#Stats1 ul{margin:0;border:0;padding:0;height:32px;background:url(//goo.gl/ZHG881) no-repeat 0 -34px} #Stats1 li{margin:10px 0;border:0;padding:0 0 0 40px;list-style-type:none} #totalComments{height:32px;background:url(//goo.gl/ZHG881) no-repeat} #totalCount{height:32px;background:url(//goo.gl/ZHG881) no-repeat 0 -68px}
Hiển thị các bài đăng có nhãn Cha Hậu. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Cha Hậu. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 13 tháng 12, 2014

Bài 10 : LUẬT PHẢI VÌ CON NGƯỜI


                           
Bài 10 Giáo Lý Dự Tòng của cha Pio Ngô Phúc Hậu
Audio Nguyễn Công Đạt 

Bài 9 : NGƯỜI NGOẠI

   



Bài 9 Giáo Lý Dự Tòng của Cha Pio Ngô Phúc Hậu
Audio Nguyễn Công Đạt

Thứ Sáu, 12 tháng 12, 2014

Bài 8 : DẤU THÁNH GIÁ (tt)


                           
Bài 8 Giáo Lý Dự Tòng của cha Pio Ngô Phúc Hậu
Audio Nguyễn Công Đạt

Bài 7 : THÁNH GIOAN - DẤU THÁNH GIÁ


                          
  Bài 7 Giáo Lý Dự Tòng của cha Pio Ngô Phúc Hậu                                                    Audio Nguyễn Công Đạt 

Bài 6 : CHUYỆN GIUSE



Bài 6 Giáo Lý Dự Tòng của cha Pio Ngô Phúc Hậu
Audio : Nguyễn Công Đạt

Thứ Bảy, 6 tháng 12, 2014

Bài 5 : GIÁNG SINH




Giáo lý Dự Tòng của cha Pio NGÔ PHÚC HẬU (bài 4)
Audio NGUYỄN CÔNG ĐẠT

Bài 4: TRUYỀN TIN




Giáo lý Dự Tòng của cha Pio NGÔ PHÚC HẬU (bài 4)
Audio NGUYỄN CÔNG ĐẠT

ht. Nghe bài 4 này mình thấy thú vị ở cách cha Hậu tự đóng vai trưởng tộc cho gọi "Maria" đến mà rằng " Tôi nói thím nghe...thím có một đứa không biết dạy con....". Đọan thím Maria diễn theo đạo diễn Ngô Phúc Hậu "suy ra" thì đanh đá, tính toán, đòi hỏi  rất tinh tướng. Cha vẫn hay đóng kịch vậy, các Bạn đã đọc cuốn NHƯ TRÁI MẮM  của cha chưa nhỉ, nội dung tác phẩm này hầu hết là những cuộc đối thọai giữa tác giả Piô Ngô Phúc Hậu với các nhân vật trong Kinh Thánh, từ Cựu đến Tân. Mời Bạn tìm đọc nhé.


(Ảnh Google Image)

Thứ Sáu, 5 tháng 12, 2014

Bài 3:THIÊN CHÚA SÁNG TẠO CON NGƯỜI




Giáo Lý Dự Tòng của Cha Pio NGÔ PHÚC HẬU
Bài 3 : Thiên Chúa sáng tạo con người
Audio NGUYỄN CÔNG ĐẠT 

ht. Thể theo lời yêu cầu của mấy bà bạn già ngồi nhà thích nghe cha Hậu giảng, mình cố tìm cho bằng được Giáo lý cha Hậu đăng tiếp, chiều các bả, may quá nhớ được địa chỉ audio Nguyễn Công Đạt, cứ thế Chia sẻ-Nhúng-Copy- chọn HTML.- Paste. Mời các chị em mở nghe, dzui lắm. Trong bài 3 này mình thích đọan cha Hậu nói lúc cha chết xin đừng đọc kinh Chúng con cậy vì..., cha thuật lại kiểu người có Đạo mô tả Thiên Đàng, chỉ bịa ! Đoạn phản đối lời nguyện chặng đàng Thánh Giá nơi thứ 14 nữa, nghe cha giảng  phải bật cười.
 Nghe đi nhé  Bạn.

