sang chăng? Tôi nghi ngờ lắm.
Người ta tưởng rằng phải dùng từ ngữ của Tây, của Tàu thì mới sang, còn nói thẳng như người Nam bộ là … sến. Đã có quá nhiều người nói những danh từ sang, những thuật ngữ khoa học, nhưng nếu hỏi thật thì có bao nhiêu người nói những thuật ngữ đó hiểu họ nói cái gì hay hiểu thuật ngữ đó có nghĩa là gì. Kinh nghiệm của tôi cho thấy con số hiểu không nhiều đâu. Nói đến đây tôi nhớ đến ngày xưa khi học toán, thầy cứ giảng “tuyến tính” và chúng tôi cứ cấm đầu cấm cổ nói “tuyến tính” mà chẳng hiểu nguồn gốc của thuật ngữ này. Đến khi sang đây, sách tiếng Anh viết rõ ràng là straightline (đường thẳng). Ôi, dễ hiểu làm sao! Đường thẳng thì nói huỵch tẹt ra là đường thẳng, mắc mớ gì mà nói tuyến tính để làm đau đầu học trò? Đọc sách Kinh Dịch của người Việt dịch tôi chẳng hiểu gì, nhưng đọc sách dịch của người Tây phương dịch thì rất dễ hiểu. Nhạc sến có ca từ đơn giản đi thẳng vào vấn đề, và theo tôi xu hướng đó không có gì là có hại cả.Vậy thì xin đừng trách sến nhé!
Trong bài báo trên Sức khỏe và Đời sống, tác giả nói đến ảnh hưởng tiêu cực của nhạc sến như sau: “Những nỗi đau yếm thế, cô đơn và than vãn trong nghèo túng là màu sắc điển hình cho dòng nhạc Sến đã làm ảnh hưởng tới tâm lý người nghe và làm thui chột những khát vọng lớn lao và hướng tới tương lai.” Nhưng rất tiếc tôi không thấy tác giả trưng bày bằng chứng cho câu phát biểu này. Theo tôi thì nhạc sến cũng có công làm giàu ngôn ngữ Việt đó chứ. Xin dẫn chứng một vài bài:
Con đường xưa em đi
vàng lên mái tóc thề
ngõ hồn dâng tái tê
anh làm thơ vu qui
khách qua đường lắng nghe
chuyện tình ta đã ghi
(bài Con đường xưa em đi)
hay
chiều nào nâng li bôi
tình vừa mới chấp nối
chia li mà không nói nhau một lời
để rồi bao năm sau
phong sương mòn vai áo
nhớ cố nhân muốn tìm tạ lòng nhau
(bài Chuyện đêm mưa)
cũng có những ca từ trữ tình ra phết đó chứ.
Đọan này của tác giả làm tôi sợ nhất: “Các nhà quản lý văn hóa của ta rất cân nhắc trong việc cấp phép cho các ca khúc này được phổ biến ở Việt Nam. Nhưng đây là chỉ cấm đối với các ca sĩ trong nước chứ các chương trình lậu ở hải ngoại hàng ngày vẫn được đưa về.” Nghe cứ như là thời bao cấp. Câu phát biểu còn hàm ý kiểm soát và quản lí tư tưởng văn nghệ của người dân. Nếu tư tưởng là tự do hoạt động cao quí nhất của con người thì khống chế và kiểm soát tư tưởng là một hành động bỉ ổi nhất, bởi vì hành động đó làm cho người ta trở thành nô lệ (do nô lệ là người mất tự do tư tưởng). Có lẽ tác giả nghĩ rằng phải kiểm soát định hướng sáng tác, cơ quan tuyên truyền bảo phải thích hoặc ghét cuốn sách nào, khúc nhạc nào, phim nào, thì người dân sẽ thích hoặc ghét những sách đó, khúc nhạc đó, phim đó. Tôi nghĩ rằng đây là một suy nghĩ sai. Trong thực tế, chúng ta thấy sau 1975, nhiều ca khúc sáng tác trước 1975 ở miền Nam bị cấm lưu hành, nhưng trong xã hội thì những ca khúc này vẫn sống và sống mạnh, thậm chí còn lan tràn ra tận ngoài Bắc. Thử vào các quán karaoke thì biết ngay. Theo tôi, không nên tìm cách pha trộn văn chương với tuyên truyền, hay biến nghệ thuật thành chính trị được. Ngày xưa, Mạnh Tử từng nói “quân chi thị thần như thổ giới, tắc thần thị quân như khấu thù” (Vua mà coi bề tôi như cỏ rác thì bề tôi coi vua như khấu thù). Bây giờ mình không có vua với thần dân, nhưng có mấy “ông văn hóa” và người dân, và tôi nghĩ câu nói vẫn còn tính thời sự của nó.
NVT

Thứ Tư, 30 tháng 1, 2013

TONY MELENDEZ và ...

