#Stats1 ul{margin:0;border:0;padding:0;height:32px;background:url(//goo.gl/ZHG881) no-repeat 0 -34px} #Stats1 li{margin:10px 0;border:0;padding:0 0 0 40px;list-style-type:none} #totalComments{height:32px;background:url(//goo.gl/ZHG881) no-repeat} #totalCount{height:32px;background:url(//goo.gl/ZHG881) no-repeat 0 -68px}

Thứ Bảy, 3 tháng 1, 2015

HẠT KINH VÀ THÁNH KINH


Nguyên tác Anh ngữ:
Beads And The Bible – Entering the Mysteries of Prayer
By John F. Craghan
(http://www.liguori.org/productdetails.cfm?sku=817847)

Hạt Kinh và Thánh Kinh
Khám phá Mầu Nhiệm trong Cầu Nguyện

Việt ngữ:
Cecilia Mỹ-Hạnh Nguyễn

Kính dâng Mẹ Fatima, như một lời kinh Mân Côi.

Cảm ơn chú Tá đã gởi công việc này cho con,
để con có dịp học hỏi về Thánh Kinh
và biết suy ngắm Mầu Nhiệm Mân Côi.

* Tài liệu này dùng bản dịch Thánh Kinh của
Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ.

** Mặc dù hết sức cố gắng, nhưng với trình độ hạn hẹp,
bản Việt ngữ này chắc chắn không tránh khỏi sai sót.
Mọi góp ý hay sửa đổi xin gởi về
hanhmynguyen@gmail.com
Chân thành cảm ơn.

Cecilia Mỹ-Hạnh Nguyễn
13.Oct.2009 –19.Nov.2010



Mục lục
Giới thiệu 4
Lời Mở Đầu 5
Bản chất của việc cầu nguyện 5
Ý nghĩa của Mầu Nhiệm 6
Chuỗi Mân Côi và Thánh Kinh 8
Nhấn mạnh đặc tính Ki-tô học 8
Đọc kinh Mân Côi với Thánh Kinh bằng cách nào 9
Chương 1 – Mầu Nhiệm Năm Sự Vui 11
Truyền Tin 11
Thăm viếng 13
Giáng Sinh 15
Dâng Vào Đền Thánh 17
Tìm được con nơi Đền Thánh 19
Chương 2 – Mầu Nhiệm Năm Sự Sáng 21
Đức Giê-su nhận Phép Rửa ở Gio-đan 21
Tiệc cưới Ca-na 23
Công bố Nước Trời 25
Hiển Dung 27
Bí Tích Thánh Thể 29
Chương 3 – Mầu Nhiệm Năm Sự Thương 32
Lo buồn trong vườn dầu 32
Chịu đánh đòn 34
Mão gai 36
Vác Thập Tự 38
Chịu đóng đinh và chịu chết 40
Chương 4 – Mầu Nhiệm Năm Sự Mừng 43
Phục Sinh 43
Thăng Thiên 45
Thánh Linh Hiện Xuống 47
Đức Ma-ri-a lên trời 49
Đức Ma-ri-a được tôn phong làm Nữ Vương Trời Đất 51

Giới thiệu

Hạt Kinh và Thánh Kinh nói về các mầu nhiệm trong chuỗi mân côi, đào sâu kinh nghiệm cầu nguyện trong từng mầu nhiệm với chủ ý đưa ra những ý tưởng cho việc suy niệm hằng ngày. Tiến sĩ Craghan giải thích các mầu nhiệm mân côi dựa vào các văn bản Thánh Kinh phù hợp với những mầu nhiệm đó. Phần giải thích quý giá này, được nối tiếp bằng phần suy niệm sau đó, giúp độc giả khi đọc kinh mân côi, được say đắm chiêm nghiệm những đoạn Thánh Kinh nhấn mạnh đến Lời sống động một cách huyền diệu của Thiên Chúa.

“Nhiệm vụ của chúng ta là chấp nhận để cho Lời Chúa xuyên nhập vào toàn thể con người mình, để Lời Chúa thấm đượm vào toàn bộ bản thể trong một cách mà qua đó Lời Chúa có thể an ủi và thách đố chúng ta, có thể gây ngạc nhiên và phục hồi năng lực của chúng ta. Lời Thiên Chúa không phải là một tập hợp đầy bụi bặm những văn bản khó hiểu từ mãi tận miền Cận Đông cổ xưa, mà là một chuỗi sống động những cuộc hội ngộ giữa Thiên Chúa và loài người.”

- Trích Lời Mở Đầu

Hãy khám phá những mầu nhiệm trong kinh mân côi và hãy thức tỉnh khi Lời Chúa tác động trong tâm hồn bạn, để cảm nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa cách trọn vẹn hơn.
Tiến sĩ John Craghan, Giáo Sư Danh Dự (Professor Emeritus) môn Tôn Giáo Học tại St. Norbert College, De Pere, Wisconsin, có bằng Tiến Sĩ Thần Học (ThD) của Đại Học Munich, bằng SSL (Licentiate in Sacred Scripture) của Học Viện Thánh Kinh Giáo Hoàng ở Rome/Jerusalem, và bằng Thạc Sĩ (MA) về lịch sử, ngôn ngữ, văn hóa, văn chương Semitics của Đại Học Columbia ở New York. Ông đã giảng dạy Thánh Kinh tại nhiều nơi ở Hoa Kỳ và Châu Mỹ La-tinh, và từng là chủ bút của các Tập San Thần Học Thánh Kinh và Thánh Kinh trong Giáo Hội. Trong số các tác phẩm đã xuất bản của ông có Hành Trình Khám Phá Thánh Kinh: Sáng Thế, Thánh Vịnh Các Mùa Phụng Vụ, và Lời Hôm Qua trong Hôm Nay.

Lời Mở Đầu
Bản chất của việc cầu nguyện

Điều gì diễn ra khi ta cầu nguyện? Điều gì thực sự diễn ra khi chúng ta quyết tâm gạt bỏ những lo toan thường ngày để mong gặp gỡ Thiên Chúa qua việc cầu nguyện? Việc hội ngộ với Thiên Chúa khi cầu nguyện có những khó khăn gì và những ích lợi gì? Quyển sách này không phải là lời giải đáp cặn kẽ của những câu hỏi trên. Trái lại, đây chỉ là một nỗ lực nhằm nhấn mạnh một vài khía cạnh và chiều kích của việc cầu nguyện.

Trong xã hội đương thời, giới truyền thông cứ liên tục tấn công chúng ta từ mọi phía, không những chỉ bằng những tin tức thời sự hằng ngày, mà còn bằng những suy diễn / diễn giải chủ quan của họ. Sự cầu nguyện đúng nghĩa bắt buộc chúng ta phải phản ứng lại với hàng loạt những thông tin này. Việc cầu nguyện khiến chúng ta phải đặt câu hỏi về quan điểm của Thiên Chúa đối với thực tại. Việc cầu nguyện thách thức chúng ta dám tìm hiểu xem Thiên Chúa sẽ lượng định những thông tin đó như thế nào, và muốn chúng ta phản ứng với những thông tin đó ra sao. Phần Lời Nguyện Tín Hữu trong Thánh Lễ ít nhất cũng là một trong những cách mà chúng ta sắp xếp câu trả lời của mình.

Abraham Heschel, một học giả Do-thái nổi tiếng, đã giải thích thật khéo léo về sự khác nhau giữa ngôn ngữ và lời cầu nguyện. Ông nói rất minh bạch rằng trong khi mục đích của ngôn ngữ là để thông tin, thì mục đích của việc cầu nguyện là thông dự. Ở một mức độ nào đó, cầu nguyện là lời mời gọi tạm rút lui khỏi những âm thanh hỗn độn của cuộc sống thường nhật và dành ra một khoảng không gian và thời gian để trò chuyện cùng Thiên Chúa. Trong khoảng không gian và thời gian đó, chúng ta sẽ xem xét lại những mối ưu tiên của mình dưới ánh sáng thánh ý và chương trình mà Thiên Chúa đã định cho chúng ta. Việc cầu nguyện đem đến cho chúng ta cơ hội tiếp cận với Thiên Chúa, khiến chúng ta cố gắng nhìn mọi việc theo một nhãn quan hoàn toàn khác hẳn.

Việc cầu nguyện làm cho chúng ta trở nên nhân sinh thực thụ. Cầu nguyện tách chúng ta khỏi trọng lực hướng tâm của bản ngã, và cung cấp cho ta năng lực ly tâm của thiên hướng qua việc kết hợp với Thiên Chúa. Xa hơn nữa, ta có thể nói rằng một cuộc sống không có sự cầu nguyện thì không phải là một cuộc sống nhân sinh thực thụ. Chúng ta chỉ có thể tương tác với những mối quan hệ trong cuộc sống hằng ngày của mình bằng cách dung nạp mối tương quan với Đấng mà sự liên kết với bản thân chúng ta đem lại ý nghĩa và giá trị cho tất cả những mối liên hệ khác. Cầu nguyện nghĩa là nhìn nhận rằng chúng ta chỉ là loài thụ tạo mà thôi, rằng chúng ta là những hữu thể sống trong một thế giới mong manh, cần đến Đấng cung cấp khuôn mẫu và mục đích cho chúng ta và cho vũ trụ mà ta đang sống.

Cầu nguyện là một hiện thực tuyệt vời. Chúng ta cầu nguyện trong những lúc bình thường (bất biến) khi không gặp phải những biến động kinh khủng nào, lúc mà chúng ta có thể dễ dàng thốt lên những lời ca tụng Thiên Chúa luôn luôn thiện hảo, luôn luôn quan phòng. Chúng ta cầu nguyện trong những lúc tuyệt vọng hay tai ương (biến động) khi cả thế giới xung quanh ta sụp đổ tan tành. Ta có thể đang trải qua cái chết của một người thân yêu, sự yếu đuối của thân xác con người, hay những thăng trầm trong các mối tương quan giữa người với người. Chúng ta cầu nguyện trong những lúc sự sống mới được nảy sinh hay lúc sửng sốt kinh ngạc (tái định hướng) khi chúng ta bắt gặp một Thiên Chúa đầy những sự ngạc nhiên, một Thiên Chúa đã gieo vào tim ta một khúc nhạc mới khi buổi chiều Thứ Sáu Tử Nạn nhường chỗ cho buổi sáng Chúa Nhật Phục Sinh.

Cầu nguyện là một sự hiệp thông bởi vì việc cầu nguyện được đặt nền tảng trên mối giao ước, nghĩa là trên một mối liên hệ mà qua đó Thiên Chúa, cộng đoàn, và cá nhân là những đối tác liên kết chặt chẽ. Trong khi cầu nguyện chúng ta biến những khó khăn và lo lắng của người khác thành khó khăn và lo lắng của chính mình. Tiếng khóc than của anh chị em chúng ta – “Sao Ngài nỡ bỏ rơi con?” – phải làm dấy lên phản ứng của chúng ta. Trong việc cầu nguyện, nỗi đau đớn cũng như niềm hân hoan của không biết bao nhiêu người khác trở nên nỗi đau đớn và niềm hân hoan của chính chúng ta. Như lời thánh Phao-lô diễn tả, “Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau. Nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung” (1 Cô-rin-tô 12:26). Cầu nguyện không bao giờ là một chuyến hành trình của bản ngã riêng mình.

Khuôn mẫu cầu nguyện cho chúng ta noi theo là Đức Giê-su trong Tin Mừng thánh Lu-ca. Lúc được rửa tội, lúc chọn Mười Hai Tông Đồ, lúc bị ông Phê-rô chối bỏ, lúc hiển dung trên núi, trước lúc đọc kinh Lạy Cha, trong lúc sầu khổ nơi vườn cây dầu, trong lúc đớn đau trên thập giá, Đức Giê-su đều cầu nguyện. Hơn hẳn các thánh sử khác, thánh Lu-ca luôn chú tâm nhấn mạnh sự tuyệt đối cần thiết của việc cầu nguyện khi nói với các thính giả vừa công giáo vừa ngoại giáo của ông – những người này không hề biết gì về chuyện cầu nguyện hay nài xin. Đức Giê-su trong Tin Mừng thánh Lu-ca đã cảm thấy bắt buộc phải có những giai đoạn cầu nguyện thật lâu dài trong quá trình giảng dạy của Người. Không có chi ngạc nhiên khi quyển Tin Mừng này đã mở đầu bằng lời nguyện trong Đền Thờ của những người Do-thái mộ đạo, và kết thúc bằng lời cầu nguyện của các môn đệ cũng cùng nơi đó sau khi Đức Giê-su thăng thiên.

Ý nghĩa của Mầu Nhiệm

Mỗi khi nghe chữ “mầu nhiệm”, linh tính chúng ta gần như là tự nhiên nghĩ ngay đến những gì vượt khỏi tầm trí khôn của mình, những gì chỉ dành riêng cho một số rất ít người, còn chúng ta thì hoàn toàn không thể hiểu thấu. Tuy nhiên, bối cảnh thánh kinh, mặc dù không loại bỏ yếu tố những gì huyền nhiệm, bí ẩn, nhưng vẫn nêu ra một sự am hiểu khá tỏ tường. Trong bối cảnh đó chúng ta được dẫn đến trước sự hiện diện của Thiên Chúa, Đấng mặc khải cho chúng ta (thường là qua một tiên tri hay ngôn sứ) những khía cạnh trong chương trình cứu độ.

Trong văn thể tiên tri, Thiên Chúa được mô tả là quanh Người có cả một hội đồng thánh chuyên lo việc cố vấn và đưa ra những quyết định. Các tiên tri được xem là thành viên của hội đồng đó, hoặc là những người được nghe lõm những quyết định sau cùng của hội đồng. Chẳng hạn như, trong sách A-mốt, Thiên Chúa đã không làm điều gì mà không mặc khải trước chương trình của Người cho những người hầu cận – các tiên tri (3:7). Khi lên án các ngôn sứ giả hiệu, ông Giê-rê-mi-a đã đặt câu hỏi như sau: “Ai đã được họp bàn với Thiên Chúa để chứng kiến và nghe lời Người?” (23:18). Nếu như những ngôn sứ giả hiệu ấy đã thật sự tham dự họp bàn trong hội đồng của Thiên Chúa và đã loan báo lời Chúa cho dân Người, thì họ đã có thể cứu dân khỏi đường tà ác (Giê-rê-mi-a 23:22).

Nền văn chương Do-thái về sau đã cho thấy sự tiến triển trong những cuộc đối thoại như vậy, khi Thiên Chúa mặc khải nhiều chuyện khác nhau cho nhân loại, thường là qua loại ngôn ngữ đầy tính tượng trưng. Trong sách Đa-ni-en, “mầu nhiệm” là điều mặc khải mà Vua Na-bu-cô-đô-nô-xo nhận được qua một giấc mộng, đó là giấc mộng về một pho tượng lớn, giấc mộng mà tiên tri Đa-ni-en phải đoán ý và giải nghĩa. “Bấy giờ ông Đa-ni-en được mặc khải điều bí nhiệm ấy trong giấc chiêm bao ban đêm …” (2:19). Trong một đoạn sau đó vua Na-bu-cô-đô-nô-xo lại trải qua một giấc mộng kinh hoàng khác, và khi mà các nhà thông thái của chính vua không thể giải mộng, vua đã phải nhờ đến ông Đa-ni-en: “Ta biết ngươi được ban một thần khí của các bậc thần thánh, không có điều bí ẩn nào làm ngươi phải lúng túng. Đây là những điều ta đã thấy trong chiêm bao. Hãy giải nghĩa cho ta” (4:6).

Những mặc khải đó đã cung cấp nền tảng cho sự học hiểu về khái niệm “mầu nhiệm” trong Tân Ước. Như đã được đề cập đến trong các thư của Thánh Phao-lô và trong các tài liệu khác, mầu nhiệm căn bản là một mặc khải mới về chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Những gì bí ẩn nơi Thiên Chúa trong suốt những giai đoạn dài như vậy giờ đây đã được mặc khải. Trong thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô, mầu nhiệm của Thiên Chúa căn bản là Đức Giê-su Ki-tô bị đóng đinh. Chương trình mà Thiên Chúa đã hoạch định và được giữ bí ẩn nơi Người từ thưở ban đầu nay đã được thực hiện nơi Đức Giê-su Ki-tô. Thánh Phao-lô xem mình là một người quản gia đem chia sẻ điều huyền nhiệm này với các cộng đoàn của ông. Tác giả thư Cô-rin-tô đã hiểu mầu nhiệm Đức Ki-tô không gì khác hơn là chương trình cứu độ Thiên Chúa dành cho nhân loại, chương trình đó trong quá khứ được giữ kín, và nay được mặc khải cho các Ki-tô hữu. Đồng thời, khi sử dụng từ “mầu nhiệm”, thánh Phao-lô hoàn toàn nhận thức được rằng từ ngữ đó sẽ không bao giờ được hiểu bằng những phương thức truyền đạt thông thường, mà chỉ có thể được hiểu bằng đức tin. Do đó một chiều kích ẩn khuất vẫn tồn tại trong sự tham dự của loài người vào mặc khải của Thiên Chúa.

Một sự (thiếu) hiểu biết về mầu nhiệm như vậy thì không giúp ích được bao nhiêu cho việc tìm hiểu mầu nhiệm chuỗi mân côi. Mặc dù chúng ta đạt tới một sự thông hiểu về ý nghĩa của các văn bản thánh kinh và khám phá ra chương trình của Thiên Chúa qua nhiều sự kiện khác nhau, chúng ta vẫn cảm thấy một trạng thái kinh ngạc, một cảm giác bị áp đảo vì không thể hoàn toàn thấu hiểu mọi sự. Như Đức Giáo Hoàng Phao-lô Đệ Lục đã nói, mầu nhiệm là hiện thực thấm đẫm sự hiện diện ẩn khuất của Thiên Chúa. Mặc dù chúng ta gặp gỡ sự hiện diện của Thiên Chúa, chúng ta cũng thừa biết rõ là mình không thể nào hoàn toàn thấu hiểu tổng thể hiện thực đó. Có thể việc đó cũng không khác chi tình yêu của loài người. Khi tình yêu đối với một người khác ngày càng gia tăng, chúng ta cảm thấy không đủ khả năng diễn đạt tình yêu đó bằng những việc làm hay lời nói đơn giản. Chúng ta kết luận là mình phải dọn chỗ để chấp nhận mầu nhiệm.

Chuỗi Mân Côi và Thánh Kinh

Ngoài hai trường hợp ngoại lệ (việc Đức Ma-ri-a được đưa lên trời và việc tôn vinh Đức Ma-ri-a làm Nữ Vương Trời Đất), các mầu nhiệm trong chuỗi mân côi nhằm mục đích phản ánh những văn bản thánh kinh cụ thể. Như vậy Lời Chúa là nhằm mục đích hòa nhịp với những cố gắng của chúng ta trong việc cầu nguyện. “Thật vậy, Lời Thiên Chúa là sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tủy, lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người” (Thư gởi tín hữu Do-thái 4:12). Vì vậy, nhiệm vụ của chúng ta là chấp nhận để cho Lời Chúa xuyên nhập vào toàn thể con người mình, để Lời Chúa thấm đượm vào toàn bộ bản thể trong một cách mà qua đó Lời Chúa có thể an ủi và thách đố chúng ta, có thể gây ngạc nhiên và phục hồi năng lực của chúng ta. Lời Thiên Chúa không phải là một tập hợp đầy bụi bặm những văn bản khó hiểu từ mãi tận miền Cận Đông cổ xưa, mà là một chuỗi sống động những cuộc hội ngộ giữa Thiên Chúa và loài người. Nghe thấu Lời Chúa luôn luôn đòi hỏi một sự đáp trả, cho dù đáp trả đó là sự ngợi khen, thờ kính, nài xin, thú nhận, hay ngất ngây chiêm ngưỡng. Nếu chúng ta thật sự nghe Lời Chúa, chúng ta sẽ bắt đầu cảm nhận được sức mạnh và hiệu lực từ Lời Chúa. “Thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó” (I-sai-a 55:11).

Dựa theo một đoạn văn của Đức Giáo Hoàng Pi-ô Đệ Thập Nhị, Đức Phao-lô Đệ Lục trong tông thư khuyến khích việc lần chuỗi mân côi (Marialis Cultus, 1974) đã gọi chuỗi mân côi là phần trích-yếu của toàn thể thánh kinh. Vào năm 2002, Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô Đệ Nhị đã bổ sung phần yếu lược này khi ngài thêm các mầu nhiệm sự sáng vào chuỗi mân côi. Ngoài các mầu nhiệm Vui, Thương, Mừng, chúng ta mở rộng chú tâm của mình vào việc suy niệm các sự kiện sau đây: phép rửa Đức Giê-su lãnh nhận trên sông Gio-đan, tiệc cưới thành Ca-na, sự công bố Nước Trời, sự hiển dung của Đức Giê-su, và việc thiết lập bí tích Thánh Thể. Các mầu nhiệm Sáng này rõ ràng là bổ sung lẫn nhau. Đồng thời, các mầu nhiệm Sáng hướng sự chú ý của chúng ta đến những khía cạnh khác của Tin Mừng – những khía cạnh mang ý nghĩa khó khăn lẫn hy vọng. Kết quả là, chuỗi mân côi trong vai trò trích-yếu của toàn thể thánh kinh, được gia tăng ý nghĩa qua việc thêm vào những sự kiện trong giai đoạn rao giảng công khai của Đức Giê-su. Khi trọng tâm của thánh kinh được mở rộng, cơ hội cầu nguyện cũng tăng theo.

Nhấn mạnh đặc tính Ki-tô học

Mặc dù phần chính của chuỗi mân côi là kinh Kính Mừng, chúng ta không nên nghĩ rằng lời cầu nguyện cổ xưa này, trong bất kỳ chiều kích nào, đã gạt bỏ hoặc hạ giá chính con người và công cuộc rao giảng của Đức Ki-tô (Ki-tô học). Khi chúng ta nhìn cả hai mươi mầu nhiệm trong toàn bộ tổng thể của chúng, các mầu nhiệm đó quy hướng về Đức Ki-tô và đặt trọng tâm vào Đức Ki-tô. Giáo Hội, vì thế, khuyến khích chúng ta nên hiểu toàn bộ chương trình cứu độ là điều đạt đến thành quả tuyệt đỉnh nhờ công trình và thành quả của Đức Ki-tô. Hiểu như vậy là phù hợp với cốt lõi của tổng thể phụng vụ thánh lễ. Mặc dù các thánh lễ kính Đức Mẹ và các thánh có một vị trí xứng đáng trong các lễ nghi tôn kính của Giáo Hội, nhưng thể theo các cơ cấu thánh lễ của Công Đồng Va-ti-ca-nô II, tâm trí tín hữu phải được quy hướng chủ yếu vào những lễ nghi thờ kính Thiên Chúa, mà qua đó chương trình cứu độ được dần dần triển khai trong suốt năm phụng vụ.

Rõ ràng là, Đức Ma-ri-a, tương tự như chúng ta, cũng được cứu độ. Do đó, Mẹ đồng hành với cả nhân loại trong nhu cầu cần ơn cứu rỗi, Mẹ lo lắng cho tất cả anh chị em của Con Mẹ trong hành trình đức tin của họ. Khi nhấn mạnh vị trí trung tâm của Đức Giê-su trong chuỗi mân côi, Giáo Hội cũng nhìn nhận Đức Mẹ đóng một vai trò hiển nhiên trong chương trình cứu độ. Giáo Hội công nhận Đức Mẹ là một mẫu mực gói trọn niềm mơ ước và hy vọng của mọi tín hữu. Khi đặt Đức Mẹ trong toàn khuôn khổ của chương trình cứu độ, chúng ta nhận ra rằng Đức Mẹ được biết đến và được tôn kính, không phải chỉ vì những ơn cao trọng đặc biệt Chúa dành riêng cho Mẹ, mà chính là vì sự đáp trả của Mẹ đối với Lời Chúa. Chúng ta tuyên xưng Mẹ có phúc vì Mẹ đã nghe và đã hành động theo Lời Chúa.

Đọc kinh Mân Côi với Thánh Kinh bằng cách nào

Quyển sách này được sắp xếp như sau nhằm diễn giải các mầu nhiệm chuỗi mân côi: Năm Sự Vui (Chương Một), Năm Sự Sáng (Chương Hai), Năm Sự Thương (Chương Ba), và Năm Sự Mừng (Chương Bốn). Sách mở đầu bằng lời tường thuật của thánh Lu-ca về sự việc Trẻ Thơ Giáng Sinh, tiếp đến là công cuộc rao giảng, cuộc thương khó, cái chết, sự phục sinh và thăng thiên của Đức Giê-su, và kết thúc bằng việc Đức Mẹ được đưa về trời và được tôn vinh trên Thiên Đàng. Ngoại trừ hai mầu nhiệm cuối trong Năm Sự Mừng, đây là một thứ tự theo đúng trình tự trong các văn bản thánh kinh. Như thế, chuỗi mân côi thật sự là phần trích-yếu của toàn bộ Tin Mừng Đức Giê-su.

Mỗi mầu nhiệm trong sách được bắt đầu với phần “trọng tâm”. Phần này cố gắng hướng suy nghĩ của độc giả vào những khía cạnh cụ thể trong mầu nhiệm. Có thể điều này sẽ thách thức thái độ và cách phản ứng bình thường của chúng ta đối với những cảnh trong thánh kinh, chẳng hạn như, sự xung đột ý chí trong cảnh đau khổ ở vườn dầu, hay sự kinh ngạc của chúng ta trước câu hỏi khó hiểu của Đức Giê-su khi được cha mẹ tìm ra ở Đền Thờ. Ở một mức độ nào đó, phần “trọng tâm” cũng tương tự như cách thức của một số hội dòng trong việc cung cấp trước những luận điểm hay những tài liệu cho buổi suy nghiệm sáng hôm sau. Phần “trọng tâm” hướng sự chú ý của chúng ta đến những chiều kích nổi bật trong văn bản thánh kinh. Với mục đích đó, phần “trọng tâm” tìm cách nắm giữ sự tập trung chú ý của chúng ta bằng cách nhấn mạnh một số phương diện cụ thể của đoạn thánh kinh đang được phân tích.

Sau phần “trọng tâm” là phần tham chiếu những đoạn thánh kinh cần được đọc trước. Độc giả nên đọc những đoạn thánh kinh này một cách chậm rãi từ tốn trong tâm tình cầu nguyện, từ một bản dịch sách thánh đương thời. Lời khuyên này dựa trên một sự thật là không gì có thể thay thế cho việc biết đoạn thánh kinh đó đang nói đến điều gì. Phần “trọng tâm” được trình bày ở trên nên được dùng để hướng dẫn cách đọc những văn bản thánh kinh này.