Thứ Tư, 3 tháng 12, 2014

Thứ Năm, 17 tháng 10, 2013

NỤ CƯỜI – NỤ HOA


NỤ CƯỜI – NỤ HOA

Lm Piô Ngô Phúc Hậu
Trích BGCN/TGPSG tháng 09/2012

1.Trong căn phòng nhạt nhòa ánh đèn trong đêm, bà cụ già ngồi xếp bằng, thì thầm lần hột. Bỗng có tiếng gõ cửa dồn dập.
 - Đứa nào vậy?
- Thưa mẹ, con đây.
- Cái ông này lại phá người ta rồi. Làm linh mục mà vẫn nghịch như giặc… Để cho mẹ đọc kinh.
- Con biết mẹ đang đọc kinh, nhưng con có chuyện khẩn trương, xin mẹ cho con vào.
- Ừ thì vào đi.
 Cha Quỳnh đẩy cửa đi vào, ngồi bên mép giường của mẹ. Ông chắp tay xá mẹ một cái.
 - Mẹ ơi, con có một chuyện bức xúc quá, không nói ra thì không chịu được. Mẹ đừng giận con, đừng đánh con nha.
- Ai mà dám đánh ông. Đánh ông để mang vạ tuyệt thông hả.
- Mẹ ơi, con là con trai út của mẹ. Con không có em, con thèm muốn chết, mà bố thì chết mất rồi. Vậy con đề nghị mẹ bước thêm bước nữa để con có thằng em trai.
- Thằng quỷ, làm cha rồi mà còn nghịch như quỷ vậy.
   Bà cố vơ vội cái quạt giấy đánh liên hồi vào lưng ông con. Vừa đánh vừa cười.
 - Mẹ ơi, mẹ tha lỗi cho con nha. Từ lâu con đã hứa với Chúa rằng mỗi ngày con phải làm ít nhất cho một người vui cười một lần. Nếu không thì không được đi ngủ. Hồi nãy khi xét mình con thấy ngày hôm nay con chưa làm cho ai cười. Vì thế con nghỉ đến mẹ. Bây giờ con đã làm cho mẹ cười. Thế là con đã chu toàn bổn phận của con đối với Chúa. Con xin phép mẹ đi ngủ. Chúc mẹ ngủ ngon.
  Nói xong cha Quỳnh lủi về phòng riêng, vừa đi vừa cười. Còn bà cụ, mẹ của cha Quỳnh thì tủm tỉm cười mãi cho đến khuya.
  Bà cứ nghĩ mãi về đứa con trai út. Khi còn ở trong bụng mẹ, nó là một thai nhi chòi đạp nhiều nhất. Khi ra chào đời, nó là đứa bé khóc dữ nhất. Khi bú mẹ thì nó vừa bú vừa nhún nhảy như muốn đánh đu. Miệng thì mút chụt chụt, còn tay thì vỗ vỗ, đập đập. Khi biết lẫy, biết bò và biết đi chập chững, thì cái miệng lúc nào cũng cười toe toét. Khi vào học ở chủng viện thì chuyên môn chọc cười thiên hạ. Khi đi cải tạo thì chung vui cho anh em đồng cảnh. Bây giờ vì thời thế phải tạm thời về bên cạnh mẹ già thì cũng chăng biết buồn là gì… Đây là đứa con mà bà có nhiều kỉ niệm nhất, được bà thương nhất. Bà thầm gọi nó là một thiên thần tung hoa. Cánh hoa rơi lả tả trên đầu, trên vai của mọi người. Cánh hoa rơi đầy trên cả lối đi khúc khuỷu của cuộc đời.