 Never Be The Same
NHT. : KHÔNG LỜI

TIỄN PHẠM DUY NHỚ HỮU LOAN

NHT. Một trong những ca khúc nổi tiếng của Phạm Duy là bài " Áo anh sứt chỉ đường tà", phổ từ bài thơ "Màu tím hoa sim" của Hữu Loan. Thuở bé, nhà ở Đà Lạt, ở Đơn Dương, ở Lạc Xuân, tôi đã từng tha thẩn chơi  trên đồi thông, đồi sim, hái sim ăn, thích hoa sim, thích màu tím và lớn lên thì thích bài hát này, tuy hơi dài nhưng được nghe biết chuyện đời và tâm sự thật của nhà thơ, thấy bài hát cũng dễ thuộc. Theo tôi, giá trị của một ca khúc, dù nhỏ bé đến đâu, cũng không phải ở tính hàn lâm, mà là ở cái hồn của nó còn  sống mãi trong lòng người yêu thơ, yêu nhạc, cho dù người trong chuyện đã khuất, cho dù tác giả đã qua đời. Hồn của Màu tím hoa sim như vậy. Biệt Phạm Duy lại nhớ Hữu Loan.




Lời tự thuật 
của tác giả bài thơ "Màu Tím Hoa Sim"
Hữu Loan: Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có cơ may cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa, chỉ được cha dạy cho dăm chữ bữa có bữa không ở nhà. Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người. Lên trung học, theo ban thành chung tôi cũng học tại Thanh Hóa, không có tiền ra Huế hoặc Hà Nội học. Đến năm 1938 - lúc đó tôi cũng đã 22 tuổi - Tôi ra Hà Nội thi tú tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi không có ý định dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng biết thi tú tài thời Pháp rất khó khăn. Số người đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5-6 chục năm sau những người cùng thời còn nhớ tên những người đậu khóa ấy, trong đó có Nguyễn Đình Thi , Hồ Trọng Gin, Trịnh văn Xuấn , Đỗ Thiện và …tôi - Nguyễn Hữu Loan.

Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý, mời về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái thị Ngọc Chất ,bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ , tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên. Ở Thanh Hóa, Bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới.
Bà tham Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi chẳng khác như người nhà. Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con gái - lúc đó mới 8 tuổi- mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí: "Em chào thầy ạ!" Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằn sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời. Thế là tôi dạy em đọc, dạy viết. Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu đấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng thì cứ y như một "bà cụ non". Đặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm chổ tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng nước em vừa hái ở vườn, những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng giặt .....
Có lần tôi kể chuyện " bà cụ non" ít nói cho hai người anh của em Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em giận! Suốt một tuần liền, em nằm lì trong buồng trong, không chịu học hành... Một hôm bà tham Kỳ dẫn tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể chuyện em nghe, rồi tôi đọc thơ... Trưa hôm ấy, em ngồi dậy ăn một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn buồng. Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả nhà không ai đồng ý: "Mới ốm dậy còn yếu lắm, không đi được đâu" Em không chịu nhất định đòi đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà tham Kỳ đưa em lên núi chơi .....

Xe kéo chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc, tôi đuổi theo muốn đứt hơi. Lên đến đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em.Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói gì. Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân trời, không biết lúc đó em nghĩ gì. Bất chợt em hỏi tôi:
-Thầy có thích ăn sim không ?
Tôi nhìn xuống sườn đồi: tím ngắt một màu sim. Em đứng lên đi xuốn sườn đồi, còn tôi vì mệt quá nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ....Khi tôi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những quả sim đen láy chín mọng.
-Thầy ăn đi.
Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng trầm trồ: -Ngọt quá.