Sau phần tham chiếu là phần “giảng giải”. Phần này sẽ dài ngắn khác nhau tùy theo số lượng và mật lượng của các đoạn văn. Phần “giảng giải” vận dụng những kiến thức sâu rộng và hiện đại nhất về thánh kinh để tìm tòi những cung bậc ý nghĩa khác nhau trong các đoạn văn. Một phần của kiến thức thánh kinh vững chắc đó là hai nguồn khác nhau với vài điều chỉnh làm căn bản cho ba bộ thánh kinh đầu tiên. Thánh kinh của các thánh Mát-thêu, Mác-cô, và Lu-ca được xem là Tin Mừng Nhất Lãm bởi vì cả ba bộ đều có cùng quan điểm, và đều rất khác so với thánh kinh của thánh Gio-an. Hai nguồn nói trên là Tin Mừng theo thánh Mác-cô (bộ thánh kinh đầu tiên được ghi lại) và Q (chủ yếu là một tập hợp những lời của Đức Giê-su, ví dụ như kinh Lạy Cha). Thánh Mát-thêu và Lu-ca đã sử dụng nguồn thánh kinh của thánh Mác-cô và Q một cách độc lập. Đó là lý thuyết xuất phát từ hai nguồn với những điều chỉnh, ngoài ra thánh Mát-thêu và Lu-ca còn sử dụng những nguồn đặc biệt của riêng mình, chẳng hạn như nguồn từ các nhà chiêm tinh Magi trong Mát-thêu 2:1-12 và nguồn từ các mục đồng trong Lu-ca 2:8-20. Những điều chỉnh trong Mát-thêu và Lu-ca cung cấp những chìa khóa vô giá để hiểu các điểm nhấn mạnh và đặc biệt đáng lưu ý trong đó. Kiến thức thánh kinh vững chắc và một kinh nghiệm cầu nguyện phong phú hơn, vì thế, có thể đi đôi với nhau như bàn tay hợp khít trong găng.

Yếu tố cuối trong cấu trúc quyển sách này là các “suy niệm”. Phần này là một cố gắng để rời bỏ những chủ đề, luận điểm, hay khía cạnh trong đoạn văn thánh kinh mà có thể ảnh hưởng đến việc lần chuỗi mân côi và ảnh hưởng đến cách chúng ta cảm nhận các mầu nhiệm. Sự phong phú của Thánh Kinh là khôn lường, mang đến cho chúng ta những nguồn dường như vô tận cho việc cầu nguyện lẫn hành động.
Chúng tôi khuyên độc giả không nên đọc một lúc cả năm mầu nhiệm trong mỗi chương. Trái lại, có thể sẽ hiệu quả hơn khi mỗi lần chỉ chú tâm vào một mầu nhiệm mà thôi. Ví dụ như, chỉ đọc về phần truyền tin khi lần chuỗi Năm Sự Vui, chừa phần còn lại trong chương đó cho những khi lần chuỗi lần sau. Đây là phương pháp “chia để trị”.

Chương 1
Mầu Nhiệm
Năm Sự Vui

Truyền Tin

TRỌNG TÂM: Thiên Chúa mời gọi chúng ta vâng theo ý Người trong mọi tình huống thường ngày. Nhưng chúng ta sẽ phải ứng xử như thế nào khi đối diện với những tình huống đó? Tùy theo những chọn lựa riêng của mỗi người, chúng ta rất có nguy cơ nghi ngờ Thiên Chúa có khả năng nâng đỡ ta vượt qua những giây phút vô cùng khó khăn đó. Thường là chúng ta bị giằng xé giữa sự đụng độ của hai ý muốn - ý của Thiên Chúa và ý riêng của chúng ta. Chúng ta bị thử thách phải chấp nhận chương trình của Thiên Chúa cho dù không thấy được hết các tiểu tiết trong chương trình đó. Chấp nhận hay không chấp nhận – vấn đề là ở đó. Chúng ta có dám mở lòng trí cho những điều mà Thiên Chúa đòi hỏi hay không?

THÁNH KINH: Lu-ca 1:5-38

GIẢNG GIẢI: Không như thánh Mát-thêu, thánh Lu-ca chọn trọng tâm là Đức Ma-ri-a, chứ không phải thánh Giu-se, trong hai chương đầu tiên của bộ Tin Mừng của ông. Như chúng ta sẽ thấy, thánh Lu-ca mô tả Đức Ma-ri-a, không chỉ đơn giản là một môn đệ, mà thật sự là một môn đệ gương mẫu. Chúng ta không có chứng cớ nào chứng tỏ rằng chính Đức Ma-ri-a là một trong những nguồn mà thánh Lu-ca dùng để vẽ chân dung vị thân mẫu Đức Giê-su. Vì thế Lu-ca đã không truyền lại cho chúng ta những hoài tưởng của chính ông về Đức Mẹ. Trái lại, ông khéo dùng những nguồn tài liệu khác nhau để cho độc giả của mình thấy người ta phải nên đáp ứng Lời Thiên Chúa như thế nào.

Tương phản với thánh Mát-thêu (1:18-25), thánh Lu-ca thuật lại đến hai câu chuyện truyền tin, một là truyền tin cho ông Da-ca-ri-a (1:5-25), hai là truyền tin cho Đức Ma-ri-a (1:26-38). Thánh Lu-ca đang cống hiến cho độc giả một bức tranh với hai mảng khác nhau, trong đó mảng bên này được dùng để giải thích cho mảng bên kia. Trong mảng tranh thứ nhất, ông Da-ca-ri-a được nghe một tin lớn lao là ông cùng bà vợ Ê-li-sa-bét cuối cùng thì sẽ có một đứa con trai: “Bà Ê-li-sa-bét vợ ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai, và ông phải đặt tên cho con là Gio-an” (1:13). Ông Da-ca-ri-a đã đáp lại lời báo tin của sứ thần Gáp-ri-en bằng một câu hỏi: “Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy? Vì tôi đã già, và nhà tôi cũng đã lớn tuổi” (1:18). Kết cục là ông Da-ca-ri-a bị câm, không nói được nên lời. Sứ thần Gáp-ri-en đã giải thích lý do của sự trừng phạt này là “… bởi vì ông đã không tin lời tôi, là những lời sẽ được ứng nghiệm đúng thời đúng buổi” (1:20).

Sự tương phản với Đức Ma-ri-a không thể nào rõ rệt hơn. Đức Ma-ri-a được gọi là “Đấng đầy ân sủng” và được bảo đừng sợ hãi vì bà đẹp lòng Thiên Chúa (1:28-30). Bà sẽ hạ sinh một con trai với hai căn tính; Người sẽ vừa là Con Thiên Chúa và là Con Vua Đa-vít (1:31-33). Cái tin này quả là khó hiểu cho cô Ma-ri-a bởi vì cô chỉ mới được hứa hôn, hay đính hôn, chứ còn hôn lễ để cô được phép chung sống với ông Giu-se thì chưa diễn ra. Do đó, cô Ma-ri-a đặt câu hỏi: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng?” (1:34). Sứ thần Gáp-ri-en đáp rằng tất cả những việc này là do Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Ma-ri-a, và đứa trẻ sắp sinh ra sẽ được gọi là Đấng Thánh. Quyền năng của Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên Ma-ri-a, và con của cô sẽ được gọi là Con Thiên Chúa (1:35). Sau khi nhận được một dấu chỉ (sự thụ thai của Ê-li-sa-bét), Đức Ma-ri-a, người môn đệ hoàn hảo nhất theo tác giả Lu-ca, đã thưa: “Vâng, tôi đây, tôi là nữ tỳ của Thiên Chúa” (1:38). Sự tương phản với ông Da-ca-ri-a thật không thể rõ ràng hơn.

Điều mà thánh Lu-ca đã làm là đặt câu tuyên xưng niềm tin căn bản của đạo Công Giáo vào miệng sứ thần Gáp-ri-en: Đức Giê-su là Con Thiên Chúa và là Con Vua Đa-vít (Thư Rô-ma 1:3-4). Sự đánh giá đúng đắn của thánh Lu-ca về Đức Ma-ri-a được chứng minh qua cách Đức Ma-ri-a đáp lại câu tuyên xưng đó rằng bà là nữ tỳ của Thiên Chúa. Vì thế đối với thánh Lu-ca, Đức Ma-ri-a là người đầu tiên đã nghe Tin Mừng và đã đáp lại bằng niềm tin.

SUY NIỆM: Chúng ta thấy mình giống ai trong hai nhân vật đó? Các Tin Mừng thường hay thử thách chúng ta với hàng loạt các nhân vật khác nhau. Chẳng hạn như, trong Tin Mừng thánh Mác-cô, thì chúng ta sẽ giống như các nam môn đệ đã bỏ mặc Đức Giê-su trong vườn dầu và rồi chạy trốn mất, hay chúng ta sẽ giống các nữ môn đệ cùng hiện diện với Đức Giê-su trên đồi Gôn-gô-tha để dõi theo cuộc khổ nạn từ xa xa? Trong câu chuyện truyền tin của thánh Lu-ca, chúng ta thấy mình giống ai? Có lẽ, thường là chúng ta đóng vai trò của ông Da-ca-ri-a khi không thể, hoặc không chịu thừa nhận rằng Thiên Chúa có thể thực hiện những việc tưởng chừng bất khả thi. Và thường thì chúng ta không thể nào tưởng tượng nổi là Thiên Chúa có khả năng làm chúng ta phải ngạc nhiên. Mặt khác, chúng ta có dám mở lòng trí trong đức tin để dám chấp nhận những gì có vẻ như là đi ngược lại với sự hợp lý hay sự thường tình hay không? Chúng ta phải thẳng thắn nhìn nhận rằng, Đức Ma-ri-a, trong câu chuyện mà thánh Lu-ca thuật lại, thật sự là một gương mẫu khó mà theo nổi.

Chúng tôi đã lưu ý trong lời mở đầu rằng, chữ “mầu nhiệm” dùng trong Tin Mừng là để chỉ những gì liên quan đến sự mặc khải chương trình của Thiên Chúa. Sự dùng chữ như thế khiến chúng ta phải dừng lại mà suy niệm. Chương trình cứu độ của Thiên Chúa không phải chỉ dành cho một số ít người được tuyển chọn, mà là bao gồm tất cả chúng ta. Nhất là qua ơn gọi trong cuộc đời mỗi người, chúng ta là cộng tác viên với Thiên Chúa và với cộng đoàn của mình trong chương trình này. Câu chuyện truyền tin cho Đức Ma-ri-a đã đặt ra những câu hỏi như sau: Trong cuộc sống bận rộn vất vả hằng ngày, chúng ta đã đáp lại Thánh Ý hay chương trình của Thiên Chúa một cách đúng hay sai ra sao? Đối với những người phụ thuộc vào chúng ta, chúng ta đã dùng khả năng của mình để nâng đỡ họ nhiều hay ít ra sao? Câu chuyện truyền tin cho Đức Ma-ri-a là một điều được liên tục lặp đi lặp lại nơi những chuỗi trách nhiệm nặng nề trong sự hiện hữu hằng ngày của chúng ta.

Chúng ta cũng nhận thấy trong phần mở đầu là “mầu nhiệm” với ý nghĩa tỏ lộ chương trình của Thiên Chúa không hoàn toàn loại bỏ tất cả những yếu tố lờ mờ khó hiểu. Như thánh Phao-lô nhận xét, hiện tại thì chúng ta chỉ hiểu lờ mờ (1 Cr 13:12). Tuy nhiên, chúng ta có thể an tâm khi thấy rằng Đức Ma-ri-a cũng đã phải đối diện với những hình ảnh thiếu sắc nét của chương trình Thiên Chúa. Như chúng ta sẽ thấy trong đoạn Lu-ca 2:19, 51, Đức Ma-ri-a đã phải suy đi nghĩ lại về ý nghĩa của những sự kiện trong cuộc đời Đức Giê-su. Đức Ma-ri-a đã sống không chỉ một đời sống đức tin, mà còn một đời sống hy vọng – một niềm hy vọng cuối cùng sẽ được thành tựu qua cuộc thăng thiên của Đức Giê-su. Với hình ảnh Đức Ma-ri-a của thánh Lu-ca, chắc chắn là chúng ta có một người đồng hành tốt lành.


Thăm viếng

TRỌNG TÂM: Chúng ta hiểu gì về đức tin? Thường thì đức tin chỉ giới hạn trong một vài luận điểm hay tín lý mà chúng ta tán thành. Mặc dù đó là một yếu tố của đức tin, nhưng đó không phải là đức tin trọn vẹn. Trước hết và trên hết, đức tin là sự chấp nhận một người. Như chúng ta đọc trong Kinh Tin Kính, chúng ta “tin” vào một Thiên Chúa. Điều này ám chỉ rằng chúng ta tin tưởng vào một Thiên Chúa Đấng tỏ mình cho chúng ta. Đức tin vào loài người thì cũng tương tự như vậy. Do đó, hễ tôi tin vào bạn, thì tôi tin tưởng bạn, và tôi sẵn sàng tin những điều mà bạn nói với tôi. Chính chiều kích đức tin đặc biệt này của Đức Ma-ri-a là điều thánh Lu-ca nhấn mạnh trong đoạn Đức Ma-ri-a Đi Viếng Bà Ê-li-sa-bét.

Ngay sau khi được nghe những lời ca ngợi của bà Ê-li-sa-bét về đức tin của mình, Đức Ma-ri-a đã thốt lên những lời ngợi khen Thiên Chúa về những điều đã xảy ra. Có lẽ khả năng biết ngợi khen Thiên Chúa này đã kích thích sự chú ý của chúng ta – không phải chỉ đơn thuần là ngợi khen Thiên Chúa, mà còn là khen ngợi người khác về những thành tích của họ.

THÁNH KINH: Lu-ca 1:39-56

GIẢNG GIẢI: Chúa Thánh Thần hoạt động vô cùng tích cực trong đoạn này. Con trẻ trong lòng bà Ê-li-sa-bét (Thánh Gio-an Tẩy Giả) được tràn đầy Thánh Thần (1:15), khiến cho người mẹ nhận ra Đấng Thiên Sai trong lòng bà Ma-ri-a. Kết quả là bà Ê-li-sa-bét cũng được tràn đầy Thánh Thần, cũng như ông Da-ca-ri-a chồng bà cũng sẽ được như vậy. Trong trạng thái đó, bà Ê-li-sa-bét thốt lên lời ca ngợi bà Ma-ri-a, nhưng hơn nữa là ca ngợi đứa con trong lòng bà Ma-ri-a (1:42). Lời ca ngợi đó có nguồn cội từ Cựu Ước. Bà Đơ-vô-ra đã ca ngợi bà Gia-ên là “có phúc hơn hết các phụ nữ” (Thủ Lãnh 5:24) vì những đóng góp của bà trong việc hoàn thành chương trình cứu độ của Thiên Chúa. “Con cái của lòng dạ anh em đều được chúc phúc” (Đệ Nhị Luật 28:4) cũng là một lời chúc phúc của ông Mô-sê dành cho những người tuân giữ lời giao ước.

Thánh Lu-ca đã dàn dựng câu chuyện này bằng một trong những chiêu cổ điển độc nhất vô nhị của ông: lời nói của người phụ nữ giữa đám đông (11:27-28). Lời ngợi ca của bà Ê-li-sa-bét dành cho bà Ma-ri-a (“… người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc” [1:42]) là giống y như lời nói của người phụ nữ giữa đám đông (“Phúc thay người mẹ đã cưu mang Thầy …” [11:27]). Đức Ma-ri-a, do đó, đã trở thành đối tượng của lời ca ngợi, nhờ vào đứa con của bà. Tuy nhiên, lời ngợi khen của bà Ê-li-sa-bét (“Em thật có phúc, vì đã tin rằng …” [1:45]) thì tương ứng với lời đáp của Đức Giê-su cho người phụ nữ trong đám đông (“Đúng hơn phải nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” [11:28]). Vì thế, thánh Lu-ca bình luận rằng, Đức Ma-ri-a là một người tin tưởng tuyệt đối bởi vì bà đã hoàn toàn rộng mở trí hồn cho Thiên Chúa và cho chương trình của Người. Một lần nữa thánh Lu-ca đã đưa ra sự tin tưởng đáp trả của Đức Ma-ri-a như là một sự tương phản rõ rệt với một ông Da-ca-ri-a đầy hoài nghi.

Bài ca Ngợi Khen (Magnificat) là một thi vịnh của lời tuyên xưng tán tụng (một bài ngợi ca Thiên Chúa vì những việc cụ thể rõ ràng) mà thánh Lu-ca đã đặt lên môi Đức Ma-ri-a. Đó là miếng ngọc đẹp nhất trong những đoạn Cựu Ước nói về việc giáng thế của Đức Giê-su. Bài ca đó chịu nhiều ảnh hưởng từ bài ca của bà An-na sau khi bà được phép lạ sinh con trai Sa-mu-en (1 Sa-mu-en 2:1-10). Những câu mở đầu đã diễn tả nỗi vui mừng khôn xiết của Ma-ri-a (Lu-ca 1:46-47). Câu 48-50 giải thích nguyên nhân khiến bà ngợi ca Thiên Chúa, chẳng hạn như việc nâng bà lên khỏi phận nữ tỳ hèn mọn (sự trinh khiết của Ma-ri-a tương ứng với sự hiếm muộn của các phụ nữ trong Cựu Ước như bà Sa-ra, Rê-bê-ca, Ra-cha-en, và An-na) và những thành quả tương tự như trong Xuất Hành (“những điều cao cả”, xem Đệ Nhị Luật 10:21). Câu 51 và 52 nói đến chiến thắng sẽ đạt được trong tương lai nhờ cái chết và sự phục sinh của Đức Giê-su, thời điểm mà cánh tay Thiên Chúa sẽ ra oai biểu dương sức mạnh và Đức Giê-su sẽ được đưa lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha (Công Vụ Tông Đồ 2:33). Câu 53 chứa đựng một sự tương phản (“đói nghèo … giàu có”). Cuối cùng, trong câu 55, Thiên Chúa đã hành động như lời đã hứa với tổ phụ Áp-ra-ham và con cháu của ông (xem Sáng Thế 12:2-3; 18:18; 22:17-18).

SUY NIỆM: Trong lời chào mừng của bà Ê-li-sa-bét dành cho bà Ma-ri-a có một đoạn bắt buộc chúng ta phải chú ý. Trong câu Lu-ca 1:42, bà Ê-li-sa-bét chúc phúc hay khen ngợi bà Ma-ri-a vì đứa trẻ mà bà Ma-ri-a đang cưu mang trong lòng. Do đó, lời ngợi khen đó là trực tiếp dành cho con trẻ Giê-su. Tuy nhiên, trong câu 45, bà Ê-li-sa-bét thốt lên, không phải là lời chúc phúc, mà là lời ngợi khen đức tin của Ma-ri-a: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.” Trong trường hợp này thì thánh Lu-ca đã nhấn mạnh đức tin của bà Ma-ri-a, chứ không phải là sự cưu mang con trẻ Giê-su.

Đức tin, trước hết và trên hết, là sự chấp nhận một người. Hễ tôi tin vào bạn, thì tôi tin tưởng bạn. Do đó Đức Ma-ri-a đã đặt toàn thể sự hiện hữu của mình vào chính bản thể Chúa của bà. Và tiếp theo đó là sự vâng phục mệnh lệnh, sứ mạng mà Thiên Chúa giao phó. Đức tin đó là điều chúng ta được mời gọi noi theo. Mặc dù chúng ta không được phép xem nhẹ các giáo lý hay tín điều, trước hết chúng ta phải chấp nhận bản thể Thiên Chúa, Đấng đã chọn để chia sẻ chương trình cứu độ với chúng ta. Chính sự cởi mở đối với bản thể Thiên Chúa là điều được Đức Ma-ri-a thể hiện một cách thật hoàn hảo trong đoạn này. Một lần nữa sự tương phản với chồng bà Ê-li-sa-bét lại được minh chứng.

Trong bài ca Ngợi Khen, Đức Ma-ri-a đã vui mừng thốt lên những lời ca ngợi Thiên Chúa – điều này ông Da-ca-ri-a cũng sẽ làm trong bài ca Chúc Tụng (Lu-ca 1:67-79). Chính khả năng tự giải thoát mình khỏi những gông cùm của bản ngã, để hướng tầm nhìn vượt ra khỏi sự chú trọng vào chính bản thân mình, đã được Đức Ma-ri-a thể hiện trong cuộc thăm viếng bà Ê-li-sa-bét. Những điều mà Thiên Chúa đã làm cho bà, và sẽ làm cho những người khác qua việc giảng dạy, cuộc khổ nạn, cái chết, và sự phục sinh của Đức Giê-su, những điều này giờ đây đã bắt đầu tiến dần ra giữa sân khấu.

Những lời ngợi ca đó ngày nay cũng đang nói với chúng ta, nhưng có lẽ qua một phương cách khác. Trong khi chúng ta có thể thấy không khó khăn gì mấy khi ngợi ca Thiên Chúa và ca tụng “những điều cao cả”, chúng ta lại có thể thấy thật khó khăn biết bao hay thậm chí là điều chán ghét ghê gớm khi phải khen ngợi anh chị em đồng loại và những thành quả của họ. Thật là một thảm trạng khi chúng ta đợi đến lúc người ta chết mất rồi mới công nhận những điều tốt lành quảng đại của họ. Trong cuộc chiến chống lại những sức mạnh nội tại của bản ngã, chúng ta được thúc giục nên lặp lại những câu ca của buổi đầu tạo dựng vũ trụ khi chúng ta nhận thấy thành tích của người khác: “Điều đó tốt đẹp quá, thật là tốt đẹp!”


Giáng Sinh

TRỌNG TÂM: Bình an, máng cỏ, quán trọ - đó là ba biểu tượng mạnh mẽ đánh động sự chú ý của chúng ta mỗi khi Giáng Sinh về. Nhắc đến vua Xê-da là nhắc đến hòa bình thế giới. Tuy nhiên, khi tìm hiểu trình thuật của thánh Lu-ca về giáng sinh, chúng ta có thể sẽ phải nhìn rộng và xa hơn một chút. Nếu như lòng nhân ái bắt nguồn từ gia đình, thì tại sao hòa bình lại không thể như vậy? Sự an bình trong gia đình và nền hòa bình của thế giới tự bản chất có vẻ có liên quan mật thiết với nhau. Biểu tượng máng cỏ thường gợi lên cảnh một gia đình cùng khó tả tơi đến nỗi họ buộc lòng phải sinh con trong một khung cảnh nghèo nàn như vậy. Sau hết là biểu tượng quán trọ. Chúng ta thường tưởng tượng hình ảnh những ông chủ quán ở Bê-lem lạnh lùng đóng sập cửa quán và cũng đóng kín tim họ trước một phụ nữ mang thai và chồng bà. Nhưng phải chăng thánh Lu-ca muốn nói đến một điều khác, một điều rất uyên thâm hơn sự thiếu chỗ trú thân trong hình ảnh quán trọ? Phải chăng còn có một điều gì tích cực hơn là “không còn chỗ trong quán trọ”?

THÁNH KINH: Lu-ca 2:1-20

GIẢNG GIẢI: Chiếc máng cỏ có thể là nói đến đoạn I-sai-a 1:3 trong đó văn bản Cựu Ước Hy-lạp này nói rằng những con lừa biết cái máng cỏ nhà chủ nó. Quán trọ có thể là ám chỉ đến đoạn Giê-rê-mi-a 14:8 trong đó lữ khách chỉ nghỉ qua đêm rồi lại đi tiếp. Việc dùng tả bọc trẻ sơ sinh gợi nên sự liên tưởng đến đoạn Khôn Ngoan 7:4-5, trong đó Đại Đế Sô-lô-môn từng được quấn tả. Qua cách trình bày Đức Giê-su nằm trong máng cỏ, thánh Lu-ca nói đến nơi chốn mà Thiên Chúa chăm sóc cho dân Người và nơi đó được họ nhận ra. Qua việc không ngụ tại nhà trọ mà lại lên đường tiếp tục đi, Đức Giê-su được hiểu là giờ đây đã vĩnh viễn hiện diện với dân Người. Sau hết, việc quấn tả báo hiệu nguồn gốc vương giả của Đức Giê-su.

Thánh Lu-ca cũng giới thiệu vai những mục đồng vì những gắn bó của họ với miền Bê-lem (xem Sáng Thế 35:9-12; Mi-kha 4:8; 5-2). Bằng cách dùng một đoạn văn bản thánh kinh như đoạn I-sai-a 9:5-6, thánh Lu-ca đã cho các mục đồng đi loan truyền lời báo tin của thiên thần: rằng một Đấng Thiên Sai, con Vua Đa-vít, mà cũng là Đấng Cứu Thế và là Thiên Chúa, vừa mới hạ sinh. Hiện thực phục sinh và thăng thiên đã hiện diện ngay trong sự thụ thai và sinh hạ Đức Giê-su. Tiếp theo đó là sự hiện diện của Thiên Chúa qua hình ảnh Thiên Sứ (“sứ thần Thiên Chúa”). Ngay từ đầu các thiên thần đã nhận ra những điều mà các môn đệ về sau này cũng sẽ nhận ra, đó là sự hiện diện của Đấng Thiên Sai, Vua Trời.

Trong đoạn Lu-ca 2:15, các mục đồng quyết định đi xem thực hư lời báo tin của thiên sứ. Qua việc nhìn thấy em bé nằm trong máng cỏ (ám chỉ đến đoạn I-sai-a 1:3), các mục đồng tượng trưng dân Ít-ra-en nhận ra máng cỏ là nơi Thiên Chúa chăm lo cho dân Người. Thánh Lu-ca thêm vào hai phản ứng: (1) phản ứng của mục đồng và (2) phản ứng của thính giả (“tất cả những ai đã nghe”). Phản ứng của các mục đồng là hiểu ra lời loan báo của thiên sứ về em bé sơ sinh. Sau đó khi trở lại đồng vắng, họ đã hân hoan thốt lên những lời ca ngợi Thiên Chúa. Và do đó họ nghĩ rằng các thế hệ những kẻ tin sau này sẽ vinh danh Thiên Chúa vì những điều họ đã nghe và thấy. Phần thính giả thì phản ứng với sự ngạc nhiên bỡ ngỡ.

Trong số những người ngạc nhiên bỡ ngỡ trong trình thuật giáng sinh này (xem Lu-ca 1:63), chỉ có Đức Ma-ri-a được mô tả là ôm ấp suy nghĩ và chiêm nghiệm những sự kiện này trong lòng. Phản ứng của Đức Ma-ri-a lại càng rõ ràng hơn bởi vì Đức Ma-ri-a là nhân chứng duy nhất trong trình thuật giáng sinh sẽ tái xuất hiện trong công cuộc giảng dạy của Đức Giê-su. Sự suy niệm của Đức Ma-ri-a là để tìm hiểu thánh ý Thiên Chúa qua những tiết lộ thiếu rõ nét đó. Trong vai trò một môn đệ gương mẫu của Đức Giê-su, Đức Ma-ri-a sẽ nghiệm ra đúng nghĩa những sự kiện này chỉ sau khi Đức Giê-su đã được vinh quang. Còn trong lúc này thì Đức Ma-ri-a vẫn phải băn khoăn suy nghĩ về sự huyền bí của con bà.