Như đã nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, quả sim đối với tôi chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú thật tôi chưa bao giờ ăn những quả sim ngọt đến thế!
Cứ thế, chúng tôi ăn hết qủa này đến qủa khác. Tôi nhìn em, em cười. Hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi em cũng đỏ tím, hai bên má thì....tím đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo!
Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của ông bà tham Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi... lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng ,em vẫn đứng đó nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và lầm lũi đi...Tôi quay đầu nhìn lại... em vẫn đứng yên đó ... Tôi lại đi và nhìn lại đến khi không còn nhìn thấy em nữa...
Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi vẫn được tin tức từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại, khi em mới 15 tuổi đã có nhiều chàng trai đên ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ ...
Chín năm sau, tôi trở lại nhà...Về Nông Cống tìm em. Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em , hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi. Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp....
Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sợ vì hai gia đình không môn đăng hộ đối một chút nào. Mãi sau này mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm " soạn kịch bản".
Một tuần sau đó chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới thì em gạt đi, không đòi may áo cưới trong ngày hợp hôn, bảo rằng là: " yêu nhau, thương nhau cốt là cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả". Tôi cao ráo, học giỏi, Làm thơ hay...lại đẹp trai nên em thường gọi đùa là anh chồng độc đáo. Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long,huyện Nông Công, tỉnh Thanh Hóa của gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng. Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết!
Hai tuần phép của tôi trôi qua thật nhanh, tôi phải tức tốc lên đường hành quân, theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ. Hôm tiễn tôi lên đường, em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng. Chỉ có giờ em không còn cô bé Ninh nữa mà là người bạn đời yêu quý của tôi. Tôi bước đi, rồi quay đầu nhìn lại.....Nếu như chín năm về trước, nhìn lại chỉ thấy một nỗi buồn man mác thì lần này, tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống.
Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời! Em chết thật thảm thương: Hôm đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồn (thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn trôi đi nên trượt chân chết đuối! Con nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn lòng tri kỷ, để lại tôi tôi nỗi đau không gì bù đắp nỗi. Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm sâu thẳm trong trái tim tôi.
Tôi phải giấu kín nỗi đau trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Tôi như một cái xác không hồn....Dường như càng kềm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May sao, sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm sự gì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong lòng tôi được bung ra. Khi ấy chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An, tôi ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra ghi chép. Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra:
Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội 
Những em nàng có em chưa biết nói "Khi tóc nàng đang xanh ..." ...Tôi về không gặp nàng...
Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương, viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh Hóa... Anh bạn này đã chép lại và truyền tay nhau trong suốt những năm chiến tranh. Đó là bài thơ Màu Tím Hoa Sim.

Đến đây, chắc bạn biết tôi là Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 2-4-1916 hiện tại đang "ở nhà trông vườn" ở làng Nguyên Hoàn - nơi tôi gọi là chổ "quê đẻ của tôi đấy" thuộc xã Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa.
Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay nơi em bị nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên tôi viết mới nổi những câu : 
Chiều hành quân, qua những đồi sim
 / Những đồi sim, những đồi hoa sim / 
Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
 / Màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt / 
Và chiều hoang tím có chiều hoang biết / 
Chiều hoang tim tím thêm màu da diết.
Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời, chán kháng chiến, bỏ đồng đội, từ giã văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi" hay cãi, thích chống đối, không thể làm gì trái với suy nghĩ của tôi". Bọn họ chê tôi ủy mị, hoạch hoẹ đủ điều, không chấp nhận đơn từ bỏ kháng chiến của tôi. Mặc kệ! Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi quá! Với lại tôi cũng chán ngấy bọn họ quá rồi!
Đó là thời năm 1955 - 1956, khi phong trào văn nghệ sĩ bùng lên với sự xuất hiện của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm chống chính sách độc tài, đồng thời chống những kẻ bồi bút đan tâm lừa thầy phản bạn, dốc tâm ca ngợi cái này cái nọ để kiếm chút cơm thừa canh cạn. Làm thơ thì phải có cái tâm thật thiêng liêng thì thơ mới hay. Thơ hay thì sống mãi. Làm thơ mà không có tình, có tâm thì chả ra gì! Làm thơ lúc bấy giờ là phải ca tụng, trong khi đó tôi lại đề cao tình yêu, tôi khóc người vợ tử tế của mình, người bạn đời hiếm có của mình. Lúc đó tôi khóc như vậy họ cho là khóc cái tình cảm riêng....Y như trong thơ nói ấy, tôi lấy vợ rồi ra mặt trận, mới lấy nhau chưa được hơn một tháng, ở nhà vợ tôi đi giặt rồi chết đuối ở sông ... Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ cho tôi là phản động. Tôi phản động ở chổ nào? Cái đau khổ của con người, tại sao lại không được khóc?
Bọn họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối với người vợ mà tôi hằng yêu quý, cho nên vào năm 1956, tôi bỏ đảng, bỏ cơ quan, về nhà để đi cày. Họ không cho bỏ, bắt tôi phải làm đơn xin. Tôi không xin, tôi muốn bỏ là bỏ, không ai bắt được! Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày đi bừa, đi đốn củi, đi xe đá để bán. Bọn họ bắt giữ xe tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước, có hai cái càng ở phía sau để đủn hay kéo. Xe cút kít họ cũng không cho, tôi phải gánh bộ. Gánh bằng vai tôi, tôi cũng cứ gánh, không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ theo dõi, ngăn cản, đi đến đâu cũng có công an theo dõi, cho người hại tôi...
Nhưng lúc nào cũng có người cứu tôi! Có một cái lạ là thơ của tôi đã có lần cứu sống tôi! Lần đó tên công an mật nói thật với tôi là nó được giao lệnh giết tôi, nhưng nó sinh ở Yên Mô, thường đem bài Yên Mô của tôi nói về tỉnh Yên Bình quê nó ra đọc cho đỡ nhớ, vì vậy nó không nỡ giết tôi.
Ngoài Yên Mô, tôi cũng có một vài bài thơ khác được mến chuộng. Sau năm 1956 , khi tôi về rồi thấy cán bộ khổ quá, tôi đã làm bài Chiếc Chiếu, kể chuyện cán bộ khổ đến độ không có chiếc chiếu để nằm!
Định mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với một phụ nữ khác, sống cùng tôi cho đến tận bây giờ. Cô tên Phạm Thị Nhu, cũng là phụ nữ có tâm hồn sâu sắc. Cô vốn là một nạn nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ năm 1954, 1955.
Hữu Loan và bà Phạm Thị Nhu
Lúc đó tôi còn là chính trị viên của tiểu đoàn. Tôi thấy tận mắt những chuyện đấu tố. Là người có học , lại có tâm hồn nghệ sĩ nên tôi cảm thấy chán nản quá, không còn hăng hái nữa. Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô cùng. Trong một xã thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách xa nơi tôi ở 15 cây số, có một gia đình địa chủ rất giàu, nắm trong gần năm trăm mẫu tư điền.
Trước đây, ông địa chủ đó giàu lòng nhân đạo và rất yêu nước. Ông thấy bộ đội sư đoàn 304 của tôi thiếu ăn nên ông thường cho tá điền gánh gạo đến chổ đóng quân để ủng hộ. Tôi là trưởng phòng tuyên huấn và chính trị viên của tiểu đoàn nên phải thay mặt anh em ra cám ơn tấm lòng tốt của ông, đồng thời đề nghị lên sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen ngợi để vinh danh ông .
Thế rồi, một hôm, tôi nghe tin gia đình ông đã bị đấu tố. Hai vợ chồng ông bị đội Phóng tay phát động quần chúng đem ra cho dân xỉ vả, rồi chôn xuống đất, chỉ để hở hai cái đầu lên. Xong họ cho trâu kéo bừa đi qua đi lại hai cái đầu đó cho đến chết. Gia đình ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đội Phóng tay phát động đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ rách. Tàn nhẫn hơn nữa, chúng còn ra lệnh cấm không cho ai được liên hệ, nuôi nấng hoặc thuê cô ta làm công. Thời đó, cán bộ cấm đoán dân chúng cả việc lấy con cái địa chủ làm vợ làm chồng.
Biết chuyện thảm thương của gia đình ông bà địa chủ tôi hằng nhớ ơn, tôi trở về xã đó xem cô con gái họ sinh sống ra sao vì trước kia tôi cũng biết mặt cô ta. Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé cứ buổi chiều lại lén lút đứng núp bên ngoài cửa sổ nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn.
 