SUY NIỆM: Biểu tượng hòa bình là một yếu tố quan trọng trong trình thuật của thánh Lu-ca về biến cố Giáng Sinh. Bài ca của thiên sứ đã được kết thúc như sau: “… bình an dưới thế cho người Chúa thương” (2:14). Sự bình an tuôn tràn từ sự kiện ngàn năm một thưở này là dành cho những ai được Thiên Chúa thương yêu chúc phúc. Không phải ngẫu nhiên mà thánh Lu-ca liên kết sự bình an này với điều ông đã nhắc đến trước đó về Vua Xê-da Au-gút-tô (2:1). Chỉ việc nhắc đến cái tên này cũng đủ để nhắc độc giả của thánh Lu-ca về việc hoàng đế Au-gút-tô nổi danh là người kiến tạo hòa bình. Vào năm 29 trước Công Nguyên, ông đã khai mở một kỷ nguyên mới của hòa bình, chấm dứt gần cả một thế kỷ nội chiến. Thời đại hòa bình của Au-gút-tô trở nên đối tượng của một sự tuyên truyền rộng rãi, tác động đến độc giả của thánh Lu-ca. Đối với họ Au-gút-tô được biết đến như một vị cứu tinh của cả thế giới. Có một văn bản đã ca ngợi ngày sinh của Au-gút-tô là sự khởi đầu của tin mừng cho toàn thể nhân loại.

Khi cầu nguyện chúng ta phải đặt mình vào không những vai trò của người lãnh nhận bình an, mà còn trong vai trò của người cổ vũ hòa bình. Mặc dù chúng ta có thể lý luận rằng chúng ta không dễ gì mà gây ảnh hưởng đến hòa bình thế giới, chúng ta biết mình hoàn toàn có thể ảnh hưởng đến sự hòa hảo trong gia đình. Trình thuật giáng sinh của thánh Lu-ca là một lời mạnh mẽ kêu gọi sự hòa giải. Chúng ta được mời gọi xóa bỏ những rào cản ngăn cách mọi người với nhau. Chúng ta được thách thức để phá bỏ những chướng ngại làm cản trở sự hiệp thông thật sự của nhân loại. Tha thứ những lỗi lầm trong quá khứ và cầu xin sự tha thứ cho lỗi lầm trong quá khứ thì không khác chi sự vui mừng chiêm ngắm mầu nhiệm giáng sinh.

Thánh Lu-ca đặc biệt cố ý nhấn mạnh vai trò của máng cỏ bằng cách nhắc đến nó không ít hơn ba lần (2:7, 12, 16). Thường thì chúng ta hiểu máng cỏ là một biểu hiện rõ rệt của sự nghèo khó. Chúng ta cũng tưởng tượng cái quán trọ đó như một nơi xấu xa xua đuổi khách lỡ đường. Tuy nhiên, thánh Lu-ca rất có thể đã đi rất sát với Sách Thánh Cựu Ước. Trong văn bản Cựu Ước Hy-lạp I-sai-a đoạn 1:3, con lừa nhận biết cái máng cỏ nhà chủ nó, nhưng dân Ít-ra-en lại không nhận biết Thiên Chúa của họ. Tuy thế, qua các mục đồng, thánh Lu-ca tuyên bố rằng dân Ít-ra-en thật ra đã nhận biết Thiên Chúa của họ là trẻ thơ Giê-su. Tương tự, hình ảnh quán trọ có thể là liên quan với đoạn Giê-rê-mi-a 14:8 trong đó Thiên Chúa, niềm hy vọng của Ít-ra-en, bị kết án là chẳng khác chi những kẻ đi bán rong từ lều này sang lều khác. Đối với thánh Lu-ca, Thiên Chúa từ nay sẽ hiện diện mãi mãi với dân Ít-ra-en qua Đức Giê-su, người đã không chịu ở trong quán trọ mà lại chọn rong ruổi trên đường.

Những hình ảnh này của Thiên Chúa quan phòng chắc chắn phải gợi lên một phản ứng. Một Thiên Chúa luôn đáp ứng những nhu cầu của dân Người cũng phải dấy lên trong lòng chúng ta những phản ứng / hành động tương tự. Sự trao đổi quà tặng giữa mọi người không nên giới hạn vào chỉ vỏn vẹn một ngày trong tháng Mười Hai. Giáng Sinh là một hiện thực luôn tiếp diễn mà qua đó chúng ta nhận ra Thiên Chúa nơi những người khác bằng cách đáp ứng những nhu cầu của họ. Chiếc máng cỏ và ngôi quán trọ, do đó, có thể trở nên những biểu tượng mạnh mẽ của tình quan tâm chăm sóc giữa đồng loại với nhau. Thánh Lu-ca mời gọi chúng ta suy nghĩ về những biểu tượng này, và qua lời cầu nguyện, biến suy nghĩ thành một chuỗi hành động không ngừng.


Dâng Vào Đền Thánh

TRỌNG TÂM: Cảnh này gợi lên ít nhất hai điều: (1) sự phục vụ của chúng ta dành cho người khác qua việc loan báo tin mừng của Đức Giê-su, và (2) sự chịu đựng đau khổ của chúng ta. Thánh Lu-ca đã cho ông Si-môn nói về Đức Giê-su như một nguồn ánh sáng chiếu soi cho dân ngoại. Chúng ta không những chỉ là những người đón nhận ánh sáng đó, mà còn là người mang ánh sáng đó đi khắp nơi. Đoạn này thách thức chúng ta mạnh dạn đứng vào hàng ngũ đông đảo những người làm chứng cho Đức Giê-su. Điều thứ hai, sự chịu đựng đau khổ đặt chúng ta vào hàng đồng hành với Đức Ma-ri-a. Mẹ đã phải chịu đựng thảm cảnh con Mẹ bị đóng đinh. Điều này phải gợi ra câu hỏi: chúng ta có thấy đau đớn khổ hình là những gì nên được bình tĩnh đón nhận, là nguyên liệu cho sự trưởng thành?

THÁNH KINH: Lu-ca 2:22-40

GIẢNG GIẢI: Khi viết đoạn này, thánh Lu-ca đã dựa vào câu chuyện của ông En-ca-na và bà An-na trong 1 Sa-mu-en 1-2. Sau khi bà An-na hiếm muộn cuối cùng cũng sinh được một con trai (Sa-mu-en), vợ chồng bà đã đi đến đền thờ ở Si-lô để dâng con cho Thiên Chúa. Tại đó, ông Ê-li, một vị tư tế đứng tuổi, đã tiếp nhận sự dâng hiến con trai của ông bà vào việc phụng sự Thiên Chúa.

Mặc dù luật chỉ đòi hỏi sự thanh tẩy (Lê-vi 12:1-8) khi dâng vào đền thánh, thánh Lu-ca đã nhắc đến sự thánh hiến đứa con trai đầu lòng (xem Xuất Hành 13:2, 12, 15), bởi vì điều này dẫn đến sự hội ngộ sau này với ông Ê-li tân thời (Si-môn) người đã gặp gỡ ông En-ca-na và bà An-na tân thời (Thánh Giu-se và Đức Ma-ri-a). Thánh Lu-ca đã nêu lên sự cao trọng của Đức Giê-su bằng cách dựa vào lề luật Do-thái, vào tinh thần tiên tri, và vào lề thói sùng bái Đền Thờ. Trong bài ca của ông Si-môn (“… giờ đây Ngài để cho tôi tớ này được an bình ra đi …” [2:29]), thánh Lu-ca nghĩ đến bộ sách kế tiếp của ông, quyển Công Vụ Tông Đồ, trong đó tin mừng của Đức Giê-su sẽ là “ánh sáng soi đường cho dân ngoại” (2:32). Trong lời tiên tri thứ hai (2:34-35), thánh Lu-ca đã dùng ông Si-môn để tiên báo sự chống báng mà dân Do-thái dành cho Đức Giê-su trong thời kỳ giảng dạy và trong cuộc khổ nạn. Trong sự kỳ thị chống báng này (lưỡi gươm), Đức Ma-ri-a sẽ trải qua những nỗi đau đớn vì toàn thể dân Ít-ra-en đã không đáp trả lời mời gọi của Đức Giê-su.

Nơi nữ tiên tri An-na (cùng với ông Si-môn), thánh Lu-ca có lẽ đã ám chỉ đến hồng ân của Chúa Thánh Thần vào ngày lễ Hiện Xuống. Trong đoạn này bà An-na đại diện cho những người sốt sắng, những người được gọi là “Người nghèo trong dân Ít-ra-en”. Trong câu 40, (“Còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa”), thánh Lu-ca đang liên tưởng đến sự lớn lên và trưởng thành của cậu bé Sa-mu-en (1 Sa-mu-en 2:21-26). Nhờ đó mà độc giả được chuẩn bị cho thời điểm Đức Giê-su xuất hiện trong hội đường ở Na-da-rét (Lu-ca 4:16).

SUY NIỆM: Trong trình thuật của thánh Lu-ca, Đức Ma-ri-a sẽ phải trải qua đau khổ buồn sầu vì Đức Giê-su bị người ta chống báng. Đức Ma-ri-a cũng phải bị đâm thâu bởi lưỡi gươm của sự kỳ thị đó. Điều này liên tưởng tới việc lưỡi gươm ngày phán xét sẽ hủy diệt một số người và bỏ qua một số người khác (xem Ê-dê-ki-en 14:17). Kể cả Đức Ma-ri-a cũng sẽ phải chấp nhận những đòi hỏi khó khăn trong vai trò một tông đồ. Bằng sự luôn luôn chấp nhận những đòi hỏi khó khăn đó, Đức Ma-ri-a xứng đáng có chỗ đứng cao trọng bậc nhất trong gia đình các tông đồ.

Khi cầu nguyện chúng ta được mời gọi biết xem những nỗi đau khổ khốn đốn trong đời mình là gắn liền với những đòi hỏi của đời sống tông đồ. Chúng ta được khuyên nên nhìn những điều đó, không phải như những điều vô nghĩa, dư thừa, mà là như những yếu tố cần thiết trong chuyến hành trình của chúng ta với Đức Giê-su và với những người xung quanh. Những điều đó là nền tảng cho chúng ta trưởng thành, lưỡi gươm kỳ thị chống báng mà chúng ta gặp phải là con đường đưa tới sự chín chắn của một Ki-tô hữu. Khi chịu đựng những điều khó chịu này hằng ngày, chúng ta cùng đồng hành với không ai khác hơn là chính thân mẫu Đức Giê-su.

Chúng ta không có vấn đề gì khi nhìn nhận Đức Giê-su là ánh sáng soi đường cho dân ngoại. Nhưng chúng ta có thấy chính mình cũng có khả năng như vậy hay không? Khi được rửa tội, chúng ta lãnh nhận ánh sáng Đức Ki-tô được tượng trưng bằng ánh nến thắp sáng, và lãnh nhận lệnh sai đi làm tiên tri, làm ngôn sứ của Người. Từ đó cả thế giới nói chung sẽ là cộng đoàn xứ đạo của chúng ta, chúng ta được kêu gọi chia sẻ ánh sáng đó với tất cả những ai mà chúng ta có cơ hội gặp gỡ. Những dịp đó không nhất thiết phải là những dịp tuyên xưng long trọng hùng tráng, mà thường là những lúc chúng ta thể hiện sự kiên nhẫn với người khác và an ủi họ bằng lời nói và hành động của chúng ta. Xin mượn lời một thành ngữ quen thuộc: ngọn đuốc sáng đã được trao đến tay chúng ta. Như Đức Giê-su đã nói trong bài giảng trên núi, “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian … ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mát-thêu 5:14-16).


Tìm được con nơi Đền Thánh

TRỌNG TÂM: Cảnh này rõ ràng là nêu ra những chọn lựa ưu tiên và sự trung tín của Đức Giê-su, đó là, sự trung tín với thánh ý của Cha Người. Đó là những giá trị mà Người kiên quyết gìn giữ, ngay cả khi đối diện với sự chống đối dữ dội hay thất vọng não nề. Cảnh này tuy có vẻ nhỏ nhặt nhưng chúng ta không nên xem đó là điều nhỏ nhặt. Chúng ta cũng có khi đối diện với những chọn lựa ưu tiên hay trung thành tối hậu. Khi gặp thử thách hay tai họa, chúng ta bị bắt buộc phải chọn lựa xuôi theo hoặc ngược chiều với những giá trị này. Trong cảnh này Đức Ma-ri-a cũng được mô tả là bối rối lo lắng, vẫn còn băn khoăn ngẫm nghĩ về ý nghĩa những lời nói của con mình. Đức Ma-ri-a phải đối diện một sự mặc khải không rõ nét, sự mặc khải đó chỉ được hiểu rõ khi Đức Giê-su được vinh quang. Còn trong lúc này thì Đức Ma-ri-a phải tiếp tục bước đi trong đức tin và hy vọng, bất kể những bối rối lo sợ trong lòng. Chúng ta phải thừa nhận rằng chính chúng ta cũng sẽ phải bước đi trên con đường đó.

THÁNH KINH: Lu-ca 2:41-52

GIẢNG GIẢI: Đoạn này là một câu chuyện chuyển tiếp từ lúc Truyền Tin (Lu-ca 2:22-40) đến lúc Đức Giê-su khởi sự công cuộc rao giảng (Lu-ca 3:1). Mục đích của đoạn này là nói về tính Ki-tô học, bởi vì đó là sự tiên đoán về một mầu nhiệm mà đỉnh điểm là sự phục sinh và thăng thiên. Những câu chuyện thể loại này có rất nhiều trong các văn bản khác. Trong đó, những văn bản này cũng cho phép độc giả thấy thoáng qua những nét về sự cao trọng của Đức Ki-tô từ khi còn rất nhỏ tuổi. Còn trong câu chuyện này, thánh Lu-ca đã xây dựng cốt truyện xung quanh lời đáp trong câu 49, một lời đáp dẫn tới sự không hiểu điều được tiết lộ ở câu 50.

Đây là lần đầu tiên thánh Lu-ca nhắc tới chuyến đi từ Na-da-rét lên Giê-ru-sa-lem. Có lẽ ông đang chuẩn bị cho chuyến đi trong công cuộc rao giảng của Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem vào ngày Lễ Vượt Qua (Lu-ca 9:51-19:28). Sự lắng nghe và những câu hỏi được đặt ra trong đoạn này nói về tương lai khi Đức Giê-su công khai tham dự vào những cuộc thảo luận như vậy, mặc dù trong lúc này thì giọng văn vẫn còn hòa hoãn. Sự ngạc nhiên của cha mẹ Người báo trước sự ngạc nhiên của những người khác vào lúc bắt đầu công trình rao giảng của Đức Giê-su (Lu-ca 4:32) và sự kinh ngạc của các kinh sư và thượng tế trước những câu trả lời của Người (Lu-ca 20:26). Lời đáp của Đức Giê-su cho cha mẹ Người xác định rằng mối ưu tiên hàng đầu của Người là thánh ý Cha Người, chứ không phải là việc gia đình Người có cảm nghĩ ra sao. Cụm từ “Nhà Cha con” (2:49) xác định Đức Giê-su là Con Thiên Chúa.

Trong câu 51 và 52, thánh Lu-ca hơi dịu giọng lại sau câu 49 sắc bén. Ông mô tả Đức Giê-su như một gương mẫu đạo đức, luôn tuân giữ điều răn thứ bốn, và chỉ trong trường hợp bất khả kháng mới phải trả lời ngược lại với cha mẹ. Thánh Lu-ca cũng mô tả Đức Ma-ri-a luôn suy gẫm về những điều kỳ lạ của con mình. Câu “Riêng Mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (2:51) đã đặt một chỗ cho Đức Ma-ri-a làm thành viên trong cộng đoàn của Đức Giê-su (Công Vụ Tông Đồ 1:14). Đức Ma-ri-a tượng trưng cho cộng đoàn Ki-tô hữu sơ khởi. Chính Đức Ma-ri-a cũng đang tìm kiếm một sự giải thích rõ ràng hơn cho những điều mà bà đã cảm nhận từ lâu. Câu chuyện xảy ra trong hội đường cho thấy câu trả lời của con bà đã đòi hỏi một sự thay đổi trong bà. Đoạn 1:14 trong sách Công Vụ Tông Đồ cho thấy bà đã sẵn sàng cho sự thay đổi đó.

SUY NIỆM: Câu chuyện có vẻ như nhỏ nhặt này lại chứa đầy những yếu tố tiên báo về ý thức trách nhiệm ưu tiên của Đức Giê-su. Lòng tận tâm trung thành với Cha Người được đặt ưu tiên so với lòng trung thành đối với gia đình. Thánh Lu-ca đã cho thấy Đức Giê-su, ở lứa tuổi mười hai thơ bé, là một thiếu niên rất có ý thức về thánh ý của Cha mình. Khi đã ý thức rõ ràng về điều đó, Đức Giê-su không bao giờ đi trệch hướng. Ví dụ như, trong cơn lo buồn đau đớn ở vườn cây dầu, Người đã cầu nguyện rằng: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén này xa con. Tuy vậy, xin đừng cho ý con thể hiện, mà là ý Cha” (22:42). Hình ảnh một Đức Giê-su quả quyết như vậy chắc chắn phải đánh động chúng ta xét lại các giá trị và ưu tiên của mình. Khi cầu nguyện chúng ta được mời gọi hỏi đi hỏi lại câu hỏi này: Sự trung thành tuyệt đối của tôi thuộc về ai?

Thánh Lu-ca miêu tả Đức Ma-ri-a không hoàn toàn biết rõ sứ mạng và vận mạng của Đức Giê-su. Vào lúc Đức Giê-su giáng sinh, thánh Lu-ca viết rằng Đức Ma-ri-a “hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng” (2:19). Khi ông Si-môn tuyên xưng Đức Giê-su là ánh sáng cho dân ngoại và là vinh quang của Ít-ra-en (2:33), bà Ma-ri-a đã vô cùng kinh ngạc. Với câu chuyện hiện tại trong đó sự trung thành của Đức Giê-su đối với Cha Người đã làm cho bà ngạc nhiên, thánh Lu-ca lại một lần nữa nhấn mạnh những khó khăn của Đức Ma-ri-a; bà “hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (2:51). Đối với thánh Lu-ca, Đức Ma-ri-a phải đối diện với một sự mặc khải không rõ ràng mà bà không thể nào hiểu nổi. Chúng ta nên nhớ là ông Gia-cóp / dân Ít-ra-en trong Cựu Ước Hy-lạp, sau giấc mơ của ông Giu-se về mặt trời, mặt trăng, các vì sao (Sáng Thế 37:9), đã thắc mắc không hiểu ý nghĩa của giấc mơ (Sáng Thế 37:11). Đức Ma-ri-a sẽ chỉ có thể giải thích đúng nghĩa những điều này sau khi Đức Giê-su đã ngự trên ngai báu ở thiên đàng. Còn trong lúc này thì bà phải nghe những lời đó và ghi nhớ trong lòng (xem Lu-ca 11:28).

Khi suy gẫm về cuộc đời của chính mình trong lúc cầu nguyện, chúng ta nhận ra rằng mình thường hay đứng trước những mê lộ ngoằn ngoèo rắc rối trong đó các sự kiện tưởng chừng như không ăn nhập gì với nhau cả. Những tình huống mà Đức Ma-ri-a đã ngẫm nghĩ và băn khoăn suy ngắm nhắc chúng ta rằng mình cũng phải thực hành sự kiên nhẫn, tin tưởng, và hy vọng giống như Đức Ma-ri-a. Trong lúc này, chúng ta chỉ thấy lờ mờ (1 Cô-rin-tô 13:12). Sự thật hoàn toàn minh bạch vẫn tiếp tục trốn tránh chúng ta.


Chương 2
Mầu Nhiệm
Năm Sự Sáng


Đức Giê-su nhận Phép Rửa ở Gio-đan

TRỌNG TÂM: Tất cả chúng ta ai cũng có những trải nghiệm đầu đời đánh dấu sự trưởng thành. Ta có thể bắt đầu một công việc làm mới, hay ta có thể kết hôn và có con cái. Ta quyết định theo một nghề gì đó, hay ta quyết định sẽ ở độc thân. Ta có thể gia nhập một cộng đoàn tu nào đó, hay quyết định học làm linh mục để phục vụ Giáo Hội. Trong tất cả những trường hợp trên hay những trường hợp tương tự, chúng ta không khác gì Đức Giê-su ở sông Gio-đan. Tương tự như Người, chúng ta cũng vừa đến một ngã rẽ của đường đời. Tương tự như Người, chúng ta cũng phải tìm hiểu ý nghĩa ơn gọi của mình. Ngã đường mới của chúng ta sẽ có nghĩa là việc phục vụ người khác, hay chỉ là sự theo đuổi những tham vọng thuần túy ích kỷ của chính mình mà thôi? Sự thanh tẩy của Đức Giê-su được xem là một khởi đầu mới mẻ và cũng là một phần của công cuộc tạo dựng luôn tiếp diễn. Chúng ta có thấy mình đang góp phần vào hiện thực mới mẻ nhưng không ngừng tiếp diễn, biến đổi này hay không? Chúng ta có hoàn toàn nhận thức được rằng mỗi một cử chỉ yêu thương chân thật giữa người với người, trong bất cứ hình thức nào, cũng đều là một sự tiếp diễn của công cuộc mà Thiên Chúa đã thực hiện vào lúc khởi nguyên? Chúng ta có là những cộng tác viên của Đức Giê-su ở Gio-đan này không?

THÁNH KINH: Mát-thêu 3:13-17; Mác-cô 1:9-11; Lu-ca 3:21-22

GIẢNG GIẢI: Không hoài nghi gì cả, đúng là có những khác biệt hiển nhiên giữa các bộ Tin Mừng Nhất Lãm. Chẳng hạn như, trong đoạn Mác-cô 1:11, tiếng nói từ trời chỉ nói với Đức Giê-su. Trong đoạn Lu-ca 3:22 cũng vậy, mặc dù sự hiện diện của những người sắp được rửa tội khác cho biết đó là một cảnh rửa tội tập thể. Tuy nhiên, trong đoạn Mát-thêu 3:17 tiếng nói từ trời đã tuyên bố Đức Giê-su là Con Thiên Chúa cho tất cả những người đang hiện diện ở đó. Hai thánh Mát-thêu và Lu-ca đã áp dụng văn bản của thánh Mác-cô theo những cách khác nhau. Vì thế, theo Lu-ca, sau khi được rửa tội, Đức Giê-su đã cầu nguyện (Lu-ca 3:21). Về sự bối rối trong việc rửa tội (ăn năn lãnh nhận phép rửa để không phạm tội nữa), thánh Mát-thêu nêu lên một mẩu đối thoại giữa Đức Giê-su và thánh Gio-an Tẩy Giả để chứng minh lời yêu cầu được rửa tội của Đức Giê-su là hợp lý (3:14-15).

Tuy nhiên, cả ba trình thuật đều giữ nguyên những giải thích của các Ki-tô hữu tiên khởi về cuộc thanh tẩy của Đức Giê-su. Bởi vì chuyện Đức Giê-su được thanh tẩy là chuyện có thật, cho nên các Ki-tô hữu tiên khởi đã cố công tìm cách giải thích xem Đức Giê-su thật sự là ai. Vì thế, cả ba trình thuật đều cung cấp cả một kho văn bản Cựu Ước nhằm diễn tả những khía cạnh khác nhau về con người và sứ mạng của Đức Giê-su.

Tiếng nói từ trời tuyên bố Đức Giê-su đích thật là Con Thiên Chúa. Thánh vịnh 2:7, một thánh vịnh vương giả được dùng trong lễ tấn phong Đức Vua dòng Đa-vít / Đấng Thiên Sai, chứa đựng lời Thiên Chúa nói với vị tân vương rằng: “Con là con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra con.” Đức Giê-su, Con Thiên Chúa, là Đấng Thiên Sai thuộc dòng dõi Đa-vít đã được hứa ban. Cách gọi “Con yêu dấu” là nghĩa bóng chỉ I-sa-ác, con yêu quý của tổ phụ Áp-ra-ham (Sáng Thế 22:2), và cũng có thể ám chỉ tới cuộc hiến tế trên thập giá. Đoạn “con đẹp lòng Ta mọi đàng” là được vay mượn từ bài ca thứ nhất về Người Tôi Trung: “Đây là người tôi trung Ta nâng đỡ, là người Ta tuyển chọn và hết lòng quý mến …” (I-sai-a 42:1). Tiên tri I-sai-a đã tiên đoán người tôi trung này được Thánh Thần Thiên Chúa ban sức mạnh để tái lập giao ước với dân Ít-ra-en. Như thế, Đức Giê-su được sai đến để tái quy tụ và tập hợp một dân Ít-ra-en phân tán.

Khung cảnh buổi thanh tẩy (bên bờ một dòng sông), sự kiện các tầng trời mở ra, và thị kiến đầy tính tượng trưng về lời mời gọi làm tiên tri cho một dân Ít-ra-en tội lỗi, tất cả những điều này không thể không gợi nhớ cho chúng ta về tiên tri Ê-dê-ki-en bên bờ sông Cơ-va (Ê-dê-ki-en 1:1). Sau hết, hình ảnh các tầng trời mở ra để Thiên Chúa ngự xuống rõ ràng là có liên quan với đoạn I-sai-a 64:1: “Người xé trời mà ngự xuống …” Đoạn này cũng nhắc đến vai trò của ông Mô-sê tại Biển Đỏ và việc Thiên Chúa ban Thần Khí cho dân Ít-ra-en (I-sai-a 63:11, 14). Ý nghĩa tổng quát của lời phán của Đức Chúa Cha là Đấng Con Thiên Chúa này, Đấng Thiên Sai thuộc dòng Đa-vít, đã được xức dầu qua Thánh Thần Thiên Chúa để thực hiện sứ mạng của vị tiên tri cuối cùng, và của một người tôi trung với Thiên Chúa đại diện cho dân Ít-ra-en tội lỗi.

SUY NIỆM: Không nghi ngờ gì, cuộc thanh tẩy của Đức Giê-su là một bước ngoặt trong đời Người. Sự thanh tẩy này đánh dấu một mốc đường chỉ có tiến chứ không có lùi, đó là việc Đức Giê-su từ bỏ công việc và gia đình Người ở Na-da-rét để khởi đầu một sứ mạng rõ ràng là không hợp với hoàn cảnh mà Người đã được nuôi nấng dạy dỗ. Cho nên không có gì là ngạc nhiên khi những người dân tại quê quán Người đã vừa kinh ngạc vừa xôn xao (Mác-cô 6:1-6). Cũng như Đức Giê-su, chúng ta cũng trải qua những ngã rẽ quyết định trong cuộc đời, chẳng hạn như khi thành hôn, tái hôn, có con cái, nuôi con độc thân, khởi đầu một công việc mới, sống đời độc thân, ngày tuyên khấn ở dòng tu, ngày nhậm chức linh mục phục vụ Giáo Hội, vân vân. Tuy nhiên, câu hỏi nhức nhối được đặt ra là: Chúng ta sẽ phải hiểu những lời mời gọi này như thế nào? Khi cầu nguyện chúng ta phải suy xét xem mình có thấy mình là loại người vì người khác hay không. Lời phán từ trời ở bờ sông Gio-đan đã chứng tỏ Đức Giê-su là một tiên tri đầy Thánh Thần và là một tôi trung của Thiên Chúa, với sứ mạng phục vụ cho một dân Ít-ra-en phân tán, tội lỗi hết thuốc chữa. Khi cầu nguyện, mặc dù chúng ta thừa nhận rằng mình đã được lãnh nhận Thánh Thần, chúng ta cũng phải suy nghĩ sâu xa hơn xem những hồng ân của Chúa Thánh Thần đã tác động đến sự phục vụ tha nhân của chúng ta đến mức nào. Và nhờ đó, mọi người đã hưởng phúc từ ơn gọi làm tiên tri của chúng ta đến mức nào?