Lúc gần tới xã, tôi gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt mày lem luốc. Cô đang lom khom nhặt những củ khoai mà dân bỏ sót, nhét vào túi áo, chùi vội một củ rồi đưa lên miệng gặm, ăn khoai sống cho đỡ đói. Quá xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi đến gần và hỏi thăm và được cô kể lại rành rọt hôm bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc rưng rức và nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi; hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về ngủ trong chiếc miếu hoang, cô rất lo lắng, sợ bị làm bậy và không biết ngày mai còn sống hay bị chết đói.
Tôi suy nghĩ rất nhiều, bèn quyết định đem cô về làng tôi, và bất chấp lệnh cấm, lấy cô làm vợ. Sự quyết định của tôi không lầm. Quê tôi nghèo, lúc đó tôi còn ở trong bộ đội nên không có tiền, nhưng cô chịu thương chịu khó , bữa đói bữa no....Cho đến bây giờ cô đã cho tôi 10 người con - 6 trai , 4 gái - và cháu nội ngoại hơn 30 đứa!
Trong mấy chục năm dài, tôi về quê an phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, ngày ngày đào đá núi đem đi bán, túi dắt theo vài cuốn sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc cho giải sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm thơ, thế mà chúng vẫn trù dập, không chịu để tôi yên. Tới hồi mới mở cửa, tôi được ve vãn, mời gia nhập Hội Nhà Văn, tôi chẳng thèm gia nhập làm gì.
Năm 1988, tôi " tái xuất giang hồ" sau 30 năm tự chôn và bị chôn mình ở chốn quê nghèo đèo heo hút gió. Tôi lang bạt gần một năm trời theo chuyến đi xuyên Việt do hội văn nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ chức để đòi tự do sáng tác, tự do báo chí - xuất bản và đổi mới thực sự.
 
Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, công ty Viek VTB đột nhiên đề nghị mua bản quyển bài Màu Tím Hoa Sim của tôi với giá 100 triệu đồng. Họ bảo đó là một hình thức bảo tồn tài sản văn hóa. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu trừ thuế đi còn 90 triệu, chia "lộc" cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu đồng, phòng đau ốm lúc tuổi già, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan.
 
Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy bài thơ khác , nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để bán.
(Nguồn: www.danchimviet.com/articles/2004/1/Li-t-thut-ca-tac-gi-1-bai-th-ni-ting-Mau-Tim-Hoa-Sim/Page1.html)

Màu Tím Hoa Sim
Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng đang xanh
Tôi người vệ quốc quân xa gia đình
Yêu nàng như yêu người người em gái.
Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
Đôi giày đinh bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
Bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Lỡ khi mình không về thì thương người vợ chờ bé bỏng chiều quê..
Nhưng không chết người trai khói lửa
Mà chết người gái nhỏ hậu phương.
Tôi về không gặp nàng
Má ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
Thành bình hương tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
Không được nghe nhau nói
Không được nhìn nhau một lần
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
Áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa một mình đèn khuya bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo ngày xưa...
Một chiều rừng mưa
Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc
Biết tin em gái mất
Trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu vàng cỏ vàng chân mộ chí
Chiều hành quân qua những đồi sim
Những đồi sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
Tím chiều hoang biền biệt
Nhìn áo rách vai tôi hát trong màu hoa
(áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu...)
HỮU LOAN

Thứ Ba, 29 tháng 1, 2013

PHẠM THIÊN THƯ NHỚ PHẠM DUY


TP - Ngày 28-1, chúng tôi tới nhà Phạm Thiên Thư thì ông vừa đi viếng Phạm Duy về. Ông cho biết, rất đông người hâm mộ và bạn bè tới viếng nhạc sĩ tại tư gia số 349/126 Lê Đại Hành, P15, Q11, TPHCM dù lễ động quan tới 3-2 mới diễn ra.
 Phạm Thiên Thư bên tấm hình Phạm Duy treo trong nhà. 
Ảnh: T.N.A .
Phạm Duy phổ nhạc tới vài chục bài thơ của Phạm Thiên Thư, người hát chủ yếu là Thái Thanh: Ngày xưa Hoàng Thị, Động Hoa Vàng, Đi lễ chùa này… “Thế hệ của ông ấy chỉ còn lại Trần Văn Khê”- Phạm Thiên Thư thua Phạm Duy 20 tuổi, giữa họ có mối tri kỷ của một nhạc sĩ và một nhà thơ.
Nhớ lại ngày đầu gặp gỡ nhạc sĩ tài danh, Phạm Thiên Thư kể: “Tôi tổ chức học hội Hồ Quý Ly, kêu gọi lòng yêu nước, bị chính quyền cũ gây khó dễ nên tôi vào chùa làm thơ, một số bài được lan truyền. Phạm Duy khi ấy rất nổi tiếng, đến chùa thăm tôi là một cư sĩ tuổi đôi mươi chẳng tiếng tăm gì”.
Cuộc gặp gỡ có cả nhà văn Nguyễn Đức Quỳnh. Ông Quỳnh gợi ý: “Nhạc ông Duy toàn chất đời, nay gặp cư sĩ làm thơ về đạo, vậy hai ông nên kết hợp”. Phạm Duy đề nghị Phạm Thiên Thư viết 10 bài thơ. Thi sĩ kể: “Tôi lao vào viết trong 3 ngày. Ông Duy phổ nhạc một tuần thì xong”.
Các bài hát được thu âm và tạo ra một làn sóng hát nhạc đạo Phật trong các ca sĩ. Ngay sau đó nhà xuất bản in tập nhạc với số lượng lớn. “Nhuận bút cho tôi và Phạm Duy là 150.000 đồng, tôi nhận 50 ngàn đồng về mua sách và tặng cho những bằng hữu nghèo khó”.
Nhà thơ cho biết, số tiền 50 ngàn đồng tương đương 3 lượng vàng hồi ấy. “Chưa bao giờ tôi nhận một số tiền lớn như thế”.
Tình bạn của họ rất tự nhiên. “Một hôm tôi rủ Phạm Duy ra ngoại thành uống cà phê. Chúng tôi ngồi trên tàu hỏa xuống Thủ Đức. Phạm Duy rất khoái, ngồi chồm hổm trên ghế băng.Tôi mua lạc rang cho ông ấy ăn.
Phạm Duy nói: Lâu lắm mới được sống dân dã thế này, không gì thích bằng. Vừa dứt lời người ta nhận ra nhạc sĩ, kéo tới kín cả toa tàu, thế là ông Duy lại phải ngồi thẳng thớm và không dám ăn lạc rang nữa”.
Họ ra ngoại thành uống cà phê. “Phạm Duy nói ông ấy có vợ con rồi, nhiều người hâm mộ, nhưng luôn cảm thấy cô đơn. Bài hát viết nhiều, nổi tiếng đấy, nhưng lại chưa đạt được những gì mình muốn. Phạm Duy là người luôn cầu tiến”.
Phạm Thiên Thư là cư sĩ, có vài chút tình thoảng đưa. Phạm Duy khi ấy có nhiều người thích. Phạm Duy nói với Phạm Thiên Thư: “Họ hâm mộ tôi nhiều hơn là yêu tôi”.
Tháng 4 năm 1975, Phạm Duy đến gặp bạn: “Ông có muốn ra nước ngoài không, ngày mai có máy bay đưa đi”. “Tôi là người Việt Nam, không bao giờ đi đâu cả”.
Những năm 1990 Phạm Duy về thăm quê hương. Khi đó Phạm Thiên Thư đang trồng cây thuốc chữa bệnh ở trên rừng. Thi sĩ nói: “Tôi có thể làm cho ông một cái lán ở trong rừng với tôi” nhưng Phạm Duy không phải người thích ẩn dật.
Phạm Duy vẫn viết không ngừng và trăn trở về tác phẩm như những năm xưa. Phạm Thiên Thư nói: “Người ta ở đời thường muốn sống theo kiểu tiên hoặc kiểu thần. Sống kiểu tiên là ngao du, thỏa chí mình, không quan tâm đến sự đánh giá của thiên hạ. Sống kiểu thần thì muốn xông pha làm nên công trạng hiển hách. Phạm Duy là mẫu người thứ hai. Ông ấy không bao giờ bằng lòng với mình, suốt đời đau đáu. Và bao năm gặp lại ông ấy vẫn bảo: Càng ngày tôi càng thấy cô đơn hơn ông Thư ạ”.
Khoảng cách 20 tuổi không phải khoảng cách của hai thế hệ mà lại là sự cộng hưởng của hai tâm hồn tri kỷ dù quan niệm sống khác hẳn nhau.
Chẳng hạn năm 1975 Phạm Thiên Thư ở lại quê hương làm nghề cắt tóc trong hợp tác để sinh sống, Phạm Duy một lần nữa rời xa bạn bè thân thiết để ra đi với những dự định sáng tác.
Có lần Phạm Duy nói với người viết bài này rằng ông không chia sáng tác của mình ra các giai đoạn trong nước và hải ngoại, bởi ông chỉ có một con đường sáng tác duy nhất, có một thứ duy nhất đó là “âm nhạc Phạm Duy”. “Dù ở đâu, tôi cũng trung thành với bản thân”.
“Phạm Duy là người nổi tiếng nhưng ông sống dung dị, mối quan hệ trải rộng từ người nổi tiếng đến những người bình dân” - Phạm Thiên Thư nhận xét.
“Phạm Duy là nghệ sĩ cô đơn luôn cố gắng để khỏa lấp sự cô đơn nhưng không thể. Dường như cô đơn là phẩm chất của những nghệ sĩ lớn”- Phạm Thiên Thư bình luận.
Trần Nguyễn Anh
(Tiền Phong online)