Việc thanh tẩy ở sông Gio-đan đã kết hợp các yếu tố sau đây: nước, thánh thần, và chim bồ câu. Nếu đọc Sáng Thế 1:2, trình thuật đầu tiên về công cuộc tạo dựng của Thiên Chúa, chúng ta sẽ thấy một luồng gió / thần khí mạnh mẽ bay lượn là là trên mặt nước. Sự bay lượn này ám chỉ hình ảnh một loài chim, chẳng hạn như, trong Đệ Nhị Luật 32:11: “Tựa chim bằng trên tổ lượn quanh, giục bầy con bay nhảy …”. Đối với các Ki-tô hữu tiên khởi, sự thanh tẩy của Đức Giê-su báo hiệu thời cuối cùng như là một khởi nguyên mới. Họ hiểu Đức Giê-su được thanh tẩy này là một người mang đến sự tạo dựng mới. Cũng như trong công cuộc tạo dựng buổi ban sơ, lần này Thánh Thần Thiên Chúa cũng bay lượn trên sông Gio-đan. Kết quả là một thời đại mới đã chuyển mình.

Thánh Kinh quan niệm công cuộc tạo dựng là một hiện thực tiếp diễn luôn mãi. Điều mà Thiên Chúa đã thực hiện trong buổi khởi nguyên đơn giản chỉ là như thế - khởi nguyên. Ví dụ như, vị tiên tri I-sai-a Thứ Nhì đã nhen nhúm một niềm hy vọng cho những người dân lưu đày khốn khổ ở Ba-by-lon bằng cách đoan chắc với họ là họ sẽ được trở lại quê nhà. Hành động đoan hứa này được xếp cùng loại với hành động tạo dựng. “Nhưng bây giờ, đây là lời Đức Chúa phán, lời của Đấng tạo thành ngươi, hỡi Gia-cóp, lời của Đấng nắn ra ngươi, hỡi Ít-ra-en: Đừng sợ, vì Ta đã chuộc ngươi về, đã gọi ngươi bằng chính tên ngươi: ngươi là của riêng Ta!” (I-sai-a 43:1). Theo quan điểm của lý luận này, chúng ta có thể tuyên bố rằng công cuộc tạo dựng vẫn tiếp diễn không ngừng mỗi khi có tình yêu thực sự giữa con người với nhau. Mỗi khi chúng ta vượt qua những hỗn loạn chi phối cuộc sống hằng ngày, mỗi khi chúng ta an ủi người đau buồn, mang hy vọng cho người tuyệt vọng, là chúng ta đang tiếp tục công cuộc tạo dựng. Cả chúng ta cũng được mời gọi hít thở Thần Khí, một thần khí làm cho sự sống thật sự của loài người trở thành hiện thực. Trong tinh thần đó chúng ta cũng được dìm vào dòng sông Gio-đan và lãnh nhận mỗi ngày lệnh sai đi để tìm lại và hòa giải với những người thân đã ly tán khỏi đời mình. Bằng cách này công cuộc tạo dựng luôn được sống động và liên tục.

Tiệc cưới Ca-na

TRỌNG TÂM: Thường thì rất dễ cho chúng ta chú tâm vào chi tiết một trăm hai mươi ga-lon rượu. Ngoài việc lượng rượu lớn lao này được dùng để cứu cho chủ nhà khỏi bị bẽ mặt trong đám tiệc, thánh Gio-an khuyến khích chúng ta nhìn ra những gì khác nữa trong số lượng đó. Đọc kỹ đoạn này, chúng ta bắt được một ánh vinh quang của Đức Giê-su - một vinh quang sẽ chỉ được hoàn toàn tỏa sáng trên đồi Can-vê. Số lượng rượu ê hề chỉ thời đại tiên tri cuối cùng, và do đó, vai trò tiên tri của Đức Giê-su. Chúng ta cũng được mời gọi liên hệ số lượng lớn lao này với tầm mức khôn ngoan và tầm vóc công trình giảng dạy của Đức Giê-su.

Đức Giê-su có phải là Đấng Cứu Độ của riêng tôi mà thôi, ngoài ra không là gì nữa? Nói cách khác, tôi có cho là đức tin của tôi là gia sản chỉ thuộc về một mình tôi và không thuộc về ai khác cả? Đoạn văn này đòi hỏi chúng ta phải hiểu diễn tả của tác giả về đức tin của Đức Ma-ri-a. Trình thuật đó cho thấy niềm tin của bà nơi Đức Giê-su, nhưng nó không dừng lại ở đó. Đó còn là một niềm tin sâu sắc khiến các tông đồ bắt đầu tin tưởng vào Đức Giê-su. Vì thế, chúng ta được mời gọi tìm hiểu về “bà” này trong bối cảnh của cộng đoàn. Với vai trò là thân mẫu Đức Giê-su, bà gắn liền với tất cả những nỗi lo lắng và những nhu cầu của các anh chị em của con bà.

THÁNH KINH: Gio-an 2:1-12

GIẢNG GIẢI: Trình thuật về tiệc cưới Ca-na là một đoạn trong sách Các Dấu Lạ (Gio-an 1:19-12:50). Trong bộ Tin Mừng thứ tư, dấu lạ là cách nói của thánh Gio-an để chỉ phép lạ. Tuy nhiên, điều nổi bật ở đây không phải là phép lạ kỳ diệu mà Đức Giê-su thực hiện, mà là sự tỏ lộ vinh quang thiên quốc. Vì thế chúng ta nên nhìn xa hơn sự việc trong trình thuật để khám phá giá trị và tầm quan trọng của sự việc. Mặc dù thật khó mà tái dựng câu chuyện này theo đúng lịch sử, có một điều chắc chắn hiện lên rõ ràng là sự tỏ lộ thân phận Đức Giê-su và niềm tin của thân mẫu và các môn đệ nơi Người.

Rượu – đến những một trăm hai mươi ga-lon rượu – có một mục đích Ki-tô học mà thánh Gio-an nói đến rất kỹ qua các biểu tượng. Đức Giê-su đã làm cho buổi tiệc cưới Do-thái được uống thỏa thuê – nghĩa bóng nói đến những đòi hỏi trong truyền thống thanh tẩy của Do-thái – bằng cách hóa nước ra thật nhiều rượu. Bởi vì Đức Ki-tô là cách duy nhất để đến với Đức Chúa Cha, các truyền thống Do-thái đạt đến ý nghĩa hoàn hảo nhất nơi Người. Bữa tiệc cưới tượng trưng cho thời đại các tiên tri. Trong I-sai-a 62:4-5, tiên tri I-sai-a đã nói về cuộc hôn nhân trong tương lai giữa Thiên Chúa và Giê-ru-sa-lem. Sách A-mốt đoạn 9:13-14 nhắc đến việc rượu chảy tràn trề trong “ngày sẽ đến”. Thánh Gio-an có lẽ cũng ám chỉ đến vai trò của Đức Giê-su như là Đấng Khôn Ngoan trong Châm Ngôn 9:5, khi Người Nữ Khôn Ngoan mời rượu những người theo bà.

Đức Ma-ri-a đóng một vai trò thiết yếu trong câu chuyện này. Khi nói với những người hầu, “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo.” (2:5), Đức Ma-ri-a (chỉ được đề cập đến như là “thân mẫu Đức Giê-su” và “bà”) là người đầu tiên biểu lộ niềm tin của mình. Với lời nói đó, Đức Ma-ri-a rõ ràng đã thể hiện đức tin và đã truyền đạt đức tin đó tới người khác. Bà là chất xúc tác để nhờ đó Đức Giê-su tỏ lộ vinh quang của mình, và vì thế các môn đệ bắt đầu tin tưởng vào Người. Đức Ma-ri-a cũng là người khởi đầu “giờ” của Đức Giê-su, đó là, khoảnh khắc bao gồm cuộc khổ nạn và cái chết của Đức Giê-su, mà cũng là vinh quang trong phục sinh và trong sự thăng thiên về với Cha Người. Đức Ma-ri-a sẽ chỉ xuất hiện thêm một lần nữa trong bộ Tin Mừng này khi “giờ” của Giê-su đã đến và đòi hỏi sự có mặt của bà trên đồi Can-vê cùng với người môn đệ yêu dấu (Gio-an 19:25-27). Nơi đó bà sẽ tiếp tay trong việc khởi sinh một dân Chúa mới. Đức Ma-ri-a, người nữ của niềm tin, là mối liên hệ chủ chốt giữa đoạn đầu và đoạn cuối bộ Tin Mừng Gio-an.

SUY NIỆM: Đoạn thánh kinh này là một lời mời gọi không thể nhầm lẫn để hiểu Đức Giê-su như là một tỏ lộ toàn diện của Thiên Chúa Cha, và từ đó chấp nhận lời Người giảng dạy. Trong ý nghĩa này, chúng ta có thể nói một cách đúng đắn rằng Đức Giê-su là một Đấng Trung Gian tuyệt vời. Như câu kết trong lời tựa mở đầu của Tin Mừng Gio-an đã ghi: “Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả; nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết.” (Gio-an 1:18). Tác động của việc tỏ mình của Đức Giê-su và sự chấp nhận Người không thể được diễn tả chỉ bằng bấy nhiêu từ ngữ. Điều đó chỉ có thể được hiểu qua các biểu tượng. Số lượng khoảng chừng một trăm hai mươi ga-lon rượu đã nắm bắt một cách tượng trưng sự linh động và kỳ diệu của việc đặt tin tưởng vào đấng trung gian tuyệt vời này.

Chúng ta cũng được nhắc về vai trò của Đức Ma-ri-a và những đóng góp của Mẹ vào thông điệp của Đức Giê-su. Theo thánh Gio-an Mẹ là người đầu tiên biểu lộ đức tin qua câu nói “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo” (2:5). Tuy nhiên, niềm tin của Mẹ không phải chỉ là sở hữu riêng tư nhưng là gia sản của cả cộng đoàn. Mẹ đã nhận ra nhu cầu của người khác và đã hành động để giúp đỡ. Mẹ đã chia sẻ niềm tin của mình với các môn đệ của Đức Giê-su để nhờ đó mà Đức Giê-su có thể tỏ lộ thân phận chính mình, và từ đó các môn đệ có thể bắt đầu tin tưởng vào Người. Người phụ nữ ở Ca-na này đã thách đố chúng ta cũng chia sẻ niềm tin với người khác. Điều chúng ta đã được lãnh nhận thì tối hậu là vì lợi ích của tha nhân. Như Đức Ma-ri-a, chúng ta được gọi làm chất xúc tác để nhờ đó mà vinh quang Đức Giê-su luôn được tỏ lộ cho hết người này đến người khác. Người phụ nữ ở Ca-na chỉ có thể được hiểu một cách đầy đủ trong bối cảnh gia đình mở rộng của Đức Giê-su. Chúng ta là những anh chị em được sai đi trong gia đình đó.


Công bố Nước Trời

TRỌNG TÂM: Ngoài niềm tin, chúng ta cũng vô cùng cần có niềm hy vọng. Như trong dụ ngôn các hạt giống, chúng ta hoàn toàn hiểu được nguyên nhân thất bại, nhưng lại không hiểu được lý do thành công. Mặc cho những sai lầm, thất bại, chúng ta phải dám trông mong vào một mùa gặt dồi dào. Căn bản thì hy vọng có nghĩa là sự chấp nhận và phó thác vào một Thiên Chúa của những sự ngạc nhiên. Đây là một Thiên Chúa thách thức chúng ta dám nhìn xa hơn những thất vọng trong quá khứ. Thiên Chúa của chúng ta không chỉ hoạt động giới hạn theo những luật lệ sắt của con người là năng lực bỏ ra phải đem lại kết quả.

Nước Trời sẽ mang đến một tương lai như thế nào cho những kẻ tin? Dụ ngôn về kho tàng chôn giấu mời gọi chúng ta vẽ ra một thế giới với nhiều cơ hội mới – những cơ hội được đặt nền tảng nơi Đức Giê-su. Khi chấp nhận những giá trị Đức Giê-su đưa ra, những dụ ngôn của Thiên Chúa, chúng ta thật sự có thể xoay ngược cuộc đời mình. Xoay ngược chiều sẽ trở thành điều bình thường sau khi sự khám phá lớn lao xảy ra.

THÁNH KINH: Mát-thêu 13:1-9, 44-46

GIẢNG GIẢI: Hình ảnh “vương quốc Thiên Chúa” (thánh Mát-thêu thường chọn cách nói “vương quốc thiên đàng”) nhấn mạnh khái niệm Thiên Chúa cao cả hơn tất cả loài người và loài thụ tạo. Hình ảnh này gắn liền với “Thời Đại của Thiên Chúa”, niềm hy vọng về một viễn cảnh Thiên Chúa huy hoàng ngự trị và mang đến thái bình, hòa hợp, ân phúc tràn trề (I-sai-a 2:2-4; Mi-kha 4:1-4). Điều thú vị là Đức Giê-su hầu như không hề giải thích gì về ý nghĩa của vương quyền hay vương quốc. Tuy nhiên, các dụ ngôn do chính Người kể cho thấy vương quốc là một hiện thực trong mối liên hệ của Thiên Chúa với loài người. Nhiều dụ ngôn trong Tin Mừng của thánh Mát-thêu cung cấp các ví dụ rất hay về sự liên hệ này.

Trong đoạn 3-9, dụ ngôn các hạt giống, không phải người gieo giống, đề cập đến những sự thành công và thất bại tự nhiên không thể tránh khỏi trong công việc gieo hạt. Có ba hình thức thất thu: tức thời (vệ đường), dần dần (sỏi đá), tối hậu (gai góc). Có ba mức độ thu hoạch khi hạt rơi vào đất tốt: ba chục, sáu chục, và gấp trăm (cho nên các mức bội thu cũng thất thường như mức thất thu). Điều quan trọng là, dụ ngôn này nói rõ nguyên do tại sao thất bại xảy ra (vệ đường, sỏi đá, gai góc), nhưng không giải thích lý do thành công. Dụ ngôn này ám chỉ luật tăng trưởng và lụi tàn của vương quốc. Dù người ta có thể hiểu rõ nguyên do của thất bại, nhưng người ta sẽ khó mà dám hy vọng thành công trong một quá trình mù mờ như vậy. Ở đây rõ ràng là có chương trình của Thiên Chúa: kết quả tốt đẹp dĩ nhiên là có, nhưng thất bại thì bao giờ cũng dễ dàng giải thích hơn.

Các dụ ngôn về kho tàng chôn giấu và viên ngọc quý (13:44-46) chỉ có trong Tin Mừng Mát-thêu. Cả hai dụ ngôn này nói về sự mong chờ vương quốc Thiên Chúa và sự đoan quyết chắc chắn về điều đó, ví dụ như người thương gia đã bán tất cả của cải để mua viên ngọc quý. Cả hai dụ ngôn đều có cùng diễn tiến: tìm thấy, bán, mua. Nhưng đồng thời, hai dụ ngôn này rất khác nhau. Trong dụ ngôn thứ nhất, người nông dân không chủ tâm đi tìm mà chỉ tình cờ tìm thấy kho tàng. Trong dụ ngôn thứ hai, người thương gia chủ tâm đi tìm và cuối cùng tìm thấy viên ngọc quý. Trong dụ ngôn thứ nhất có một ít sửng sốt qua việc người nông dân chôn giấu kho báu và sau đó tìm cách mua thửa ruộng tưởng chừng như là bình thường đó. Trong dụ ngôn thứ hai mức độ sửng sốt ít hơn, bởi vì người thương gia đã mua viên ngọc qua cách thức rất công khai.

Trong dụ ngôn kho báu, đoạn đầu tiên chỉ là chi tiết bình thường, đó là công việc hằng ngày của một nhà nông mà cả tương lai được quyết định bằng hoàn cảnh hiện tại của anh ta. Đoạn thứ hai là sự khám phá ra kho báu, cái kho báu quý giá này mở ra một thế giới mới và những cơ hội mới cho anh nông dân. Đoạn thứ ba là phần xoay ngược quá khứ, khi anh nông dân đành bán hết tất cả những gì anh có. Đoạn thứ tư là hoạt động mới của anh nông dân, khả dĩ thực thi là nhờ việc tìm thấy kho báu. Anh không còn là anh nông dân thưở trước nữa. Giai đoạn thứ tư này chính là thế giới mà Đức Giê-su hứa hẹn với các tông đồ. Vương quốc thiên đình là một thế giới của những cơ hội mới được đặt nền tảng trên bản thể Đức Giê-su.

SUY NIỆM: Dụ ngôn các hạt giống xác định kinh nghiệm đặc trưng của loài người – chúng ta có thể giải thích lý do thất bại hơn là lý do thành công. Tuy nhiên, hy vọng là một đức tính căn bản của những người tin vào Đức Giê-su, Đấng rao giảng về vương quốc Thiên Chúa. Niềm hy vọng khiến chúng ta có thể khôi phục khả năng Thiên Chúa làm cho ta ngạc nhiên. Mặc cho những thất bại và thất vọng, Thiên Chúa của chúng ta là Đấng có thể mang đến những mùa gặt dồi dào, sinh lợi gấp ba mươi, sáu mươi, hay cả đến gấp trăm lần. Trong vương quốc đó, luật lệ sắt về thành công hay thất bại của chúng ta không được áp dụng, bởi vì Thiên Chúa hoạt động qua những cách thật sự huyền bí. Biết ngạc nhiên là biết nhìn nhận rằng Thiên Chúa không thể bị giới hạn bởi những tiêu chuẩn hoạt động của loài người.

Dụ ngôn kho tàng chôn giấu nhắc chúng ta rằng thế giới mà Đức Giê-su hứa với những ai theo Người là một thế giới của những cơ hội mới được đặt nền tảng trên chính Người. Trong dụ ngôn này, Đức Giê-su gởi lời mời gọi nắm bắt một tương lai mới gắn liền với lời rao giảng của Người về vương quốc Thiên Chúa. Chúng ta được thách đố phải tái định hướng đời mình sau khi khám phá lời rao giảng đó. Những giá trị và nguyên tắc của Đấng rao giảng thiên quốc này cũng phải trở nên những giá trị và nguyên tắc của chính chúng ta qua các nỗ lực hằng ngày. Chúng ta không được chôn giấu kho báu đó, mà phải đem ra chia sẻ với cộng đoàn xung quanh mình. Một kho tàng như vậy phải được chia sẻ đi khắp nơi.
Hiển Dung

TRỌNG TÂM: Đau khổ, tai họa, rủi ro: ta có nên chỉ biết cắn răng chịu đựng những điều này hay không? Có phải những điều này hoàn toàn tách rời khỏi hành trình đức tin của chúng ta hay không? Sự hiển dung của Đức Giê-su thách đố chúng ta biết nhìn những sự kiện đáng buồn này như những nguyên liệu mang đến hạnh phúc. Bằng cách chịu đựng như Đức Giê-su đã làm, chúng ta có thể hoàn thành sứ mạng của mình qua việc đón nhận những giai đoạn đau buồn đó làm những kinh nghiệm biến đổi cuộc đời. Chúng ta có lẽ sẽ bắt đầu thấy những việc đó là một phần chủ yếu trong cuộc hành trình. Cái chết sẽ không phải là chấm dứt mọi sự.

Còn những anh chị em của chúng ta dường như đang tuyệt vọng đương đầu với những khủng hoảng trầm trọng thì sao? Dĩ nhiên nhiệm vụ của chúng ta không phải là cố gắng giải thích hay diễn giải những trải nghiệm thực tế đó. Trái lại, sự hiển dung của Đức Ki-tô gợi lên rằng chúng ta nên mang đến niềm an ủi và hy vọng cho những anh chị em đó. Trong gia đình của các tín hữu, chúng ta phải tạo ra những cách thế mà anh chị em mình có thể biến đổi từ tuyệt vọng sang hy vọng.

THÁNH KINH: Mát-thêu 17:1-8; Mác-cô 9:2-8; Lu-ca 9:28-36

GIẢNG GIẢI: Về phương diện văn học, các trình thuật về cuộc hiển dung trong Tin Mừng Nhất Lãm có thể được liệt vào thể loại thần linh. Trong một văn thể như vậy, có sự hiện ra bất ngờ và bất thình lình của một thực thể thần thánh để truyền đạt những đặc tính, hành động, hay thông tin từ trời cao. Trong câu chuyện thần thánh này, trọng tâm được đặt nơi một mệnh lệnh cụ thể: “hãy nghe lời Người”. Sự kiện này cũng rất trọng yếu bởi vì mệnh lệnh đó xảy ra vào thời điểm chủ chốt trong trình thuật Tin Mừng, ngay sau lời tiên báo đầu tiên về cuộc thương khó của Đức Giê-su. Sự thay đổi của Đức Giê-su qua dạng một hình hài thánh thiêng đã cung cấp một biến chuyển dễ dàng đến hình dạng của Người và về cuộc đàm đạo với các ông Mô-sê và Ê-li-a, những người đã thuộc về thế giới thánh thiêng đó. Ví dụ như, trong cuộc hiện ra của thiên thần Gáp-ri-en với ông Đa-ni-en, mặt thiên thần chiếu sáng như ánh chớp (Đa-ni-en 10:6), trong khi mặt Đức Giê-su chiếu sáng như mặt trời (Mát-thêu 17:2). Trong một trong những thị kiến khác của ông Đa-ni-en, ông thấy áo của Đấng Lão Thành (Thiên Chúa) trắng tinh như tuyết (Đa-ni-en 7:9), trong khi áo Đức Giê-su trở nên trắng tinh như ánh sáng (Mát-thêu 17:2).

Điều quan trọng là cách mà ông Mô-sê và ông Ê-li-a đạt tới vinh quang nước trời. Theo sách Các Vua quyển 2, đoạn 2:11, tiên tri Ê-li-a lên trời trong cơn gió lốc. Theo sách Đệ Nhị Luật đoạn 34:7, ông Mô-sê thọ một trăm hai mươi tuổi khi ông chết trên núi Nơ-vô, và lúc đó ông “mắt không mờ, khí lực không giảm”. Theo truyền thuyết Do-thái vào thế kỷ thứ nhất sau Công Nguyên, ông Mô-sê đã chẳng hề thật sự chết mà chỉ biến mất và trở về với Thiên Chúa. Cũng theo một truyền thuyết khác trong cùng thời kỳ này, ông Mô-sê đã không phải chịu cái chết khủng khiếp của một tiên tri thất sủng. Trái lại, ông chết trong vinh quang và được vào Thiên Đàng ngay lúc đó. Điều đáng lưu ý ở đây là Đức Giê-su, không giống như ông Mô-sê hay ông Ê-li-a, sẽ đạt đến vinh quang thiên quốc không phải bằng cách không chết hay chết cách tự nhiên, mà bằng cách trải qua một cái chết do chính tay dân Người trong tư cách một tiên tri công chính và hoàn toàn vô tội.
Về phương diện lịch sử, khó mà xác định điều gì đã thật sự xảy ra trong biến cố này. Một giả định được thiết lập như sau: khi biết các kẻ thù của mình đang dần dần chiếm cơ trên và có thể đang tìm cách giết mình, Đức Giê-su đã bỏ lên núi và ở đó cầu nguyện. Trong khoảnh khắc khẩn thiết cầu nguyện này, Đức Giê-su nhận được lời đáp trả và mặt Người sáng lên. Mặc dù trước đó Người đã nghĩ rằng mình sẽ không phải hoàn thành sứ mạng bằng cách chết, nhưng vào lúc đó Người đã nhận ra rằng cái chết của mình sẽ là phương tiện hoàn thành sứ mạng. Như người tôi trung đau khổ trong I-sai-a 52:13-53:12, Người thấy rằng cái chết của mình sẽ mang lại ích lợi cho loài người. Người cũng nhận ra rằng mình sẽ được cứu thoát: “Này đây, người tôi trung của Ta sẽ thành đạt, sẽ vươn cao, nổi bật, và được suy tôn đến tột cùng” (I-sai-a 52:13). Cũng như người công chính đang đau khổ trong Sách Khôn Ngoan, Đức Giê-su giờ đây đã hiểu Cha Người sẽ phù hộ Người: “Nếu tên công chính là con Thiên Chúa, hẳn Người sẽ phù hộ và cứu nó khỏi tay địch thù” (Khôn Ngoan 2:18).

SUY NIỆM: Cảnh hiển dung trên đỉnh núi cho ta một cách nhìn và ý nghĩa mới về sự đau khổ và cái chết. Đối với chúng ta, cũng như đối với Đức Giê-su, vinh quang thiên quốc không phải chỉ đơn thuần là một phần thưởng hoàn toàn tách biệt với những gì xảy ra trong cuộc đời dương thế. Thiên Đàng không phải chỉ đơn giản là một chỗ cho linh hồn – đó còn là chỗ cho thân xác chúng ta nữa. Vinh quang thiên quốc không phải được đặt trên ước muốn trốn tránh, mà là trên sự can đảm và quả quyết của chúng ta khi chấp nhận sự khai trừ, sự đau đớn, và cuối cùng là sự chết. Thiên Đàng gắn liền với tất cả những trải nghiệm của chúng ta trong cuộc sống dương gian, nhất là những điều khó khăn thử thách nhất. Tác giả thư Do-thái, khi đặt Đức Giê-su ngang hàng với Thiên Chúa của Ít-ra-en (Thư Do-thái 1:8) đã nhấn mạnh bản tính nhân loại thật sự của Đức Giê-su khi Người vật vã với tổn thương và đau khổ. “Vì bản thân Người đã trải qua thử thách và đau khổ, nên Người có thể cứu giúp những ai đang bị thử thách” (Thư Do-thái 2:18). Trong hình ảnh biến đổi của mình, Đức Giê-su là khuôn mẫu cho chúng ta về sự chịu đựng những biến động, thất vọng, hay thất bại trong cuộc đời trần thế.

Do chúng ta luôn luôn có liên hệ với các anh chị em mình, sự hiển dung của Đức Ki-tô mang đến một thách đố là chúng ta không phải chỉ chịu đựng những đau khổ của chính mình mà thôi, nhưng cũng chịu đựng những đau khổ của cả gia đình mở rộng của Đức Giê-su nữa. Trong đoạn này, Đức Giê-su đã thấy rằng sẽ có ánh sáng ở cuối đường hầm, rằng cái chết đau đớn của Người sẽ không phải là động thái cuối cùng của Thiên Chúa. Có quá nhiều anh chị em của chúng ta, ít nhất là qua cách gián tiếp, đã cần đến chúng ta để giúp họ biến chuyển từ đau khổ sang vinh quang. Sự khích lệ, sự trợ giúp tài chính cũng như việc nâng tay đỡ chân, sự ủi an hy vọng của chúng ta, vân vân, là những phương cách giúp cho ánh sáng bắt đầu xuyên qua tăm tối và giúp những thành viên đang đau khổ bắt đầu thấy được nỗi đau khổ của họ có khả năng là mảnh ván bật tới một cung bậc mới của cuộc đời. Vì thế, sứ mạng của chúng ta là thắp sáng niềm vui rạng rỡ trên gương mặt anh chị em mình. Đến khi những người anh chị em đó đã xuống được tới chân núi, cuộc đời họ sẽ không còn là những nỗi vất vả mà là một chuỗi những khoảnh khắc tràn trề niềm tin.


Bí Tích Thánh Thể

TRỌNG TÂM: Khi tham dự bí tích Thánh Thể, chúng ta thường đặt nặng khía cạnh nào – cộng đoàn hay cá nhân? Trong thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô mời gọi chúng ta nhấn mạnh đến chiều kích cộng đoàn. Khi tuyên xưng cái chết của Chúa Giê-su, chúng ta thừa nhận sự tự nguyện tận hiến của Người. Khi chúng ta thật sự tưởng nhớ đến Đức Giê-su, chúng ta nhớ đến tất cả nhân loại, chứ không phải riêng mình mà thôi.

Trên một phương diện khác, Tin Mừng thánh Gio-an nhấn mạnh khía cạnh cá nhân trong bí tích Thánh Thể. Chúng ta kết hợp mật thiết với Đức Giê-su trong sứ mạng mà Chúa Cha đã trao phó cho Người. Đức Giê-su, trong vai trò bánh sự sống, giờ đây đã trở nên nền tảng cuộc sống vĩnh cửu cho chúng ta. Nhờ đó, chính cá nhân bản thân chúng ta được tham dự vào cuộc sống của Ba Ngôi Thiên Chúa.

THÁNH KINH: Mát-thêu 26:26-29; Mác-cô 14:22-25; Lu-ca 22:15-20; Gio-an 6:30-59; 1 Cô-rin-tô 11:17-34

GIẢNG GIẢI: Thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô là văn bản thánh kinh đầu tiên ghi lại về bí tích Thánh Thể. (Trình thuật của thánh Lu-ca về bí tích Thánh Thể gần như tương tự với văn bản của thánh Phao-lô, chỉ khác một vài điểm.) Điều thú vị là, chính vì một vụ hiểu sai bí tích Thánh Thể đã dẫn đến việc thánh Phao-lô giải thích rõ ràng về nghi thức trọng yếu này của Ki-tô giáo. Trong thư gởi tín hữu Cô-rin-tô, tiệc Thánh Thể diễn ra sau một bữa ăn bình thường. Tuy nhiên, những người thuộc giai cấp cao trọng trong xã hội đã đến trước và được hưởng trọn sự niềm nở hiếu khách của chủ nhà, kể cả một gian phòng riêng để họ có thể ngồi thoải mái ăn uống. Chỉ lúc về sau thì những người thuộc giai cấp thấp kém hơn mới lục tục kéo đến dự bữa ăn thường. Nhưng họ phải ngồi ngoài sân và chỉ được dọn những món hạng nhì. Không có gì ngạc nhiên khi thánh Phao-lô nhận xét rằng “kẻ thì đói, người lại say” (11:21).

Khi tường thuật việc thiết lập bí tích Thánh Thể, thánh Phao-lô hai lần dùng những chữ “mà tưởng nhớ đến Thầy” (11:24-25). Đây không phải là một sự tưởng nhớ cho có lệ về những sự kiện đã xảy ra trong ngày Thứ Sáu Tử Nạn. Trái lại, đó là sự suy tưởng về những ý nghĩa sâu sắc hơn trong cuộc tử nạn của Đức Giê-su. Sự tự hiến của Đức Giê-su khiến cho các tín hữu được thông phần vào sự sống, không chỉ với Thiên Chúa, mà còn với những người dự phần khác nữa. Thánh Phao-lô nâng cao ý nghĩa tưởng niệm này khi ghi nhận rằng qua việc tham dự bí tích Thánh Thể, người ta loan truyền Chúa đã chịu chết (11:26). Đối với thánh Phao-lô, cái chết của Đức Giê-su là một diễn tả rõ ràng về tình yêu Đức Giê-su dành cho nhân loại (xin xem thư gởi tín hữu Ga-lát đoạn 2:20). Sự thể hiện tấm lòng thương yêu cho người khác và vì người khác, tới mức hiến mạng sống mình, trở nên khuôn mẫu vĩnh hằng cho đời sống Ki-tô hữu. Như thánh Phao-lô có ghi trong một thư khác, chúng ta không còn sống cho chính mình, nhưng sống cho Đức Ki-tô (viết tắt của cộng đoàn Ki-tô hữu), người đã chết và đã sống lại vì chúng ta (Thư thứ hai gởi tín hữu Cô-rin-tô, đoạn 5:15). Sự phân biệt giai cấp trong thư Cô-rin-tô qua đó tầng lớp thấp bị hạ giá và tầng lớp cao được trọng vọng là đi ngược lại với hiện thực trọng tâm của bí tích Thánh Thể.

Trong trình thuật Bữa Tiệc Ly, thánh Mác-cô dùng các thể loại Giao Ước và Tế Lễ. (Ngoại trừ vài điểm cá biệt, thánh Mát-thêu đã tường thuật rất giống thánh Mác-cô.) Khi Đức Giê-su bẻ bánh rồi trao cho các môn đệ, Người chủ tâm muốn hành động đó tượng trưng cho sự thông phần của các ông trong tế lễ tự hiến của Người. “Máu Giao Ước của Thầy” (14:24) ám chỉ đến đoạn 24:3-8 trong sách Xuất Hành. Các môn đệ bước vào một quan hệ có tích cách Giao Ước với Đức Giê-su khi uống chén Người trao. Qua cử chỉ tượng trưng này, Đức Giê-su được hiểu là đang giải thích sứ mạng của Người chính là tế lễ tự hiến cho “nhiều” (ngôn ngữ Semitic) người, tức là, cho tất cả mọi người. Cách diễn đạt này, cộng với hình ảnh “đổ ra” (14:24), là một liên hệ đến nhân vật Người Tôi Trung Đau Khổ (I-sai-a 52:13-53:12). Vì thế, bí tích Thánh Thể được hiểu là nguồn căn mới cho sự sống, nhờ đó mà mỗi cá nhân được thông phần với Đức Ki-tô. Đồng thời, còn có một sự căng thẳng đợi chờ. Các môn đệ sẽ phải đợi chờ trông ngóng bữa tiệc ngày sau hết, bữa tiệc mà trong đó Đức Giê-su ngự trị nơi vương quốc của Thiên Chúa.

Tin Mừng thánh Lu-ca không có trình thuật về việc thiết lập bí tích Thánh Thể trong bữa Tiệc Ly. Thay vào đó, thánh Lu-ca sử dụng sự kiện hóa bánh và cá ra nhiều trong đoạn 6:1-15 để giới thiệu lập luận bánh sự sống của ông. Trong các câu 31-35, Đức Giê-su đã chỉ ra rằng bánh thật sự bởi trời không phải là bánh manna mà tổ tiên các thính giả Do-thái của Lu-ca đã ăn. Trái lại, bánh thật sự bởi trời là chính mình Đức Giê-su. “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ” (6:35). Đức Giê-su, bánh sự sống, chính là hiện thân của mặc khải từ Thiên Chúa.

Trong đoạn 51-58, Đức Giê-su đã đi từ việc dùng bánh để tượng trưng cho căn tính của mình, đến việc sử dụng bánh trong bí tích. Đến đây thì vấn đề là ăn thịt và uống máu Giê-su. Trong Cựu Ước, “thịt và máu” diễn tả sự sống con người. Việc nhắc đến thịt và máu cách riêng rẽ có lẽ để gợi ý rằng trong bí tích Thánh Thể, người tín hữu lãnh nhận trọn vẹn Giê-su sống động. Ở đây thánh Gio-an nhấn mạnh chiều kích cá nhân hơn là cộng đoàn của bí tích Thánh Thể. Khi thông phần trong bí tích Thánh Thể, người tín hữu thông dự vào sự sống của Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần (xin xem Gio-an 15:26). Kết quả của việc thông dự này là sự thành lập mối quan hệ vĩnh cửu với Thiên Chúa. Thánh Thể giúp ta sống ngay trong hiện tại ở trần gian, để nhờ đó ta có thể tiếp tục sống đời sống vĩnh cửu. Ngược lại, bánh manna trong sa mạc chỉ là một sự tương tự yếu ớt.

SUY NIỆM: Trong thần học của thánh Phao-lô, Thánh Thể là một đề tài hiểm hóc, bởi vì Thánh Thể liên kết chúng ta không chỉ với Đức Giê-su mà thôi, mà với cả toàn thể cộng đoàn. Nơi bí tích Thánh Thể chúng ta được thách đố rao truyền cuộc tử nạn của Đức Giê-su bằng cách vươn tay đến tất cả các thành viên trong tiệc Thánh Thể. Chúng ta thật sự tưởng nhớ đến Đức Giê-su khi chúng ta nhớ đến anh chị em của Người, nhất là những người thấp hèn bị khinh khi và bị ruồng bỏ. Ăn và uống với Đức Giê-su nghĩa là trở nên của ăn của uống cho cả gia đình mở rộng của Người. Trong ý nghĩa này, Thánh Thể đem chúng ta từ biên giới của phụng vụ thánh thiêng sang môi trường của hành động thánh thiêng. Trong những lúc phiền hà bực bội trong đời sống hằng ngày, chúng ta tìm thấy những nguyên liệu để nuôi dưỡng anh chị em mình. Phép Thánh Thể theo thánh Phao-lô, mặc dù đầy dẫy những rủi ro hiểm trở, nhưng lại là cơ hội của niềm tin cho chúng ta loan báo bằng hành động những gì mà chúng ta tuyên xưng bằng lời nói.
Trong thần học của thánh Gio-an, Thánh Thể có một chiều kích cá nhân hơn, vì bản thân mỗi tín hữu dự phần với Đức Giê-su một cách mật thiết hơn trong sứ mạng cứu chuộc mà Đức Chúa Cha đã giao phó cho Người. “Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy” (6:57). Đức Giê-su, bánh sự sống, trở nên nền tảng sự sống vĩnh cửu ngay bây giờ trên dương gian và vào lúc lời hứa phục sinh được thực hiện khi Người Trở-Lại-Lần-Thứ-Hai. Ở các đoạn khác (Gio-an 14:10-11; 17:21, 23), thánh Gio-an dạy rằng mối quan hệ giữa Đức Giê-su và các môn đệ Người phản ánh mối quan hệ giữa Đức Giê-su và Cha Người. Do đó, Thánh Thể trở nên dấu chỉ của mối quan hệ đó và thắt chặt hơn mối quan hệ đó.

Chương 3
Mầu Nhiệm
Năm Sự Thương

Lo buồn trong vườn dầu

TRỌNG TÂM: Xung đột ý chí là trọng tâm trong việc cầu nguyện của Đức Giê-su trong các Tin Mừng Nhất Lãm. Chúng ta biết mình thích gì và tự nhiên là muốn chìu theo những sở thích đó. Chén đắng khổ hình có thể làm chúng ta bị trấn áp hoảng sợ đến mức không muốn nghĩ gì tới điều đó cả. Ngay tại điểm này chúng ta phải nhìn lại sâu thẳm cõi lòng mình và cầu mong cho thánh ý Chúa được thể hiện. Đó là thái độ của một người môn đệ, không phải chỉ trong một vài trường hợp đặc biệt, mà là trong tất cả mọi tình huống hằng ngày.

Đức Ma-ri-a, Thân Mẫu Đức Giê-su, không được nhắc tới trong trình thuật Vườn Dầu nào cả. Tuy nhiên, thánh Gio-an cho ta biết một lưỡi gươm sẽ đâm xé tim Mẹ khi Đức Giê-su bị chính dân Người chối bỏ. Trong những đoạn khác chúng ta cũng bắt gặp Đức Ma-ri-a vất vả với những mặc khải mù mờ lúc Đức Giê-su giáng sinh và lúc Mẹ tìm lại được con trong Đền Thánh. Chính Đức Ma-ri-a cũng đã phải tìm sức mạnh nội tâm trong sự phó thác hoàn toàn vào chương trình của Thiên Chúa và trong khả năng hy vọng của Mẹ, mặc cho những hoàn cảnh mịt mù.

THÁNH KINH: Mát-thêu 26:36-46; Mác-cô 14:32-42; Lu-ca 22:39-46; Gio-an 18:1-11

GIẢNG GIẢI: Thánh Mác-cô vẽ ra một bức tranh đầy màu sắc ảm đạm thê lương khi Đức Giê-su tiến vào vườn Ghết-sê-ma-ni. Người đã nói trước việc ông Phê-rô chối Thầy (14:27-31) và sự phản bội của một người trong Nhóm Mười Hai (14:17-21). Dẫn theo các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an, Đức Giê-su bảo họ rằng Người lo buồn đến chết được. Dáng vẻ Đức Giê-su đã phản ánh tâm trạng đau khổ cùng cực của Người – Người sấp mình xuống đất. Quả thật Người đang vô cùng buồn sầu khổ não. Từ tận thâm sâu của bản tính loài người, Người kêu cầu lên Cha mình, xin cho khỏi phải qua giờ ấy / chén đắng ấy. Tuy nhiên, Người quả quyết đặt ý Cha lên trên hết. Khi mong tìm chút an ủi từ các môn đệ, Người buồn rầu thấy các ông đang ngủ say. Dù cho trước đó Người đã bảo các ông canh thức và cầu nguyện (13:32-37), Người phải lặp lại lời đó ngay vào thời khắc quyết liệt này. Nhưng rõ ràng là lời Người vô hiệu vì các môn đệ lại tiếp tục rơi vào giấc ngủ. Sau khi cầu nguyện một hồi nữa, Người chỗi dậy, lòng hoàn toàn quyết tâm chấp nhận thánh ý Cha mình.

Cũng như thánh Mác-cô, thánh Mát-thêu tách ba người môn đệ đặc biệt khỏi nhóm môn đệ và miêu tả cảm nghiệm đau buồn hãi hùng mà Đức Giê-su trải qua. Tuy nhiên, thánh Mát-thêu thay đổi vị thế của Đức Giê-su – Người sấp mặt xuống đất. Một vị thế như vậy đã được diễn tả trong Cựu Ước để nói lên lòng tôn kính phục thờ (xin xem Sáng Thế 17:3; Sa-mu-en 9:6). Lời cầu của Người lên Chúa Cha (“Lạy Cha, … nhưng xin đừng theo ý con mà xin vâng ý Cha” [26:39]) là tiếng vọng của Kinh Lạy Cha (Mát-thêu 6:9-10). Như thế, trong toàn bộ Tin Mừng, mối quan hệ của Đức Giê-su với Cha Người luôn nhất quán. Điều đặc biệt đáng lưu ý trong trình thuật của thánh Mát-thêu là sự nhấn mạnh vào quan hệ của Đức Giê-su với các môn đệ. Trong khi thánh Mác-cô tả Đức Giê-su tìm thấy “họ” và bảo “họ” (Mác-cô 14:37, 41) sau lần cầu nguyện thứ nhất và thứ ba, thánh Mát-thêu đã sử dụng danh từ thay vì đại danh từ, ví dụ như, “với các môn đệ” (26:20, 45). Trong khi Đức Giê-su của thánh Mác-cô bảo ba người môn đệ canh thức và quở trách ông Phê-rô đã không thức nổi một giờ (Mác-cô 14:34, 37), Đức Giê-su của thánh Mát-thêu bảo ba người này “canh thức với Thầy” (26:38, 40). Rõ ràng là thánh Mát-thêu đã chủ tâm nhấn mạnh mối liên kết giữa Đức Giê-su và các môn đệ, dù rằng, vào thời điểm thử thách cam go này, các ông cũng đã không theo nổi lời Người. Tương tự như trong Tin Mừng thánh Mác-cô, Đức Giê-su chuyển từ trạng thái đau đớn hãi hùng sang niềm quyết tâm vững chắc vâng theo ý Cha. Người đọc có cảm giác lòng quả quyết của Người gia tăng theo mỗi lần cầu nguyện.

Trong Tin Mừng theo thánh Lu-ca, núi Ô-liu là một nơi quen thuộc với Đức Giê-su. Không giống như Tin Mừng thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu, Đức Giê-su trong Tin Mừng thánh Lu-ca không đi ra xa khỏi nguyên nhóm môn đệ và cũng không tách lìa khỏi nhóm ba người đặc biệt. Thêm vào đó, Đức Giê-su của thánh Lu-ca thấy các môn đệ đang ngủ chỉ có một lần, không phải đến ba lần. Một lần nữa, dáng vẻ của Đức Giê-su rất có ý nghĩa ở đây. Người không sấp mình xuống đất như trong Tin Mừng Mác-cô. Trái lại, Người quỳ gối – một vị thế gợi ý rằng trong bản này Người đang giữ tự chủ hơn trong bản Mác-cô. Không giống như thánh Mác-cô, thánh Lu-ca tả Đức Giê-su cầu nguyện chỉ một lần, không phải đến ba lần. Vì vậy ở đây Đức Giê-su có vẻ đã nhận ra thánh ý Chúa Cha nhanh chóng hơn. Quan trọng hơn, thánh Lu-ca bỏ qua chi tiết thánh Mác-cô miêu tả Đức Giê-su tột cùng đau đớn. Đối với độc giả của Tin Mừng thánh Lu-ca, một trạng thái như vậy mang hàm ý tiêu cực của tội lỗi và sự trừng phạt. (Một cảm tưởng tiêu cực như thế thì rất phù hợp với các môn đệ đang ngủ vì buồn phiền trong câu 45.) Thánh Lu-ca tiếp tục tường thuật cảnh một thiên sứ từ trời hiện đến tăng sức cho Đức Giê-su. Trong khi hai đoạn Mác-cô 1:13 và Mát-thêu 4:11 thuật lại việc các thiên sứ hầu hạ Người sau cơn cám dỗ trong hoang địa, thánh Lu-ca đã dành sự hầu hạ đó cho giờ thương khó. Từ “thống khổ” bao hàm cuộc chiến đấu, sự giằng xé, đối chọi dữ dội trong nội tâm. Vì thế, Đức Giê-su bị rơi vào một kiểu chiến trận và một cuộc thử thách gay go. Nhờ có thiên sứ tăng sức trong cuộc chiến này, Người không bị khống chế bởi sự đau buồn vốn hay làm nhụt chí và giảm sức. Vào lúc kết thúc trình thuật này, Đức Giê-su tỏ ra mạnh mẽ hơn và kiên quyết hơn bao giờ để sẵn sàng lãnh nhận chén đắng.

Trong Tin Mừng thánh Gio-an, không có cảnh thử thách gay go hay cảnh thống khổ trong vườn cây dầu. Không cần có lời cầu nguyện gì ở đây, vì Đức Giê-su và Chúa Cha là một (Gio-an 10:30). Thay vào đó, thánh Gio-an thuật lại việc Đức Giê-su, trong khi đang rao giảng, đã bác bỏ việc xin Chúa Cha cứu Người. “Thầy biết nói gì đây? ‘Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này’ ư? Không, chính vì giờ này mà Thầy đã đến” (Gio-an 12:27). Đức Giê-su của thánh Gio-an hoàn toàn tự chủ và hoàn toàn làm chủ tình huống trong cuộc khổ nạn. Mà thật vậy, Người không ngại uống chén đắng Chúa Cha đã dọn sẵn (Gio-an 18:11).

SUY NIỆM: Khi gặp xung đột giữa ý muốn của bản thân và thánh ý Thiên Chúa trong việc cầu nguyện, chúng ta thấy mình giống như khuôn mẫu Giê-su của thánh sử nào? Có lẽ thường là giống Đức Giê-su của thánh Mác-cô. Gặp đau đớn hãi sợ thì chúng ta sụp ngay xuống đất, ráng tìm một lối thoát hoặc một kết cục không phải là ý Chúa. Cho nên chúng ta cứ hay nỉ non: “… xin cho con khỏi uống chén này …” (Mác-cô 14:36). Cũng có thể cuối cùng thì chúng ta sẽ vô cùng miễn cưỡng mà đặt ý Chúa lên trên ý riêng mình. Rất có thể Đức Giê-su của thánh Mát-thêu hợp với chúng ta hơn. Thay vì sụp xuống, chúng ta úp mặt xuống đất trong một dáng vẻ toát ra sự tôn kính. Thay vì sỗ sàng dứt khoát đòi buộc phải theo ý mình, chúng ta có thể bắt đầu ra điều kiện một cách thận trọng hơn, đó là, nếu như có thể được. Nhưng sau đó chúng ta sẽ hạn định điều đó bằng câu: “… nhưng xin đừng theo ý con, mà xin vâng ý Cha” (Mát-thêu 26:39). Còn nếu như chúng ta kiên quyết hơn trong việc chọn ý Chúa thay vì ý mình, chúng ta có thể thấy mình giống Đức Giê-su của thánh Lu-ca. Sự quỳ gối của chúng ta có thể bao hàm sự cởi mở phó thác vào chương trình của Thiên Chúa, và vì thế chỉ cần thốt lên một lời nguyện, không cần đến ba. Chúng ta nhìn nhận mình đang trong một trận chiến nhưng được tăng sức và được vững lòng bởi sự hiện diện của Thiên Chúa qua hình ảnh một thiên sứ. Thánh ý Chúa, chứ không phải ý riêng ta, đã được thể hiện. Sau hết, không nghi ngờ gì cả, khuôn mẫu mà ta khó theo nhất là Đức Giê-su của thánh Gio-an. Bởi vì Chúa Cha và Đức Giê-su là một, ý của hai Đấng chỉ là một. Việc cầu nguyện không thật sự cần thiết nữa, vì ngay từ ban đầu thì thánh ý Chúa đã thắng ý riêng của ta. Kết cục đã được an bài. Chiến thắng dần dần sẽ đến vì thánh ý Thiên Chúa đã được thể hiện.

Đang khi cố gắng tìm hiểu thánh ý Thiên Chúa trong bất kỳ tình huống nào, chúng ta có thể an tâm qua việc suy ngắm Đức Ma-ri-a của thánh Lu-ca, thân mẫu Đức Giê-su. Lúc hạ sinh Đức Giê-su và lúc tìm được Người năm mười hai tuổi trong Đền Thờ, chúng ta thấy Đức Ma-ri-a đã suy niệm tất cả những điều này trong lòng. Mẹ là người đã nhận sự mặc khải mù mờ, Mẹ không hiểu hết những ẩn ý sâu sắc bên trong những sự kiện này. Mặc dù bị bối rối, Mẹ đã giữ vững niềm tin, đã tỏ ra kiên trì tới mức cao nhất. Chỉ trong ánh sáng phục sinh và thăng thiên của Đức Giê-su thì Mẹ mới hoàn toàn hiểu hết ý nghĩa mọi sự. Khuôn mẫu này của thánh Lu-ca chắc chắn là có nhiều điều để chúng ta học hỏi.


Chịu đánh đòn

TRỌNG TÂM: Việc đánh đòn trước khi đóng đinh cho thấy sự ghê rợn của bản án tử hình thời La-mã. Thường là chỉ dành cho những tội phạm ghê gớm nhất, cách chết này thật nhục nhã và khủng khiếp – theo thánh Phao-lô, đó là một điều ô nhục đối với người Do-thái và là một sự điên rồ tột cùng đối với dân ngoại. Khi nghĩ về cảnh đánh đòn trong bối cảnh đóng đinh, chúng ta phải can đảm đặt câu hỏi là hình thức tra tấn này có điều gì tích cực. Phải chăng Thiên Chúa đã một lần nữa biểu dương quyền năng biến những gì khủng khiếp và hạ cấp thành một cách bày tỏ tình yêu sâu thẳm nhất? Phải chăng yếu tố này trong cuộc khổ nạn là dấu hiệu của tình yêu Thiên Chúa dành cho loài người?

THÁNH KINH: Mát-thêu 27:26; Mác-cô 15:15; Lu-ca 23:16, 22; Gio-an 19:1

GIẢNG GIẢI: Đóng đinh là một hình thức xử tử của đế quốc La-mã làm cho kẻ tử tội phải chịu nhục nhã tột cùng. Đức giáo phụ O-ri-gen đã nói rằng đóng đinh là một cái chết hạ tiện nhất trên thập tự. Được dùng như một hình thức răn đe vì sự khủng khiếp của nó, đóng đinh hầu như chỉ được áp dụng đối với những giai cấp thấp kém trong xã hội. Những giai cấp đó bao gồm những kẻ nô lệ, những tên tội phạm tàn ác, và những thành phần chống đối ở các địa phương. Đóng đinh cũng là một hình thức trừng phạt trong đó tính bạo tàn của những kẻ thi hành bản án được tha hồ thể hiện một cách vô hạn định. Trong mắt người Hy-lạp, La-mã, những dân man dã, và người Do-thái, thập tự tượng trưng một hành động sỉ nhục tột cùng đối với một con người. Với quan niệm đó, một Đấng Thiên Sai mà bị đóng đinh thì thật là mâu thuẫn.

Trên một hậu cảnh như vậy thánh Phao-lô đã không ngần ngại rao giảng: “nhưng chúng tôi lại rao giảng một Đấng Ki-tô bị đóng đinh, điều mà người Do-thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ” (1 Cô-rin-tô 1:23). Theo những diễn giải về đoạn 21:23 trong sách Đệ Nhị Luật vào thế kỷ thứ nhất sau Công Nguyên, lời nguyền của Thiên Chúa đối với những tử tội bị treo lên cây cũng bao gồm những kẻ bị đóng đinh. Mặc dù vậy, thánh Phao-lô đã cảm thấy một điều trớ trêu trong cái chết đóng đinh của Đức Giê-su, bởi vì, khi trở nên kẻ bị nguyền rủa vì nhân loại, Đức Giê-su đã mang lại sự giải thoát khỏi lời nguyền của luật lệ Do-thái (Thư Ga-lát 3:13). Trong thư gởi tín hữu Phi-líp-phê, thánh Phao-lô đã dẫn một bài ca nhấn mạnh sự vâng lời đến chết của Đức Giê-su, nhưng nói rõ cái chết đó là chết như thế nào bằng cách thêm đoạn “chết trên cây thập tự” (Thư Phi-líp-phê 2:8). Trong thư Rô-ma đoạn 8:32, thánh Phao-lô cũng lưu ý rằng trong cái chết của Đức Giê-su, Thiên Chúa đã hòa mình trong tận cùng nỗi khổ đau của nhân loại. Mâu thuẫn làm sao, một Đức Ki-tô bị đóng đinh lại chính là sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa (1 Cô-rin-tô 1:24).

Không như các thánh kinh giả mạo và vài văn bản kinh điển, chẳng hạn như, đoạn 7:1-42 trong 2 Ma-ca-bê, những trình thuật Tin Mừng này không chú trọng vào nỗi đau đớn khổ ải tột cùng mà Đức Giê-su đã trải qua. Những điều đó được diễn tả ở nơi khác, trong các thánh vịnh và các sách tiên tri Cựu Ước. Vì thế, các Tin Mừng này đã tránh ghi lại những chi tiết đẫm máu trong tiểu sử Đức Giê-su, nhưng diễn giải tầm quan trọng của cuộc khổ nạn và tử nạn của Người. Qua các văn bản thánh kinh Do-thái, Thiên Chúa đã nói rất nhiều về Con Một Người.

Đánh đòn một tử tội trước khi đóng đinh họ vào thập tự là một phong tục phổ thông thời La-mã. Nói đúng ra, đó là một phần của bản án đóng đinh. Những roi đòn do lý hình sử dụng thường được gắn những miếng xương hay kim loại, với hệ quả là người chịu hình phải bị đau đớn khủng khiếp. Theo sử gia Do-thái Josephus, một số tử tội đã chết vì hậu quả của trận đòn. Trong số các thánh sử chỉ có thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô tường thuật việc Đức Giê-su bị đánh đòn sau khi bị xét xử ở tòa án La-mã trước khi bị hành hình. Theo Tin Mừng thánh Lu-ca đoạn 23:16, quan Phi-la-tô có ý định chỉ trừng phạt Đức Giê-su bằng cách đánh đòn mà thôi, vì ông thấy Người chẳng can tội gì đáng chết cả. Mặc dù ông Phi-la-tô lặp lại ý định của ông trong đoạn Lu-ca 23:22, Đức Giê-su của thánh Lu-ca đã không hề bị đánh đòn. Theo thánh Gio-an đoạn 19:1, ông Phi-la-tô truyền lệnh đánh đòn Đức Giê-su. Tuy nhiên, đó không phải là hình phạt đánh đòn trước khi đóng đinh, mà chỉ là một cách ông Phi-la-tô dùng để thuyết phục cho đám đông chịu thả Đức Giê-su.

SUY NIỆM: Mặc dù đối với người không tin thì thập tự là một phương tiện để làm ô nhục người khác, nhưng đối với Ki-tô hữu thì thập tự đã trở nên một biểu tượng tuyệt vời của tình yêu. Mặc dù những người chống đối cho rằng tín đồ Ki-tô giáo tôn thờ một tên tội phạm chết trên cây thập tự nhục nhã, nhưng Ki-tô hữu đáp lại rằng cây thập tự gói trọn biểu tượng kỳ diệu nhất về mối tương quan của Thiên Chúa với nhân loại. Thánh Phao-lô quả quyết tuyên bố rằng, mặc cho những trở ngại hay hiểm nguy trước ơn cứu độ và sự hiệp thông với Thiên Chúa, cây thập tự bảo đảm chúng ta sẽ giành được chiến thắng tối hậu. “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta?” (Thư Rô-ma 8:32). Tóm lại, nói cho cùng thì thập tự không phải điều ô nhục cũng chẳng phải là sự điên rồ. Trái lại, đó là bằng chứng vững chắc nhất về tình thương tràn trề của Thiên Chúa.


Mão gai

TRỌNG TÂM: Chúng ta làm cách nào để nhận diện Đức Giê-su, đối tượng của sự sỉ nhục và nhạo báng như thế? Chúng ta không cần phải nhìn đâu chi cho xa để khám phá ra Đức Giê-su này. Người ẩn mình nơi tất cả những anh chị em của chúng ta đang bị tổn thương, hay bị chà đạp áp bức. Thật không may, Đức Giê-su vẫn tiếp tục bị nhạo báng mỗi khi có ai đó bị tước đoạt nhân cách hay phẩm giá căn bản của con người. Suy niệm về khía cạnh này của cuộc khổ nạn nghĩa là tự đặt mình vào những cảnh huống mà nơi đó bất công ngự trị. Đức Giê-su bị nhạo báng này, buồn thay, vẫn hiện diện đầy dẫy giữa nhân loại chúng ta.

THÁNH KINH: Mát-thêu 27:27-31; Mác-cô 15:16-20; Lu-ca 23:11; Gio-an 19:2-3

GIẢNG GIẢI: Trong cả hai Tin Mừng Mát-thêu và Mác-cô, việc đội vương miện bằng mão gai là một trong những sự nhạo báng mà quân lính La-mã đã làm. Mặc dù quan Phi-la-tô đã không hề truyền lệnh nhạo báng như thế, các quân lính có vẻ đã tự tiện làm việc này. Trong Tin Mừng thánh Mác-cô, Đức Giê-su được khoác áo tím vương giả, còn trong Tin Mừng thánh Mát-thêu, Người được mặc cho một tấm áo choàng đỏ của quân lính. Về phần vương miện bằng gai (đúng hơn đó là một cái vòng gai hơn là vương miện), người ta không chủ ý dùng nó để hành hạ tra tấn. Đó chỉ đơn giản là một yếu tố để nhạo báng Vua Do-thái. Trong Tin Mừng thánh Mác-cô, cây sậy được dùng như một công cụ để đập vào đầu Đức Giê-su. Nhưng trong Tin Mừng thánh Mát-thêu thì lúc đầu cây sậy được giả làm vương trượng để chế giễu. Chỉ sau đó nó mới được dùng để đập vào đầu Đức Giê-su. Trong cả hai Tin Mừng Mát-thêu và Mác-cô, Đức Giê-su bị nhạo báng với câu tung hô “Vạn tuế Đức Vua dân Do-thái”, một lời nhạo báng gợi nhắc độc giả câu tung hô “Vạn tuế Vua Xê-da”. Thánh Mát-thêu tường thuật việc quỳ gối như là một yếu tố trong việc quân lính hạ nhục Đức Giê-su – còn thánh Mác-cô ghi nhận sự việc này chỉ sau khi việc hạ nhục xảy ra. Trong cả hai bản Mát-thêu và Mác-cô, khạc nhổ là một yếu tố khác trong cảnh hạ nhục này, và cả hai bản ghi rằng Đức Giê-su sau đó được mặc lại áo của Người trước khi bị điệu ra nơi hành hình.

Thánh Lu-ca không có đoạn nào kể lại việc lính La-mã nhạo báng Đức Giê-su trong cuộc xử án hay ngay sau khi xử án. Tuy nhiên, thánh Lu-ca đã tường thuật một cảnh mà ba vị thánh sử kia không có. Khi biết Đức Giê-su là người Ga-li-lê, Phi-la-tô đã cho áp giải Người sang Hê-rô-đê An-ti-pa là vua xứ Ga-li-lê. Khi Đức Giê-su không chịu làm vài ba phép lạ cho vui lòng vua Hê-rô-đê, Người đã bị vua và quân lính chế giễu, khinh miệt. Cũng như trong bản Mát-thêu và Mác-cô, chiếc áo choàng xuất hiện tô điểm cho cảnh này. Trong bản Lu-ca, đó là một chiếc áo khoác rực rỡ lấp lánh - có lẽ là dấu chỉ của sự vô tội, hơn là sự nhạo báng.

Thánh Gio-an mô tả gần giống như thánh Mác-cô (áo choàng tím) và thánh Mát-thêu (đặt mão gai lên đầu Đức Giê-su). Không như thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô, thánh Gio-an đã đặt sự nhạo báng ngay trong cuộc xử án ở công nghị Do-thái, không phải sau khi đã xét xử xong. Cũng như việc đánh đòn, việc nhạo báng là do Phi-la-tô nghĩ ra để mong tìm sự thương cảm cho một Giê-su đã tan nát hình hài. Nói về việc đánh đòn, lính La-mã đã liên tục đánh Người. Tương tự như thánh Mát-thêu và Mác-cô, thánh Gio-an tả Đức Giê-su bị chế giễu với câu tung hô “Vạn tuế Vua dân Do-thái”.

SUY NIỆM: Cái hình hài tang thương được cả bốn thánh sử miêu tả dĩ nhiên là gợi lên trong chúng ta lòng thương cảm lẫn phẫn nộ. Bởi vì sự cao trọng và quảng đại của Đức Giê-su đã được nói rõ trước đó trong cả bốn trình thuật Tin Mừng, chúng ta có lý do chính đáng để cảm thấy ghê sợ và bất bình trước sự nhạo báng mà Người phải gánh chịu. Chúng ta cảm thấy rằng, không như đám đông trong trình thuật của thánh Lu-ca và Gio-an, chúng ta sẽ chấp thuận đề nghị của quan Phi-la-tô và sẽ xin cho Đức Giê-su được tha bổng.

Nhưng chúng ta có dám nhìn thấy cái hình hài tang thương nhục nhã ê chề đó trong hình ảnh của anh chị em mình hay không? Theo thánh Lu-ca, tác giả của sách Công Vụ Tông Đồ, Đức Giê-su đã chào ông Sao-lô trên đường đến Đa-mát với câu hỏi sau: “Sa-un, Sa-un, tại sao ngươi bắt bớ Ta?” (Công Vụ Tông Đồ 9:4; 22:7; 26:15). Sa-un nhận ra rằng bắt bớ cộng đoàn Ki-tô hữu tức là bắt bớ Đức Giê-su. Trong thư Cô-rin-tô thứ nhất, thánh Phao-lô đã tuyên bố với giáo đoàn khốn khổ ở đó rằng cộng đoàn Ki-tô hữu chính là thân thể Đức Ki-tô. “Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau” (12:26). Trong Tin Mừng thánh Mát-thêu, Đức Giê-su hòa đồng với những kẻ đói khát, những kẻ không mảnh áo che thân, những kẻ tù tội (25:31-46). Bất cứ điều gì làm cho những anh chị em bé mọn nhất của Giê-su là làm cho chính Người.

Có lẽ thông điệp này của các thánh Lu-ca, Phao-lô, và Mát-thêu là một chủ đề để suy niệm về việc Đức Giê-su bị nhạo báng. Điều căn bản là chúng ta được thách đố biết chấp nhận một Thiên Chúa hay giả trang, một Thiên Chúa cứ muốn hiện thân nơi những anh chị em đang đau khổ của chúng ta. Lòng thương xót và thương cảm dĩ nhiên là những phản ứng đúng đắn với hoàn cảnh đáng thương của họ. Nhưng nói cho cùng, cầu nguyện cho họ là một phản ứng giá trị nhất. Tuy nhiên, những hành động thích đáng để giảm nhẹ nỗi thương đau của các anh chị em đó phải là một phần không thể thiếu trong toàn bộ phản ứng của chúng ta. Biết giúp đỡ một con người đang khốn đốn hay tổn thương tức là hiểu được phần này trong trình thuật cuộc thương khó. Điều đó cũng có nghĩa là biến chuyển từ chiều Thứ Sáu Tử Nạn sang sáng Chúa Nhật Phục Sinh.

Vác Thập Tự

TRỌNG TÂM: Đức Giê-su của thánh Gio-an thật là khác xa với Đức Giê-su của thánh Lu-ca biết bao! Đức Giê-su của thánh Gio-an bình tĩnh tiến tới cái chết của mình và không cần sự trợ giúp của phàm nhân nào cả. Trái lại, Đức Giê-su của thánh Lu-ca đã kiệt lực đến nỗi Người phải cần có ông Si-môn giúp sức mới đi nổi tới nơi hành quyết. Thêm vào đó, Đức Giê-su của thánh Lu-ca lại còn có hai tên gian phi đồng hành.

Trong trình thuật của thánh Lu-ca, những người phụ nữ đã đập vào trí chúng ta ra sao? Những người con gái của Giê-ru-sa-lem đã biểu lộ một nhân tính căn bản mà, đáng tiếc thay, rất hiếm hoi trong xã hội của chúng ta: lòng thương xót. Cảnh tượng ông Giê-su sức tàn lực cạn đã khiến họ rơi nước mắt khóc than. Những phụ nữ này đã cảm thấy có điều gì không chính đáng – đúng hơn, sự bất công trong toàn bộ tấn bi kịch này. Chúng ta phải tự hỏi rằng chúng ta có để cho chính mình biết cảm động trước những bất công, trước những hoàn cảnh vô vọng trong xã hội chúng ta đang sống hay không. Nếu có, thì chúng ta sẽ có những hành động gì?

THÁNH KINH: Mát-thêu 27:31-32; Mác-cô 15:20-21; Lu-ca 23:26-32; Gio-an 19:16-17

GIẢNG GIẢI: Sau trận đòn mở màn, kẻ tử tội sẽ phải đặt cây thập tự lên cổ, dùng hai cánh tay giữ thập tự trên vai, và vác thập tự đến nơi hành quyết, vừa đi vừa bị đánh dọc đường. Thường thì thanh dọc của thập tự sẽ được chôn chặt xuống đất tại địa điểm hành quyết. Theo thánh Mát-thêu, Mác-cô, và Lu-ca, ông Si-môn miền Ky-rê-nê (được cho là một nhân vật tình cờ) bị bắt phải vác cây thập tự của Đức Giê-su. Điều này nói lên tình trạng kiệt sức của Đức Giê-su do hậu quả bị đánh đòn và những hành hạ khác. Điều lý thú được ghi nhận ở đây là trong bản của thánh Gio-an không cần có ông Si-môn miền Ky-rê-nê nào cả, vì Đức Giê-su tự vác thập giá mình. Đối với thánh Gio-an đây là một chi tiết được chủ ý tính toán sắp đặt để nhấn mạnh sự hoàn toàn chủ động của Đức Giê-su. Trước đó trong bộ Tin Mừng này, Đức Giê-su đã tuyên bố: “… tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại. Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình” (Gio-an 10:17-18).

Thánh Lu-ca nhấn mạnh chi tiết ông Si-môn vác cây thập tự “theo sau” Đức Giê-su (23:26). Đây là một tiền đề mà thánh Lu-ca đã dùng trong các đoạn trước khi nói về giáo huấn của Đức Giê-su cho các môn đệ. Ví dụ như, trong đoạn 9:23 Đức Giê-su dạy: “Ai muốn theo tôi (nghĩa đen: đi theo phía sau tôi), phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”. Sự trợ giúp của ông Si-môn trong đoạn này, vì thế, trở nên một kiểu mẫu của một môn đệ chân chính. Chuyến hành trình của Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem (Lu-ca 9:51-19:28), do đó, có cao điểm nơi hành động của một môn đệ trên đường lên núi Can-vê.

Thánh Lu-ca, cũng như các thánh sử khác, ghi nhận sự hiện diện của những người Do-thái không phải là môn đệ của Đức Giê-su, nhưng mặc dù vậy những người này cũng mủi lòng trước tình cảnh đáng thương của Người (23:27). Cụ thể là, những người phụ nữ đã bày tỏ lòng thương xót khi khóc than thương tiếc Người. Cho nên không phải tất cả mọi người đều chối bỏ Đức Giê-su. Dù sao đi nữa, khi nói với những người phụ nữ Giê-ru-sa-lem này, Đức Giê-su đã bỏ qua một bên số phận của mình để chú trọng vào tai biến sắp xảy ra cho thành Giê-ru-sa-lem. Đây là một thành phố đã giết các tiên tri và đã gạt bỏ thông điệp của Đức Giê-su (Lu-ca 13:34-35). Hậu quả là, nó sẽ bị bao vây, bị công hãm tư bề, bị đè bẹp giày xéo dưới gót chân quân thù (Lu-ca 19:41-44; 21:20-24).

Khi gọi những người phụ nữ son sẻ là có phúc (xin xem I-sai-a 54:1) và bảo núi đồi cao là những nơi sẽ bị phá hủy (xin xem Hô-sê 10:8), Đức Giê-su của thánh Lu-ca đang nói đến sự tàn phá kinh hoàng của thành Giê-ru-sa-lem dưới tay người La-mã vào năm 70 sau Công Nguyên. Câu cách ngôn trong đoạn 31 về cây xanh tươi và cây khô héo có lẽ có nghĩa là: nếu Đức Giê-su, một người vô tội, lại phải chịu chết dưới tay người La-mã, thì những người tội lỗi sẽ ra sao? Chỉ một mình thánh Lu-ca nhắc đến hai tên gian phi đồng hành với Đức Giê-su trên đoạn đường bị điệu đi hành quyết. Đó cũng có thể là cách của thánh Lu-ca bi kịch hóa việc Đức Giê-su đồng hành với những người tội lỗi và những kẻ bị xã hội ruồng bỏ.

SUY NIỆM: Hình ảnh nào của Đức Giê-su nhìn thuận mắt hơn đối với chúng ta: Đức Giê-su của thánh Gio-an người tự mình vác cây thập tự, hay Đức Giê-su của thánh Lu-ca người được ông Si-môn giúp đỡ và có hai tên gian phi đồng hành? Không nghi ngờ gì, Đức Giê-su của thánh Gio-an thể hiện những phẩm chất mạnh mẽ mà ai cũng khâm phục, chẳng hạn như sự tự chủ, sự cao cả, sự chủ động. Tuy nhiên, mặc dù vô cùng khâm phục hình ảnh Giê-su này, chúng ta có thể bắt chước Người hay không? Đối nghịch lại, hình ảnh Đức Giê-su của thánh Lu-ca cũng có sức hút vì đã thể hiện những nét đặc trưng về sự yếu đuối của con người. Đức Giê-su đó đã cần phải được trợ giúp, và do đó, phải cậy dựa vào sự nâng đỡ của một đồng loại. Những người đồng hành với Đức Giê-su của thánh Lu-ca cũng nhắc chúng ta về gia đình và bạn bè của mình. Họ là những người cũng phạm lỗi lầm và vì thế họ là những ví dụ của bản tính loài người. Tuy nhiên, đối với một trong hai tên gian phi, sự đồng hành với Đức Giê-su sẽ mang lại cơ hội được vào vương quốc của Người. Tóm lại chúng ta có hai bức chân dung rất khác nhau của Đức Giê-su. Tùy theo từng tình huống trong đời, một trong hai hình ảnh đó sẽ có thể có ý nghĩa với chúng ta nhiều hơn. Cho dù có vẻ đối chọi, cả hai hình ảnh đều là khuôn mẫu cho người môn đệ thời nay.

Lòng thương xót, nhiều khi, là một nhân đức rất khó mà bắt chước. Chúng ta thích nắm quyền hoàn toàn chủ động trên các cảm xúc của mình và không muốn biểu lộ bất cứ sự xúc động nào. Cách hành xử lạnh lùng như vậy sẽ có khả năng cách ly và nhốt kín chúng ta trong cái vỏ bản ngã của mình. Tuy nhiên, những người phụ nữ Giê-ru-sa-lem đã không hành xử như vậy. Xúc động trước hình ảnh một Đức Giê-su tả tơi, họ đã bật ra những tiếng than khóc nức nở. Một cuộc khổ nạn đau thương như vậy đã đánh trúng một cung mẫn cảm trong toàn thể con người họ. Họ bắt buộc phải hành động. Cảnh này có thể là một loại thuốc giải trừ rất tốt cho những lúc chúng ta khô cạn lòng xót thương. Chúng ta phải tự hỏi mình có nên cảm động đến khóc được, và phải hành động ra sao khi chứng kiến những nỗi đau khổ và những hoàn cảnh đáng thương của biết bao nhiêu người đang được trình chiếu thật sinh động trên màn ảnh truyền hình. Chúng ta có dám mở tai nghe tiếng khóc cầu cứu tuyệt vọng trong cộng đoàn? Những người phụ nữ Giê-ru-sa-lem phải luôn tiếp tục ảnh hưởng đến cuộc sống hằng ngày của chúng ta.

Chịu đóng đinh và chịu chết

TRỌNG TÂM: Chúng ta nên nhìn Thứ Sáu Tử Nạn như thế nào? Có phải đó là một sự kiện thê thảm bởi vì một người vô tội đã bị xử tử? Nếu đọc kỹ Tin Mừng thánh Gio-an, chúng ta sẽ nhận ra thái độ đó hoàn toàn không có cơ sở. Trong Tin Mừng thánh Gio-an, khi Đức Giê-su lìa đời, Người để lại Thánh Thần. Thứ Sáu Tử Nạn giờ đây chính là Lễ Hiện Xuống. Trong khi dòng máu chảy ra từ cạnh sườn Đức Ki-tô bi kịch hóa cái chết của Người, dòng nước cũng từ nơi đó chảy ra lại tượng trưng cho hồng ân Thánh Linh.

Dù không quan niệm Thứ Sáu Tử Nạn là Lễ Hiện Xuống, thánh Lu-ca nhìn Thứ Sáu Tử Nạn cao hơn một thảm kịch vô nghĩa rất nhiều. Từ trên thập tự, Đức Giê-su thốt ra lời tha thứ cho những kẻ nhúng tay trong cái chết của Người. Hơn nữa, Người đã mở rộng cửa Thiên Đàng cho người gian phi sám hối. Trong bối cảnh thê lương của ngày Thứ Sáu Tử Nạn còn có biểu lộ của ân phúc.

THÁNH KINH: Mát-thêu 27:33-56; Mác-cô 15:22-41; Lu-ca 23:33-49; Gio-an 19:17-37 

GIẢNG GIẢI: Ta có thể nói trình thuật của thánh Mác-cô về việc đóng đinh và cái chết của Đức Giê-su là một sự vén bức màn cho thấy những chi tiết khủng khiếp xảy ra trong ngày Thứ Sáu Tử Nạn. Tuy nhiên, đồng thời, đó cũng là một trình thuật đầy những nghịch lý và bí ẩn, một trình thuật được chủ tâm sắp đặt để gợi lên trong trí người đọc lời tuyên xưng niềm tin của viên đại đội trưởng: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa!” (15:39).

Mặc dù thánh Mát-thêu tường thuật rất giống thánh Mác-cô, ông đã đi xa khỏi nguồn khi nói về những biến động vang dội sau cái chết của Đức Giê-su trong đoạn 27:51-53. Ngoài việc bức màn trướng trong Đền Thờ bị xé ra làm hai, thánh Mát-thêu còn tường thuật một vụ động đất, đất đá vỡ ra, mồ mả bật tung, xác nhiều vị thánh trỗi dậy. Những hiện tượng này gợi nhớ lại các trình thuật trong Cựu Ước (I-sai-a 26:19; Ê-dê-ki-en 37:12; Na-khum 1:5-6). Chúng tượng trưng cho sự kết thúc của thời đại cũ và sự khởi đầu của một thời đại mới. Không chỉ một mình viên đại đội trưởng tuyên xưng niềm tin của ông, nhưng các binh lính dưới quyền ông cũng làm như vậy (27:54). Các dân ngoại cũng chứng kiến xác chết và phép lạ của Đức Giê-su.

Trong trình thuật Lu-ca, lời đầu tiên của Đức Giê-su trên cây thập tự là lời tha thứ cho những kẻ nhúng tay vào cái chết của Người (23:34; cũng xem Công Vụ Tông Đồ 3:17; 7:60). Một trong hai kẻ gian phi cùng bị kết án với Đức Giê-su đã mắng tên đồng bọn, nhìn nhận sự vô tội của Đức Giê-su, và cầu xin được Đức Giê-su nhớ đến (23:40-42). Đức Giê-su đoan chắc với kẻ được gọi là tên trộm lành này là anh ta sẽ được ở với Người trên Thiên Đàng ngay trong hôm đó (23:43). Thay vì dùng Thánh Vịnh 22 (“Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?”) như trong bản Mát-thêu và Mác-cô, thánh Lu-ca đã đặt Thánh Vịnh 31:5 lên môi Đức Giê-su, bắt đầu bằng tiếng kêu “Lạy Cha”: “… con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (23:46; cũng xem Công Đồ Tông Vụ 7:59). Viên đại đội trưởng ở đây không tuyên xưng Đức Giê-su là Con Thiên Chúa. Nhưng, ông đã tuyên bố sự vô tội của Đức Giê-su (23:47). Kết quả của những sự kiện này là, đám đông dân chúng Do-thái tỉnh ngộ và ăn năn (23:48: “đấm ngực”), một cử chỉ nhắc lại sự khiêm nhượng của người thu thuế đối nghịch với người Pha-ri-sêu kiêu căng (Lu-ca 18:13).

Tin Mừng thánh Gio-an, trong khi có rất nhiều điểm tương đồng với các Tin Mừng Nhất Lãm, nhưng cũng đưa ra những khía cạnh cá biệt. Chẳng hạn như, ông Phi-la-tô xác nhận vương quyền của Đức Giê-su qua tấm bảng viết bằng ba ngôn ngữ (19:19-22). Một cách nghịch lý, thập tự là ngai báu của Người. Không như thánh Mát-thêu và Mác-cô, thánh Gio-an đã dẫn chứng rõ ràng Thánh Vịnh 22:18 để nói về sự chia chác áo xống của Đức Giê-su, nhấn mạnh rằng chiếc áo dài của Người không có đường khâu, dệt liền từ trên xuống dưới, và qua đó có lẽ đã cho rằng đó là một biểu tượng của sự hiệp nhất (19:23-24). Trong khi thánh Mát-thêu và Mác-cô cho những người phụ nữ trung thành đứng xa khỏi cây thập tự và không nhắc gì đến những nam môn đệ của Đức Giê-su, thánh Gio-an đã đặt các nhân chứng ngay dưới chân thập tự, trong đó có cả thân mẫu Người và người môn đệ yêu quý (19:25).

Đối với thánh Gio-an, cả hai nhân vật này, tuy là những nhân vật lịch sử, còn có vai trò tượng trưng chủ chốt ở đây. Khi đang hấp hối trên thập giá, Đức Giê-su đã (1) đặt thân mẫu mình làm thân mẫu của người môn đệ yêu quý, và (2) đặt người môn đệ yêu quý làm con của mẹ mình và do đó, làm huynh đệ của mình (19:26-27). Khi “giờ” của Người đã điểm (19:27; cũng xem 2:4), thân mẫu Đức Giê-su xuất hiện lần thứ hai và cũng là lần cuối cùng trong bộ Tin Mừng này. Thật là thích hợp khi thân mẫu Đức Giê-su được gắn mối liên hệ với người môn đệ mà Đức Giê-su yêu quý.

Miếng bọt biển thấm đầy giấm được đưa lên miệng Đức Giê-su bằng một nhành hương thảo (19:29). Điều này ám chỉ đến bó hương thảo dùng để rảy máu chiên Vượt Qua trong sách Xuất Hành đoạn 12:22. (Bản án tử của Đức Giê-su diễn ra vào giữa trưa, khoảng mười hai giờ trưa [19:14], chính là thời khắc mà các thượng tế bắt đầu giết các con chiên tế lễ Vượt Qua trong Đền Thờ.) Lời cuối cùng của Đức Giê-su (19:30: “Thế là đã hoàn tất.”) là một sự tương phản rõ rệt với tiếng kêu thảm thiết của Đức Giê-su trong trình thuật của thánh Mát-thêu và Mác-cô. Trong cảnh này thánh Gio-an đã tiên báo Lễ Hiện Xuống qua việc miêu tả Đức Giê-su để lại Thánh Thần. Trong dòng máu và nước chảy ra từ cạnh sườn Đức Giê-su (19:34), thánh Gio-an đã bi kịch hóa cái chết của Đức Giê-su (máu) và Thánh Linh (nước). Bởi vì Đức Giê-su giờ đây đã được tôn vinh, thì cũng đã đến lúc ban phát Thánh Linh xuống trên dân Người (xin xem Gio-an 7:38-39). Quyết định không đánh gãy xương Người (19:33) được minh họa qua một trích dẫn từ sách Xuất Hành đoạn 12:46 (19:36) vốn là một trong những đoạn nói về chiên lễ Vượt Qua.

SUY NIỆM: Chúng ta không quen nhìn ngày Thứ Sáu Tử Nạn như là ngày Lễ Hiện Xuống. Chúng ta thường muốn sống ngày Thứ Sáu đó trong một tâm trạng buồn rầu ủ rũ, một ngày dẹp bỏ hoàn toàn các niềm vui hay việc ăn mừng. Tin Mừng thánh Gio-an bảo chúng ta làm hoàn toàn ngược lại. Cái chết của Đức Giê-su là sự khai sinh của Giáo Hội bởi vì Đức Giê-su đã truyền thổi Thánh Linh vào cơ chế đó. Nước chảy ra từ cạnh sườn Đức Giê-su nhắc lại lời Đức Giê-su từng nói Người là nước hằng sống (Gio-an 7:37-38). Trước khi xảy ra cái chết của Đức Giê-su, các tín hữu không thể lãnh nhận Thánh Linh bởi vì Đức Giê-su chưa được tôn vinh. Trên đồi Can-vê, Đức Giê-su bước vào vinh quang của Người và vì thế làm khả dĩ sự hiện diện của Thánh Linh. Thứ Sáu Tử Nạn, do đó, là một ngày của niềm vui, chứ không phải buồn, ngày để hát câu al-lê-lu-ia, chứ không phải để than khóc.
Hình tượng Đức Giê-su của thánh Lu-ca cũng phải làm cho chúng ta kinh ngạc. Thường thì những khi bị tổn thương, bệnh tật, hay buồn phiền bực bội, chúng ta chỉ hay chú trọng vào nhu cầu và vấn đề của chính mình, mà quăng bỏ những nỗi lo lắng của tha nhân ra thật xa. Trong Tin Mừng thánh Lu-ca, Đức Giê-su đã bẻ gãy cái vòng luẩn quẩn ích kỷ chỉ biết nghĩ đến bản thân mình. Lời đầu tiên của Đức Giê-su Lu-ca là lời tha thứ: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (23:34). Rõ ràng là Người đã đặt những kẻ giết mình lên hàng đầu, còn bản thân mình ở vị trí thứ hạng. Trong đoạn đối thoại với kẻ được coi là tên trộm lành, Đức Giê-su Lu-ca đã cho thấy khả năng biết lắng nghe một con người đang run sợ, để mang lại cho anh ta niềm ủi an và làm cho anh ta yên lòng. Đức Giê-su Lu-ca dạy chúng ta biết hỏi câu hỏi đúng đắn. Không phải là câu: “Điều đó có lợi gì cho tôi?”, mà là “Điều đó có lợi gì cho anh?”. Chúng ta từ bỏ bản ngã mình khi biết nhìn đến nhu cầu của tha nhân và biết đáp ứng một cách thích hợp.

Chương 4
Mầu Nhiệm
Năm Sự Mừng
Phục Sinh

TRỌNG TÂM: Chia sẻ Lời Chúa có nghĩa là gì? Trong trình thuật Em-mau, Đức Giê-su mổ xẻ các văn bản Thánh Kinh Do-thái, giải thích ý nghĩa của chúng, và đưa ra sự liên quan giữa đau khổ / cái chết với vinh quang / phục sinh. Không có chi ngạc nhiên khi tim hai người lữ khách Em-mau bừng cháy. Chúng ta chia sẻ Lời Chúa khi tìm hiểu các từ ngữ trong văn bản và cố gắng lột trần ý nghĩa nguyên thủy. Tuy nhiên, chúng ta cũng chia sẻ Lời Chúa khi cố gắng tìm hiểu ý nghĩa văn bản trong bối cảnh thời đại hiện tại. Văn bản có sức sống riêng của nó. Chia sẻ trình thuật phục sinh nghĩa là nhấn mạnh cuộc trải nghiệm của một Đức Giê-su đã biến đổi. Đức Giê-su đã chinh phục sự chết, và qua việc đó, Người thách đố chúng ta trở nên những nhân tố làm kích thích sự biến đổi trong cuộc đời những người khác. Trong ý nghĩa đó, ngôi mộ trống có nghĩa là sự sống viên mãn.

Chúng ta đã trở nên quá quen thuộc với chữ “tông đồ” đến nỗi cảm thấy chữ đó chỉ thích hợp cho nam giới. Tuy nhiên, Tin Mừng thánh Gio-an đã mô tả bà Ma-ri-a Mác-đa-la, không phải chỉ là một người đã gặp gỡ Thiên Chúa phục sinh, mà còn là người đã đi báo Tin Mừng đó cho những người khác. Khi suy nghĩ về trình thuật phục sinh, chúng ta thấy rằng phụ nữ đóng vai chính trong mầu nhiệm vĩ đại này. Những người phụ nữ ở ngôi mộ trống đã loan báo hiện thực chính yếu trong biến cố này, đó là sự chết đã bị mất hút trong chiến thắng vinh quang.

THÁNH KINH: Lu-ca 24:1-53; Gio-an 20:1-29; xin cũng xem Mát-thêu 28:1-10; Mác-cô 16:1-20; 1 Cô-rin-tô 15:3-8

GIẢNG GIẢI: Phục sinh là một động thái vô cùng đặc biệt mà qua đó Thiên Chúa phục hồi và biến đổi vĩnh viễn con người Đức Giê-su (xin xem thư Ga-lát 1:1). Đây không phải là vấn đề hồi sinh hay cải tử hoàn sinh (được phục hồi sự sống nhưng rốt cuộc cũng sẽ phải chết trở lại), như trong trường hợp của La-da-rô. Khi phục sinh, Đức Giê-su chinh phục sự chết và trở lại bất tử trong quyền năng và vinh quang. Nên lưu ý là chúng ta không phải được cứu chuộc chỉ nhờ vào cái chết của Đức Giê-su mà thôi. Nhưng, chính là nhờ cuộc khổ nạn, sự tử nạn, sự phục sinh, và sự thăng thiên – tất cả cùng kết hợp lại thành một hành động bất khả phân ly cho ơn cứu chuộc chúng ta (xin xem thư Rô-ma 4:25). Sự phục sinh của Đức Ki-tô thể hiện, qua một cách tượng trưng và ẩn dụ, niềm hy vọng của chúng ta ở bên kia biên giới sự chết. Chắc chắn rằng, đó là cùng một Đức Giê-su người đã trở nên thần khí ban sự sống trong cuộc phục sinh của mình (1 Cô-rin-tô 15:45). Tuy nhiên, có một yếu tố khác biệt rõ ràng (Mác-cô 16:12: “một hình dạng khác”; xin cũng xem Gio-an 20:14; 21:4). Không có gì ngạc nhiên khi có cả một chuỗi phản ứng với hình ảnh Giê-su biến đổi này, từ niềm tin tức khắc cho đến những hành vi chống đối.
Trong trình thuật Em-mau (24:16-31), thánh Lu-ca nói về hai yếu tố chính: (1) phần tường thuật cuộc đối thoại (24:17-27), và (2) phần tường thuật bữa ăn (24:28-30). Đầu tiên, cuộc đối thoại ghi nhận hai người lữ khách trò chuyện với Đức Giê-su, nhưng cũng quan sát rằng cuộc trò chuyện đó nói đến một chuyện bi thảm (24:19-20). Tiếp đó (24:21), hai người lữ khách nói về hy vọng của họ. Và cuối cùng (24:22-23) họ nói về câu chuyện những người phụ nữ ra mộ đã kể lại. Đức Giê-su đáp lại (24:25-27) bằng cách giải thích các đoạn trong Sách Thánh, đặc biệt là đoạn nói về sự liên quan giữa khổ hình và vinh quang. Trong phần tường thuật về bữa ăn, vị khách lạ đã thực hiện những công việc của chủ nhà. Cách diễn tả việc chúc tụng, bẻ bánh, và trao bánh là chỉ về bí tích Thánh Thể. Đối với độc giả của thánh Lu-ca, Đức Giê-su vừa là khách vừa là chủ tại bữa ăn đó. Thánh Lu-ca gợi ý rằng những ai biết chia sẻ với người khác thì có thể tái khám phá Thiên Chúa Phục Sinh và nhờ đó lấy lại niềm tin đã đánh mất.

Trong đoạn Gio-an 20:1, bà Ma-ri-a Mác-đa-la là người đầu tiên đến mộ Đức Giê-su, có lẽ là cùng đi với vài phụ nữ khác. Khi thấy mộ trống không, bà liền chạy đi báo cho ông Si-môn Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su thương mến. Tuy nhiên, sau khi hai người nam môn đệ đã rời khỏi mộ, thánh Gio-an chú ý đến chi tiết bà Ma-ri-a ở lại mộ mà khóc (20:11). Sau đó bà cúi xuống nhìn vào bên trong mộ thì thấy hai thiên thần, thiên thần hỏi vì sao bà khóc (20:13). Lúc đó Đức Giê-su hiện ra, mặc dù ban đầu thì bà không nhận ra Người, cứ tưởng đó là người làm vườn (20:14-15). Khi Đức Giê-su gọi tên bà, bà đã đáp lại và gọi Người bằng “Ráp-bu-ni / Lạy Thầy” (20:16). Theo đoạn Gio-an 10:4, những con chiên nhận ra mục tử khi nghe tiếng mục tử gọi tên chúng. Bà Ma-ri-a quả thật là môn đệ của Đức Giê-su, bởi vì cái tên thốt ra từ miệng người-tưởng-là-người-làm-vườn đã tức khắc dẫn tới việc bà nhận ra Đức Giê-su. Ngay lúc đó Đức Giê-su truyền cho bà Ma-ri-a đi báo cho các môn đệ khác biết về tin phục sinh (20:17). Ma-ri-a thực hiện sứ mạng của mình, báo tin cho các môn đệ rằng: “Tôi đã thấy Chúa” (20:18). Khi thực hiện việc đó, bà Ma-ri-a đã hành động trong vai trò một tông đồ đi loan báo tin Đức Giê-su phục sinh cho các anh chị em của Người.

SUY NIỆM: Lúc đầu Đức Giê-su đã không đáp ứng được lòng mong đợi của hai lữ khách đường Em-mau. Đối với họ thảm họa ngày Thứ Sáu Tử Nạn đã xóa tan tành tất cả mọi hy vọng. Họ đã không tin nổi câu chuyện những người phụ nữ kể lại về sự phục sinh của Đức Giê-su. Nhưng Đức Giê-su đã bắt đầu nhắc lại rõ ràng những lời trong Sách Thánh cho họ để họ có thể nắm bắt mối liên quan giữa một bên là khổ hình và tử nạn, và một bên là sự phục sinh. Phản ứng của họ được ghi nhận một cách thật cảm động trong đoạn này: “Dọc dường, khi Người nói chuyện và giải thích Thánh Kinh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?” (Lu-ca 24:32).

Điều quan trọng, vì thế, là phải chia sẻ Lời Chúa. Dĩ nhiên chúng ta đã thực hiện việc này mỗi khi đọc Sánh Thánh và nghiền ngẫm xem tác giả ngày xưa muốn nói lên điều gì. Nhưng chúng ta cũng chia sẻ Lời Chúa khi cố gắng truyền đạt ý nghĩa đó trong thời đại hiện tại. Ví dụ như, chúng ta có thể kết luận một cách hợp lý là đoạn Tin Mừng Lu-ca này nói về việc tỏ lòng cởi mở hiếu khách đối với những khách lạ trong cộng đoàn chúng ta đang sống. Thế nhưng lòng hiếu khách có nghĩa rộng hơn là một bữa ăn. Lòng hiếu khách cũng có thể bao gồm việc mang lại niềm tin và sự an ủi đến với những người đang gặp hoạn nạn hay đau khổ. Lòng hiếu khách cũng có thể kể cả việc mở rộng hầu bao để cho cơm kẻ thiếu ăn và cho áo kẻ thiếu mặc. Mỗi lần có một con người cùng đường nào đó thấy được ánh sáng ở cuối đường hầm, thì Tin Mừng của vị khách lạ trên đường Em-mau lại được lan rộng ra và Đấng Phục Sinh lại hiện diện giữa chúng ta.

Trong các bộ Thánh Kinh, phụ nữ đóng một vai trò quan trọng trong việc loan báo sự phục sinh của Đức Giê-su. Nổi bật trong số những phụ nữ này là bà Ma-ri-a Mác-đa-la. Theo Mát-thêu 28:8 và Gio-an 20:18, bà đã hành động như một tông đồ. Bà là người đã gặp Thiên Chúa Phục Sinh và đã chia sẻ cuộc gặp gỡ đó với những người khác. Trong truyền thống Ki-tô giáo Tây phương, bà Ma-ri-a Mác-đa-la có danh hiệu “apostola apostolorum” - nữ tông đồ của các nam tông đồ. Khi suy niệm về đoạn Tin Mừng Gio-an này, chúng ta phải nhắm đến vai trò tông đồ của phụ nữ trong thời đại ngày nay. Những thông điệp tin mừng của họ phải được loan truyền để cả cộng đoàn có thể hưởng ơn ích từ những khả năng và tài năng của họ. Cộng đoàn Ki-tô hữu được mời gọi suy ngắm thái độ của nhân vật lịch sử Giê-su đối với phụ nữ, cũng như thái độ tôn trọng phụ nữ của thánh Phao-lô (xin xem thư Rô-ma 16). Những bà Ma-ri-a Mác-đa-la thời hiện đại phải nên sống động giữa chúng ta, bởi vì sự thật về Đức Chúa Phục Sinh đã được truyền tải cho chúng ta ít nhất một phần là nhờ sự chứng kiến và loan báo của các bà.


Thăng Thiên

TRỌNG TÂM: Cảnh Đức Giê-su thăng thiên trong Công Vụ Tông Đồ chương 1 mời gọi chúng ta dấn thân vào sứ mạng của Giáo Hội. Hai người đàn ông áo trắng cũng đặt câu hỏi đó với chúng ta: “… sao còn đứng nhìn trời?” (Công Vụ Tông Đồ 1:11). Qua bí tích Rửa Tội chúng ta trở nên không chỉ là người ngoài cuộc chỉ biết đứng ngó, mà là những tham dự viên cốt yếu trong đời sống Giáo Hội. Mừng Chúa Thăng Thiên có nghĩa là công nhận sứ mạng của chính chúng ta.

Như một phần trong toàn bộ mầu nhiệm khởi đầu từ cuộc thương khó cho đến Lễ Hiện Xuống, sự thăng thiên tượng trưng cho niềm hy vọng của chúng ta vượt khỏi biên giới sự chết. Đức Giê-su, người giờ đây đang tận hưởng thánh nhan Đức Chúa Cha bên tay hữu Người là hiện thân của niềm hy vọng đó. Chết không phải là tận cùng, mà chỉ là khởi đầu. “Hỡi tử thần, đâu là chiến thắng của ngươi? Hỡi tử thần, đâu là nọc độc của ngươi? (1 Cô-rin-tô 15:55). Sự thăng thiên mạnh mẽ nhắc nhở chúng ta rằng kết cục tối hậu của chúng ta là được thông phần trong vinh quang của Thiên Chúa Phục Sinh cùng với tất cả những người có lòng tin.

THÁNH KINH: Công Vụ Tông Đồ 1:3-11; xin cũng xem Mác-cô 16:19; Lu-ca 24:51; Gio-an 20:17; Ê-phê-xô 4:10; 1 Ti-mô-thê 3:16; Do-thái 4:14; 1 Phê-rô 3:21-22

GIẢNG GIẢI: Đối với đa số Ki-tô hữu, sự thăng thiên được hiểu là cảnh Đức Giê-su được đưa lên trời trên một đám mây bốn mươi ngày sau khi phục sinh. Tuy nhiên, con số bốn mươi chỉ là con số tượng trưng và không phải lúc nào cũng nên được hiểu theo nghĩa toán học. Thật vậy, trong những đoạn khác (Mác-cô 16:19; Lu-ca 24:51; Gio-an 20:17), Đức Giê-su lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha ngay trong ngày Phục Sinh. Các phân tích sau đây có thể giúp làm sáng tỏ sự phức tạp của các truyền thuyết. Được coi như là kết thúc sự xuất hiện trên trần thế của Thiên Chúa Phục Sinh, sự thăng thiên xảy ra một ít lâu sau khi Đức Giê-su sống lại, mà có lẽ đã được miêu tả cách tượng hình là được nâng lên. Xét về phương diện thần học, được coi như là sự trở về với Đức Chúa Cha của Đức Giê-su, hay vinh quang của Người bên hữu Thiên Chúa, sự thăng thiên là một phần thiết yếu trong cuộc phục sinh của Đức Giê-su. Vì thế, sau khi đã được tôn vinh trong sự phục sinh, Đức Giê-su xuất hiện như một Đấng đầy quyền năng tối cao (Mát-thêu 28:18; Lu-ca 24:26). Trong phương cách này sự thăng thiên muốn diễn tả giai đoạn phức tạp trong sự hiện diện ở thế gian của Đức Giê-su mà chúng ta xem là sự phục sinh, sự vinh quang, sự trở về với Cha, cùng với sự hiện diện luôn mãi trong lòng Giáo Hội qua Thánh Linh. Giai đoạn phức tạp này, kể cả cái chết của Đức Giê-su, được gọi một cách chính thức là Mầu Nhiệm Phục Sinh.

Đoạn Công Đồ Tông Vụ 1 là phần dàn dựng cho thần học của thánh Lu-ca. Thánh nhân đã nêu ra mối liên quan giữa Đức Giê-su và cộng đoàn mới bằng cách nhấn mạnh những điều Người dạy sau khi phục sinh. “Bốn mươi ngày” được dùng theo lối viết cổ xưa để chứng minh rằng những điều giảng dạy cho các môn đệ là chính thức và chân thật, nghĩa là, sau giai đoạn đó thánh nhân có thể lặp lại những giáo huấn của thầy mình. Giê-ru-sa-lem về sau sẽ là nơi Chúa Thánh Thần hiện xuống (1:4-5). Câu 6 là một lời đáp cho những ai đang mong đợi Đức Giê-su mau sớm trở lại lần thứ hai. Đó là vấn đề tiếp tục công việc xây dựng cộng đoàn dân Chúa mà không cần nghĩ tới thời giờ và kỳ hạn mà Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt. Câu 8 diễn tả những nỗ lực truyền giáo của cộng đoàn mới: Giê-ru-sa-lem, Sa-ma-ri, cho đến tận cùng trái đất. Trên nền tảng của các đoạn I-sai-a 49:6 và Công Vụ Tông Đồ 13:46-47, “tận cùng trái đất” chỉ sứ mạng truyền giáo cho dân ngoại.

Thánh Lu-ca là tác giả duy nhất kể lại hai cuộc thăng thiên khác nhau. Trong đoạn Lu-ca 24:51, Đức Giê-su được đem lên trời ngay trong ngày phục sinh; đoạn này chú trọng vào việc Đức Giê-su lên trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha. Tuy nhiên, cuộc thăng thiên trong Công Vụ Tông Đồ 1 chú trọng vào sứ mạng của Giáo Hội qua cách diễn đạt sự ra đi của Đức Giê-su là một hình thức quảng bá cho tương lai của cộng đoàn mới này. Tiếp sau sự hiện diện của Đức Giê-su trên dương thế, Giáo Hội giờ đây phải bắt đầu cuộc sống bình thường. Tuy nhiên, Giáo Hội luôn liên kết với Đức Giê-su do sự hiện diện của Chúa Thánh Thần.

SUY NIỆM: Cảnh thăng thiên trong Công Vụ Tông Đồ nói về sự dấn thân tham gia của chúng ta trong Giáo Hội. Cũng như các tông đồ, chúng ta không được cứ đứng quanh quẩn mà nhìn trời. Tất cả chúng ta được tạo dựng để trở thành những tham dự viên tích cực, đóng vai trò chủ yếu trong cộng đoàn tràn đầy Thánh Linh của Đức Giê-su. Sự tham gia đó bắt nguồn từ phép rửa tội mà chúng ta lãnh nhận, qua đó chúng ta trở nên những vương / hậu, thượng tế, và tiên tri. Chúng ta có được vinh quang vương giả bởi vì chúng ta là thành viên trong gia đình mở rộng của Đức Giê-su. Chúng ta thực hiện những công việc của hàng tư tế, ví dụ như, việc tích cực tham dự vào Thánh Lễ. Chúng ta có danh phận tiên tri, bởi vì Đức Giê-su đã ban sức cho ta để giải quyết những nhu cầu trong Giáo Hội, lúc thịnh vượng cũng như lúc gian nan. Trong chiều kích đó, thăng thiên là một lời mời mạnh mẽ để sống trọn những ơn ích và trách nhiệm mà chúng ta đã lãnh nhận từ bí tích rửa tội.

Nếu thấy rằng thăng thiên là một phần không thể thiếu trong tiến trình phức tạp bao gồm tử nạn - phục sinh - thăng thiên - ban Thánh Linh, chúng ta có thể hiểu rõ hơn tại sao Thứ Sáu Tử Nạn không phải là động thái cuối cùng của Thiên Chúa. Đó không phải là một sai lầm thảm hại, một thảm họa của số mạng, một kết thúc của những gì lẽ ra là tốt đẹp hơn. Sự chết trở nên điều kiện bắt buộc để được tái sinh trong vinh quang như Đức Chúa Cha đã nâng Đức Giê-su lên, đã biến đổi và đã ban quyền lực cho Người, và đón Người về ngự bên tay hữu mình. Cuộc thăng thiên này của Đức Giê-su cung cấp nền tảng cho niềm hy vọng của chính chúng ta sau khi chết. Chính chúng ta cũng ao ước được đi cùng một hành trình trong đó tử thần bị chôn vùi vào giờ chiến thắng (xin xem 1 Cô-rin-tô 15:54-55). Trong chừng mực đó, sự thăng thiên tăng sức mạnh và năng lực cho chúng ta để chúng ta tiếp tục tiến bước, với niềm hy vọng tràn trề, tới đích điểm sau cùng trong sự đồng hành của cả gia đình Ki-tô hữu.


Thánh Linh Hiện Xuống

TRỌNG TÂM: Đoàn kết, chứ không phải chia rẽ, là thành quả của Thánh Linh. Trong Công Vụ Tông Đồ 2 chúng ta biết rằng Lễ Hiện Xuống không gì khác hơn là biến chuyển ngược lại của Tháp Ba-ben. Đoạn này thách thức chúng ta biết nhìn sự Hiện Xuống như một hiện thực vẫn luôn tiếp diễn. Chúng ta trở nên tác nhân của Thánh Linh bằng cách góp phần biến đổi ghen ghét thành yêu thương, hận thù thành hòa hoãn.

Chúng ta cũng học được từ Tin Mừng thánh Gio-an là Đấng Bảo Trợ đảm đương nhiều việc khác nhau, chẳng hạn như, dạy dỗ và an ủi. Tuy nhiên, nếu Đấng Bảo Trợ có thể thực hiện hết những việc đó, thì chúng ta phải tham gia. Chính chúng ta được mời gọi để hít thở Thần Khí trong thế giới mong manh này. Chúng ta phải là những người-bảo-trợ của thời đại mới.

THÁNH KINH: Gio-an 14:15-17, 25-26; 15:18-27; 16:5-15; Công Vụ Tông Đồ 2:1-13; cũng xem Công Vụ Tông Đồ 4:23-31; 8:14-17; 10:44-49

GIẢNG GIẢI: Thánh Lu-ca mở đầu trình thuật Thánh Thần Hiện Xuống bằng cách nối kết sự việc đó với sự thực hiện lời hứa của Đức Giê-su trong đoạn Lu-ca 24:49 và Công Vụ Tông Đồ 1:4-5, đó là, ban Thánh Thần xuống. Lễ Ngũ Tuần, thưở xa xưa là một lễ hội mùa màng nhưng về sau là lễ đánh dấu việc ông Mô-sê lãnh nhận Mười Điều Răn trên núi Xi-nai. Trong trình thuật Lu-ca, Lễ Ngũ Tuần có nghĩa là sự khởi đầu sứ mạng truyền giáo cho cả thế giới để xóa bỏ hết những hố ngăn cách giữa loài người với nhau, một sứ mạng do Thánh Linh làm động lực thúc đẩy.

Lửa và tiếng động lớn liên quan đến việc thiết lập giao ước trên núi Xi-nai (Xuất Hành 19:16, 18). Cái danh sách đủ mọi sắc dân Do-thái và dân đạo theo (dân ngoại cải đạo sang Do-thái giáo, những người này chấp nhận việc cắt bì), cũng như cách sử dụng những từ “xáo trộn” và “phân tán”, đã liên hệ Lễ Hiện Xuống với Tháp Ba-ben (Sáng Thế 11:7, 9; Đệ Nhị Luật 32:8). Nhưng ở đây thì kết quả vô cùng trái ngược: sự đoàn kết, chứ không phải sự xáo trộn, đã diễn ra. Lời nhận xét trong câu 13 rằng các tông đồ đã bị say rượu gợi ra bối cảnh ban đầu của việc nói nhiều thứ tiếng khác nhau. Rất có thể thánh Lu-ca đã chuyển đổi những câu nói lộn xộn đó thành việc nói những thứ tiếng hay ngôn ngữ khác. Chính hồng ân này của Chúa Thánh Linh đã khai mở Giáo Hội, thúc đẩy Giáo Hội bắt tay vào việc rao giảng cho toàn thế giới.

Trong Tin Mừng thánh Gio-an, từ ngữ “đấng bảo trợ” có nhiều tầng ý nghĩa khác nhau, tương ứng với nhu cầu của cộng đoàn Ki-tô hữu qua mọi thời đại, kể từ thời điểm Đức Giê-su ra đi đến lúc Trở Lại Lần Thứ Hai của Người. Ý nghĩa đầu tiên của “đấng bảo trợ” là “đấng ủi an”. Trong đoạn Gio-an 14:16, Đức Giê-su hứa sẽ ban cho các môn đệ một đấng bảo trợ khác (còn được gọi là “đấng bênh đỡ”). Đức Giê-su là Đấng Bảo Trợ đầu tiên, Thánh Linh là Đấng Bảo Trợ thứ hai, người tiếp tục công trình của Đức Giê-su. Hơn nữa, Thánh Linh sẽ không phải chỉ ở “với” các môn đệ mà còn ở “trong” họ (Gio-an 14:17) để củng cố đức tin của họ và để an ủi họ khi phải đương đầu với hết vấn đề này tới vấn đề khác. Ý nghĩa thứ hai của “đấng bảo trợ” là “người dạy dỗ” hay “người hướng dẫn”. Trong đoạn Gio-an 14:26, Đấng Bảo Trợ sẽ dạy các môn đệ mọi điều và nhắc cho họ nhớ lại mọi điều mà Đức Giê-su đã dạy họ. Nhờ đó những điều do Đức Giê-su khởi sự sẽ không bị bất thình lình ngưng lại. Đấng Bảo Trợ sẽ làm hoàn toàn sáng tỏ sự quan trọng của những giáo huấn Đức Giê-su đã dạy. Trong vai trò người hướng dẫn, Đấng Bảo Trợ sẽ hành động phù hợp với giáo huấn của Đức Ki-tô nhưng sẽ còn đi xa hơn nữa (Gio-an 16:13). Bằng cách này, Đấng Bảo Trợ sẽ triển khai thông điệp của Đức Giê-su.

Ý nghĩa thứ ba của “đấng bảo trợ” là “chứng nhân”. Các môn đệ sẽ gặp phải sự chống đối, thù ghét của thế gian, cũng y như Đức Giê-su từng bị chống đối, thù ghét vậy. Trong Tin Mừng Gio-an sự chống đối này có hình thức là sự chối bỏ Đức Giê-su và thông điệp của Người. Tuy nhiên, Đấng Bảo Trợ đến nâng đỡ các tông đồ đang bị cô lập bằng cách làm chứng nhân cho Đức Giê-su. Đấng Bảo Trợ công nhận sự thành công của sứ mạng và vai trò Đức Giê-su, qua đó thúc đẩy các tông đồ cũng tự mình làm chứng cho biến cố thập tự (Gio-an 15:26-27).

Ý nghĩa thứ tư của “đấng bảo trợ” là “luật sư”. Trong đoạn Gio-an 16:8, Đấng Bảo Trợ hành động như một công tố viên. Từ đó Người chứng minh những kẻ chống đối là sai lầm và Đức Giê-su là đúng đắn. Qua việc phơi bày tội phạm thật sự (tội lỗi, thủ lãnh thế gian), bản chất thật sự của tội lỗi (không tin vào Đức Giê-su), và sự thắng thế của Đức Giê-su (Gio-an 16:9-11), Đấng Bảo Trợ đoan chắc với các tông đồ là ngay cả họ cũng có thể chống cự mọi nguy nan và canh tân chính mình.

SUY NIỆM: Trong trình thuật của thánh Lu-ca về Lễ Hiện Xuống đầu tiên của Ki-tô giáo, chúng ta dễ dàng nhận thấy sự chuyển ngược của Tháp Ba-ben. Theo Sáng Thế 11:1-9, loài người thưở ban đầu chỉ nói cùng một thứ tiếng, nhưng lòng kiêu căng ngạo mạn đã dẫn họ tới chỗ phân tán, không thể hiểu được nhau. Nhiều loại ngôn ngữ khác nhau có nghĩa là họ bị phân tán trên khắp mặt địa cầu. Thay vì kết hợp, họ bị chia rẽ. Đối với thánh Lu-ca, Lễ Hiện Xuống chính là sự đảo ngược tình thế của Tháp Ba-ben. Một ngôn ngữ A-ra-ma-it giờ đây được nghe hiểu bởi một tập thể đủ mọi sắc dân không nói tiếng A-ra-ma-it. Thay vì chia rẽ, họ được kết hợp, một sự đoàn kết có nền tảng trên động lực của Chúa Thánh Thần.

Cảm nhận về Lễ Hiện Xuống thách đố chúng ta làm tác nhân của sự đoàn kết, và từ đó, sự hòa hợp. Sự chia rẽ có nhiều hình thức: trong gia đình, trong giáo hội, trên trường quốc tế, vân vân. Nỗ lực đầu tiên của chúng ta có lẽ phải bắt đầu từ trong chính gia đình và cộng đoàn mình. Khi giúp những thành viên đang bất hòa trong gia đình chịu nhìn mặt nhau trở lại, chúng ta là tác nhân của Chúa Thánh Thần. Khi phân giải những khác biệt và đối chọi trong cộng đoàn ở địa phương, kể cả trong giáo xứ, chúng ta là tham dự viên trong Lễ Hiện Xuống vẫn luôn tiếp diễn. Chúng ta phải mừng Lễ Hiện Xuống mỗi ngày, không chỉ mỗi một lần trong năm mà thôi (xin xem Công Vụ Tông Đồ 4:23-31; 8:14-17; 10:44-49).

Những vai trò khác nhau của Đấng Bảo Trợ trong Tin Mừng thánh Gio-an phải là trọng tâm trong đời sống chúng ta. Không như Đức Giê-su bằng xương bằng thịt, Đấng Bảo Trợ, cầu nối giữa Đức Giê-su và Giáo Hội, là vô hình. Nếu như Đấng Bảo Trợ sẽ an ủi, chỉ dạy, hướng dẫn, làm chứng, và truy tố, thì chỉ những người mà Đấng Bảo Trợ ngự đến mới có thể thực hiện những sứ vụ này. Chúng ta không bị đòi hỏi phải cáng đáng hết tất cả mọi sứ vụ đó. Trái lại, chúng ta được mời gọi để xem xét những khả năng riêng biệt của mình và khám phá những sứ vụ nào mà mình có thể gánh vác. Khi làm như vậy, chúng ta mở tràn nguồn Thần Khí để làm cho Lễ Hiện Xuống trở thành một hiện thực mãi mãi tiếp diễn. Đấng Bảo Trợ và những tín hữu tràn đầy Thần Khí kết hợp chặt chẽ với nhau như găng liền với tay.


Đức Ma-ri-a lên trời

TRỌNG TÂM: Rất nhiều khi mầu nhiệm Đức Ma-ri-a lên trời tạo nên một cảm giác vô cùng kinh ngạc thán phục mà qua đó chúng ta tách rời Thân Mẫu Đức Giê-su ra khỏi thế giới này. Chúng ta có thể có khuynh hướng (ít nhất là vô thức) tránh xa khỏi Đức Ma-ri-a bởi vì Mẹ thuộc một tầng lớp riêng biệt, hoàn toàn cách biệt khỏi hoàn cảnh “thực tế” của chúng ta. Tuy nhiên, thật ra thì mầu nhiệm này lại đem chúng ta đến gần hơn với mối liên hệ gia đình mà chúng ta cùng có chung với Đức Ma-ri-a và Con Mẹ. Trong việc được rước lên trời, Mẹ kết hợp với Đức Giê-su và gia đình rộng mở của Người. Sự lên trời đó có nghĩa rằng Mẹ thông phần trong biến cố phục sinh của Con Mẹ. Cũng như Đức Giê-su, Mẹ đã tham dự vào tiến trình biến đổi mà qua đó chúng ta được cứu chuộc hoàn toàn và vĩnh viễn. Trong cách này Mẹ là hiện thân cho niềm hy vọng được cứu chuộc vĩnh viễn của chúng ta, không chỉ về phần linh hồn, mà còn về phần xác nữa. Khi thông dự vào cuộc phục sinh của Đức Giê-su, người mở đường và là người đầu tiên từ cõi chết sống lại, Mẹ tượng trưng cho hy vọng cho tất cả chúng ta.

THÁNH KINH: 1 Cô-rin-tô 15:35-49 

GIẢNG GIẢI: Theo Tín Điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời do Đức Pi-ô XII tuyên bố trong Tông Hiến Munificentissimus Deus (Thiên Chúa Vô Cùng Khoan Nhân) vào năm 1950, Đức Ma-ri-a, sau khi hoàn tất cuộc sống trần gian, đã được đưa về trời cả hồn và xác để hưởng vinh quang vĩnh cửu. Tài liệu này đã không nói gì rõ ràng về câu hỏi liệu Đức Ma-ri-a có “chết” theo nghĩa thông thường hay không, và cũng không nói gì về thời điểm và cách thức Đức Ma-ri-a được đưa về trời. Một điểm tích cực trong Tín Điều này là các tín hữu sẽ có một kết thúc vinh quang, không phải chỉ về phần linh hồn, mà cả về phần xác nữa. Trong ý nghĩa đó sự lên trời của Đức Ma-ri-a rõ ràng là dấu chỉ hy vọng của nhân loại. Giáo Hội thấy trong sự kiện Đức Ma-ri-a được rước về trời chính tương lai và vận mạng của mình về việc thân xác sống lại.
Ý tưởng Đức Ma-ri-a được rước về trời có liên quan với việc Mẹ đã đứng trước thánh nhan Thiên Chúa, chẳng hạn như, trong cảnh truyền tin khi Mẹ đón nhận thông điệp của Thiên Chúa qua lời sứ thần và cảm nhận quyền năng của Đấng Tối Cao rợp bóng trên mình. Vai trò của Mẹ như một đấng chuyển cầu có một phần nền tảng từ tiệc cưới Ca-na (Gio-an 2:5) và cũng ít nhiều mang nét tương tự như vai trò chuyển cầu của các ông Mô-sê (Xuất Hành 32:11-14), Sa-mu-en (Giê-rê-mi-a 15:1), và Giê-rê-mi-a (Giê-rê-mi-a 15:11). Mối liên hệ của Mẹ với các môn đệ của Đức Giê-su cũng được thấy qua sự hiện diện của Mẹ trên đồi Can-vê (Gio-an 19:25-27) và qua sự tham dự cầu nguyện với Nhóm Mười Một, vài phụ nữ, và các anh em của Đức Giê-su trước khi Thánh Thần hiện xuống (Công Vụ Tông Đồ 1:14). Mặc dù không có những chứng cớ minh nhiên trong các Sách Thánh về việc Đức Ma-ri-a được đưa lên trời, có một cách để hiểu tín điều này qua ánh sáng những giải thích của thánh Phao-lô về việc thân xác sống lại.

Một số người trong giáo đoàn Cô-rin-tô của thánh Phao-lô đã cho rằng thân xác thì không có ý nghĩa gì về mặt tâm linh. Đối với các tín hữu đó, chỉ có linh hồn mới đáng kể. Họ kết luận rằng, bởi vì thân xác không quan trọng trong cuộc đời trần thế, thì không có lý do gì để dựng nó dậy sau khi đã chết. Trong đoạn này của thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô đã chứng minh tầm quan trọng trung tâm của thân xác. Chối bỏ tầm quan trọng đó là chối bỏ chiều kích hóa thân làm người phàm trong thông điệp của Đức Giê-su.

Ở đoạn này trong thư Cô-rin-tô, thánh Phao-lô nói rất kỹ về những đặc tính của thân xác phục sinh bằng cách liên hệ nó với thân xác phục sinh của Đức Giê-su. Thánh Phao-lô bắt đầu bằng lời bình luận về sự sống của cỏ cây. Cái chồi nẩy lên từ hạt giống cũng là một thực thể, nhưng thực thể đó có một cốt lõi thân xác bản thể khác hẳn với thân xác con người. Thiên Chúa là người định đoạt hình thể sau hết của bản thể loài cỏ cây thực vật. Tuy nhiên, không ai có thể đồ đoán ý định của Thiên Chúa từ hình thể của bản thể hạt giống, nhất là khi nhiều hạt giống đó trông rất giống nhau.

Thánh Phao-lô tiếp tục lý luận bằng cách nêu lên rằng những từ ngữ “xác thịt”, “thân xác”, và “vinh quang” không giữ nguyên ý nghĩa khi được áp dụng vào những loại hình thể khác nhau của “xác thịt”, “thân xác”, và “vinh quang”. Chẳng hạn như, “xác thịt” của một con người thì khác xa “xác thịt” của một con vật. Sau khi đã nhận xét như thế, thánh Phao-lô tiếp tục nói về thân xác phục sinh bằng cách so sánh sự đối nghịch giữa “trước” (thân xác hiện tại) và “sau” (thân xác phục sinh). Trong khi thân xác hiện tại thì có thể hư nát, ô uế, yếu đuối, và có tính chất thể lý, thân xác phục sinh lại là bất diệt, vinh quang, mạnh mẽ, và có tính tâm linh. Tất cả những ai ở trong Chúa (2 Cô-rin-tô 3:18) đều sở hữu “vinh quang” theo một cách chưa trọn vẹn, nhưng trong thân xác phục sinh họ sẽ hoàn toàn tận hưởng niềm vinh quang đó.

Để cho lập luận của mình về thân xác phục sinh được vững chắc hơn, thánh Phao-lô đã dùng trải nghiệm của chính Đức Giê-su. Thánh nhân nói về một A-đam đầu tiên trong sách Sáng Thế, đoạn 1:1-2:25, có tính thể lý, tự nhiên, và so sánh tương phản hình tượng A-đam đó với A-đam cuối cùng, đó là, Đức Ki-tô. Đối với thánh Phao-lô, A-đam cuối cùng này mang tính loài người, như ý định của Thiên Chúa từ lúc khởi nguyên khi dựng nên con người. Trong khi A-đam thứ nhất là một hữu thể có sinh khí, thì A-đam cuối cùng là hữu thể thần khí ban sự sống. Thánh Phao-lô kết luận bằng cách ghi nhận là, cũng giống như chúng ta mang hình ảnh của một ông A-đam trần thế, chúng ta cũng sẽ mang hình ảnh của A-đam thiên quốc. Nói một cách khác, chúng ta cũng sẽ sở hữu một thân xác phục sinh giống như Đức Ki-tô.

SUY NIỆM: Chúng ta cứ luôn nghĩ rằng sự kiện được đưa lên trời là một đặc ân cá nhân của chỉ riêng một mình Đức Ma-ri-a. Chúng ta có khuynh hướng phân cách Đức Ma-ri-a khỏi Đức Giê-su và các anh chị em của Người. Tuy nhiên, theo thánh Phao-lô, sự lên trời của Đức Ma-ri-a phải được bắt rễ từ sự phục sinh của chính Đức Giê-su. Thánh Phao-lô đã gọi Đức Giê-su là “người mở đường / hoa quả đầu mùa cho những ai đã an giấc ngàn thu”. Hình ảnh người mở đường / hoa quả đầu mùa gợi ý rằng nguyên cả mùa gặt / toàn thể nhân loại cũng sẽ được hiến tế. Vì thế sự phục sinh của Đức Giê-su gói trọn tất cả mọi tín hữu. Tác giả thư Cô-rin-tô miêu tả Đức Giê-su là “trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại” (Cô-lô-xê 1:18). Với cách diễn tả này tác giả hiểu Đức Giê-su là tuyệt đỉnh của toàn thể tiến trình tạo dựng mới. Một cách ngắn gọn, sự phục sinh của Đức Giê-su là khuôn mẫu cho tất cả mọi tín hữu.

Trong bối cảnh này chúng ta phải nhận thấy Đức Ma-ri-a hoàn toàn thông dự vào tiến trình biến đổi của Con Mẹ. Khi được đưa về trời, Đức Ma-ri-a liên kết không chỉ với Đức Giê-su, mà còn với chúng ta, gia đình mở rộng của Người. Bởi vì trong cuộc đời dương thế Mẹ đã liên kết với gia đình của các môn đệ Đức Giê-su, khi về trời Mẹ cũng vẫn còn liên kết với chúng ta như một tuyệt mẫu của niềm hy vọng. Việc Mẹ được đưa về trời tượng trưng cho đích điểm sau cùng của cả cộng đoàn tín hữu. Hoàn toàn không phải chỉ là một đặc ân cá nhân, việc Đức Ma-ri-a được đưa về trời còn là gia sản chung của Giáo Hội.

Chúng ta có khuynh hướng cứ luôn tưởng tượng thiên đàng vào ngày sau hết là một nơi chốn được rào chắn riêng biệt, trắng như ngọc trai, trong đó toàn là những linh hồn không có thể xác. Tuy nhiên, việc Đức Ma-ri-a hồn xác lên trời mạnh mẽ nhắc nhở chúng ta là sự vinh quang của thân xác phục sinh của Đức Giê-su cũng ảnh hưởng lên thân xác của chúng ta nữa. Vì thế, trong ngày sau hết, thiên đàng không phải chỉ là một chốn tập hợp các linh hồn. Một cách khác để diễn tả điều này là việc Đức Mẹ lên trời cả hồn lẫn xác đã chứng minh sự cao trọng của thân xác con người. Vận mạng sau cùng của thân xác chúng ta – những thân xác đã được rửa trong bí tích Thanh Tẩy, nuôi dưỡng trong bí tích Thánh Thể, và củng cố trong bí tích Thêm Sức - là sẽ được trải qua sự biến đổi như thân xác phục sinh của Đức Giê-su. Đức Ma-ri-a được đưa lên trời không chỉ phần hồn mà cả phần xác nữa. Do đó, Mẹ tỏa chiếu nơi toàn bộ bản thể của mình (thân xác và linh hồn) vinh quang của “trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại” (Cô-lô-xê 1:18). Tôn kính Đức Ma-ri-a hồn xác lên trời cũng là mong chờ bến đỗ sau cùng của chính chúng ta, một bến đỗ được đặt nền tảng trên Đấng “mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu” (1 Cô-rin-tô 15:20).


Đức Ma-ri-a được tôn phong làm Nữ Vương Trời Đất

TRỌNG TÂM: Nói đến cuộc tấn phong Đức Ma-ri-a làm Nữ Vương Trời Đất là công bố mối liên kết giữa Mẹ với tất cả anh chị em của Đức Giê-su. Trong chương 12 của sách Khải Huyền, Mẹ được nối kết với hậu duệ mình, những người phải tiếp tục chịu đựng các mưu mô tấn công của Con Mãng Xà. Ở đâu có Đức Ma-ri-a, ở đó cũng có gia đình mở rộng của Con Mẹ. Tôn vinh Đức Ma-ri-a lên hàng Nữ Vương là công nhận vai trò hiền mẫu của Mẹ trong việc bảo vệ và che chở cho gia đình đó. Đây là một Nữ Vương không bao giờ chối bỏ những nhu cầu và những nỗi lo toan hằng ngày của các anh chị em của Con Mẹ.

Đoạn Khải Huyền này nhắc nhở chúng ta phải biết nhìn xa hơn Đế Quốc La-mã và sự đe dọa của nó với hoàn cảnh của chính chúng ta. Cũng như các độc giả Khải Huyền, chúng ta cũng hay nghiêng về xu hướng trần tục luôn thèm khát quyền uy thế lực. Nhà tiên tri trong sách Khải Huyền thúc giục chúng ta từ bỏ tất cả những giá trị thế gian nào trái ngược với Tin Mừng. Nói cho cùng thì chúng ta phải biết đặt lòng trung thành đúng nơi đúng chỗ và biết lựa chọn những ưu tiên đúng đắn.

THÁNH KINH: Khải Huyền 12:1-17

GIẢNG GIẢI: Sách Khải Huyền thuộc vào thể loại mặc khải. Đó là một hình thức văn thể mặc khải được dàn dựng trong khuôn khổ những câu chuyện kể trong đó một thực thể siêu nhiên truyền đạt những mặc khải cho một thực thể nhân sinh. Trong trường hợp này Đức Giê-su truyền đạt thông điệp cho một thiên thần và thiên thần truyền lại cho thánh Gio-an. Đặc điểm của văn thể này là việc sử dụng rất phong phú các biểu tượng. Văn thể này cũng hay chú trọng vào những thời điểm khủng hoảng. Ở đây cuộc khủng hoảng là Đế Quốc La-mã, đặc biệt với sự sùng bái hoàng đế và hoàng tộc trong thời đại của hoàng đế Đô-mi-ti-a (81-96 sau Công Nguyên). Đối với tác giả, hệ thống giá trị của Đế Quốc La-mã là “kẻ thù số một của công chúng”, bởi vì hệ thống đó tìm cách lôi cuốn Ki-tô hữu xa rời khỏi hệ thống giá trị của Đức Giê-su. Khải Huyền căn bản là một viễn kiến về niềm hy vọng, bởi vì chiến thắng đã thật sự đạt được trên thập giá. Nhiệm vụ của Ki-tô hữu, vì thế, là phải kiên tâm bền vững trong đức tin của mình.

Trong đoạn Khải Huyền 12:1-17, câu chuyện được chia thành ba phần. Phần thứ nhất (12:1-6) diễn ra trên trời và bao gồm người nữ, con mãng xà, và đứa con của người nữ. Phần thứ hai (12:7-12) khởi sự từ trên trời, rồi chuyển biến xuống đất, với thiên thần Mi-ca-en và con mãng xà là hai nhân vật đối nghịch. Phần thứ ba (12:13-17) diễn ra dưới đất, bao gồm con mãng xà, người nữ, và đứa con của bà.

Người nữ trong câu chuyện này là ai? Giải thích có lý nhất là người nữ đó chính là sự nhân cách hóa Ít-ra-en, dân Chúa trong Cựu Ước. Tuy nhiên, trong khuôn khổ Ki-tô giáo, người nữ đó là Giáo Hội, dân Chúa trong Tân Ước.

Cuộc hạ sinh Đấng Thiên Sai không nên chỉ giới hạn trong địa phương Bê-lem mà thôi. Trái lại, sự hạ sinh đó được coi là khởi đầu công cuộc cứu chuộc của Đấng Thiên Sai. Việc đứa trẻ khi sinh ra được đưa ngay lên Thiên Chúa và lên ngai của Người không ám chỉ sự phục sinh và thăng thiên của Đức Giê-su. Thay vào đó, chi tiết này nhấn mạnh sự bảo vệ Đấng Thiên Sai. Mặc dù con mãng xà đã bị đánh bại trên trời, trận chiến vẫn còn ác liệt tiếp diễn dưới đất. Vì vậy cảnh này kêu gọi con cái của người nữ ở thế gian phải luôn luôn bền lòng vững chí.

Tuy dù trong đoạn này ý nghĩa chính của nhân vật người nữ là Giáo Hội, hay nói rõ hơn, là dân Chúa trong Tân Ước, một ý nghĩa phụ nói về Đức Ma-ri-a, Mẹ Thiên Chúa, là điều rất khả dĩ. Nguyên do của sự khả dĩ này là việc về sau này sách Khải Huyền đã được xếp chung vào bộ Thánh Kinh Tân Ước. Khi những hình ảnh của Đức Ma-ri-a trong Tin Mừng Lu-ca / Công Vụ Tông Đồ và Tin Mừng Gio-an được nhìn song song với hình ảnh của người nữ trong đoạn Khải Huyền 12, chúng ta ít nhất cũng có thể nhận ra là những hình ảnh đó khả dĩ bổ sung cho nhau.

SUY NIỆM: Điều tối quan trọng là Đức Ma-ri-a phải được đặt trong bối cảnh của toàn thể dân Chúa. Đoạn Khải Huyền này đã nắm bắt được tầm quan trọng của người nữ trong mối tương quan với hậu duệ của bà, những người phải tiếp tục chịu đựng các mưu mô tấn công của Con Mãng Xà. Nói về cuộc tấn phong Đức Ma-ri-a và ngôi vị Nữ Vương có nghĩa là phải hiểu người nữ này liên kết chặt chẽ với những anh chị em của Đức Giê-su từ trong bản chất. Mầu nhiệm này bảo đảm là tất cả chúng ta đều liên kết với nhau. Thiên Đàng không bao giờ là một hàng người xếp dọc lỏng lẻo. Trái lại, đó là hình ảnh của một gia đình rộng lớn trong đó các thành viên tiếp sức cho nhau. Ở đâu có Đức Ma-ri-a, ở đó cũng có anh chị em của Đức Giê-su.

Mặc dù các tác giả Tin Mừng khác vẽ bức tranh chính quyền dân sự với những màu sắc tích cực hơn (xin xem Thư Rô-ma 13:1-7; 1 Thư Phê-rô 2:13-17), tác giả Khải Huyền đã không thấy gì hơn là tội lỗi trong Đế Quốc La-mã. Một đế chế như vậy là kẻ thù không đội trời chung của những người theo Đức Giê-su, bởi vì những giá trị cốt lõi của đế chế đó đi ngược lại với những giá trị của Tin Mừng. Thái độ đó khiến chúng ta phải dừng lại ngẫm nghĩ. Hằng ngày chúng ta phải tiếp cận với thánh kinh của những giá trị Hoa Kỳ mà thường là đầy mùi tôn thờ quyền uy, thế lực, và của cải vật chất. Vị tiên tri trong sách Khải Huyền thách đố chúng ta biết suy xét những nguyên lý nền tảng trong thánh kinh đó và biết khám phá những phương diện mà thánh kinh đó đối nghịch với Tin Mừng của Đức Giê-su. Điều này không có nghĩa là bắt buộc phải trốn chạy khỏi thế gian. Ngược lại, thử thách của chúng ta là biết quyết định xem cuối cùng mình sẽ nghiêng theo phe nào. Trong chừng mực đó, thông điệp của Khải Huyền vẫn mãi mãi hợp thời.


ht. Cám ơn  Em MỸ HẠNH đã gửi cho chị  bản Gốc trên đây để chị đăng blog. 

Thứ Năm, 1 tháng 1, 2015

LỜI NGUYỆN ĐẦU NĂM


Lạy Chúa,
hôm nay mở đầu một năm mới,
con xin dâng lời ngợi khen, tôn vinh, cảm tạ Chúa 
vẫn luôn ngày qua ngày làm vô vàn phép lạ trên địa cầu,
trong không trung, 
giữa các hành tinh, 
từng cuộc đời dù nhỏ bé nhất
và trong tâm hồn mỗi người chúng con.
Đối với con, tất cả mọi sự hiện hữu đều là phép lạ của Chúa.
Bàn tay Chúa nhiệm mầu ,
Xót thương nhân loại, Chúa nhào nặn, uốn nắn, răn dạy rồi ủ ấp  dấu yêu.
Thế này, thế khác, ai lắng nghe, mềm dẻo, tin kính, 
sẽ dễ dàng nhận ra Bàn Tay Tòan Năng Nhiệm Mầu của Chúa.
Con muốn cám ơn Chúa ở từng hơi thở , ở từng tích tắc đi qua.
Ước chi mọi người đều nhận ra Chúa hiện diện bên mình, quanh mình và trong mình , khi ấy thế giới sẽ  không còn chiến tranh nữa.
Ước gì con thực hiện điều  ước đó trong cuộc sống của chính con.
Xin Chúa dạy bảo và hướng dẫn con, xin Chúa sáng soi mỗi điều con suy nghĩ, mỗi việc con làm, 
mỗi nhịp tim con đập, thổn thức hay vui mừng,
để trong mọi sự  con đều thực hiện Ý Chúa . Amen.
Deo Gratias.
ht.

Thứ Tư, 31 tháng 12, 2014

NHỮNG GIÂY PHÚT CUỐI NĂM

Cảnh nhà thờ sau Lễ cuối năm.
Nhìn vào lịch góc cuối màn hình, hôm nay là ngày 31.12.2014, lúc này là 7.42 PM., nghe vương vấn bồi hồi, chỉ còn vài tiếng đồng hồ nữa là thế giới bước sang năm Mới, năm 2015.
 Mới hôm nào 2011, đi thăm cái Nhàn nằm ở bảo sanh viện, giờ  em Si đã lên 3. 
Em Si lên 3

Mới hôm nào 2011, chưa biết blog là cái gì, hôm nay đã đăng được gần ngàn bài, không kể đã bỏ đi rất nhiều bài vớ vẩn, chả đáng lưu.
Thời gian vụt nhanh quá, mới hôm nào 2012, cả và thiên hạ chuẩn bị tận thế đến nơi, nay đã sắp 2015, mọi người lại chuẩn bị mừng Năm Mới, Happy Newyear vui vẻ vô lo quên chết.
Từ chiều đã suy nghĩ đăm chiêu lung khi nhận ra sắp sửa là những giây phút cuối năm, ta phải làm gì bây giờ, ấy là phải đi Lễ để cám ơn Chúa một năm qua cho con, cho thân quyến con an lành, khỏe mạnh.
 Nhà thờ không đông lắm, có thể chụp ảnh, nhưng Lễ xong thì trời tối sầm, đèn Noel lấp lánh muôn màu khắp nơi, chụp ảnh không đẹp, kệ, chụp mấy cảnh đông người, chia sẻ với MN, gọi là đối lại với cảnh vắng teo bên Mỹ, MN. gửi cho xem.
Thế thôi ! Lúc này chỉ muốn đọc một vài trang sách cho lòng lắng đọng.Mình nghĩ về Chúa, nghĩ về người này người kia, nghĩ về những vui buồn đắp đổi những tháng ngày qua. Và mình hài lòng. Con xin cám ơn Chúa về tất cả những gì Chúa đã ban cho con trong năm qua. Xin Chúa chúc lành cho con và gìn giữ con được luôn bình an. Con phó thác đời con trong tay Chúa. 
 "Con luôn nhớ có Ngài trước mặt, được Ngài ở bên chẳng nao núng bao giờ" (Tv 15,8)
Sau Lễ viếng đài Thánh Giuse
Hang đá núi Đức Mẹ