***

2. Tại một vùng nông thôn hẻo lánh, vừa rất sâu, vừa rất xa, lại mọc lên một dãy nhà lá mà người ta cứ gọi là trạm xá. Nó tọa lạc ngay trong khuôn viên của nhà thờ. Cha sở không có bằng tiến sĩ về y khoa, nhưng người ta cứ gọi là ông bác sĩ giám đốc. Dường như ông không theo học tại một trường y khoa nào. Dường như ông chỉ học mót, học lóm với mấy người thầy thuốc có tài. Mót mãi mót mãi ông có được một ôm kiến thức về y khoa. Y khoa bên Đông, y khoa bên Tây. Rồi bỗng dưng ông có bằng “lương y”. Ông mặc áo blouse trắng, ngồi coi mạch, chẩn bệnh, kê toa và phát thuốc nhân đạo.
 Bệnh nhân nghèo tìm lại được sức khỏe mà không tốn tiền. Uy tín của ông bay lên như diều. Diều cao, có gió kêu vi vu. Thế là cái trạm xá bé tí bỗng phải cơi nới. Một trăm, hai trăm, ba trăm bệnh nhân từ khắp nơi dồn về. Trạm xá phải miễn cưỡng trở thành bệnh xá. Y sĩ, y tá, y công gia tăng trở thành đội ngũ nườm nượp đi ra đi vào, đi tới đi lui. Ban hậu cần phải hì hục nấu cơm cho năm trăm phần ăn, cho mỗi bữa, cho mỗi ngày. Ân nhân từ trong ra tới ngoài nước đều vui vẻ mở hầu bao và mở từ tâm….
 Bỗng có một biến cố xảy ra.
 Tít bên sông, ngay trước cổng nhà thờ, hai anh y tá khiêng một bệnh nhân cần cấp cứu đi vào bệnh xá. Cái cáng khiêng bệnh nhân được đặt nằm giữa phòng. Hằng mấy chục bệnh nhân đang nằm viện vội vàng ngồi dậy, chạy ngay đến chỗ đặt cái cáng để xem. Bệnh nhân cấp cứu nằm im re, chăn phủ kín từ đầu đến chân. Mọi người xì xào hỏi hai y tá:
 -         Ai đấy?
-         Bệnh gì vậy?
-         Đàn ông hay đàn bà?
-         Mời cha sở xuống ngay ngồi tòa và xức dầu cho người ta kẻo không kịp.
 Hai anh y tá lầm lầm lì lì không thèm trả lời. Bầu khí căng thẳng quá chừng!
 Bỗng bệnh nhân cấp cứu tung chăn, đứng phắt dậy, giang tay, cười hề hề. Đó là cha sở, giám đốc bệnh xá. Cả nhà cười ầm lên, cười đến bể bụng luôn.
 Chẳng biết trên hành tinh này đã có ông giám đóc bệnh viện nào đùa nghịch như thế không? Tưởng là chuyện tiếu lâm. Thế mà lại là chuyện thật. Người tò mò đến tận nơi để chất vấn cha sở:
 -         Tại sao cha là linh mục, là giám đốc bệnh xá mà lại đùa giỡn một cách quá đáng như vậy?
-         Một nụ cười bằng mười thang thuốc bổ.
 Ông giám đốc bệnh xá chỉ trả lời gọn lỏn có bấy nhiêu.
 Mà đúng thế thật. Cười là hạnh phúc. Hạnh phúc cho ta sức khỏe. Một nụ cười chẳng tốn xu nào. Mười thang thuốc trị giá một túi tiền. Kiếm tiền đâu có dễ. Cười và làm cho người ta cười là con đường ngắn nhất để đưa ta tới sức khỏe và hạnh phúc. Nụ cười là nụ hoa.

***

3/                                
“Ra đường thì gặp công nông
Về nhà gặp vợ, vợ không nói gì”
 Đó là câu ca dao phổ biến tại miền Bắc vào thời đang bước vào “đổi mới”. Xe công nông là xe cải tiến và tự chế, không có trong danh sách của cảnh sát giao thông. Đi nghênh ngang và chở đồ cũng nghênh ngang làm khổ người đi đường. Gặp nó thì bực bội, nhưng chẳng làm được gì nó. Khổ thì cắn răng mà chịu. Cãi và đánh nhau với nó, thì từ bị thương đến bị thương. Không chết, nhưng chết dở. Đó là cái khổ của đàn ông khi ra sống giữa trường đời.
 Cái khổ giữa đời là thế. Còn một cái khổ nữa hiện hữu và trường tồn ngay trong gia đình. Đó là bà vợ “không nói gì”. Người đàn ông đầu tắt mặt tối trên cánh đồng, trong nhà máy… để kiếm tiền nuôi vợ con. Mỗi lần về nhà mà thấy vợ tíu tít, toe toét, thì mồ hôi thôi chảy, cực nhọc tan biến. Nhưng nếu chẳng may về nhà thấy vợ lầm lầm lì lì, chẳng nói, chẳng rằng… thì khổ ơi là khổ.
 Một cụ già trải qua năm mươi năm sống đời vợ chồng đã tâm sự với bạn bè một cách tếu táo thế này:
 -         Khi nào vợ tớ mà lầm lì  không nói, thì tớ phải làm cho bà cười hi hi tớ mới thôi.
-         Cậu làm cách nào để cho vợ cười?
-         Tớ cứ cù vào nách. Nếu không chịu cười thì tớ cứ cù mãi cho tới khi bà phải đầu hàng thì tớ mới thôi. Chồng cười, vợ cười, con cái cười. Thế là bao nhiêu buồn phiền đều tan đi như mây khói.
 Ông già ấy bây giờ không còn nữa, nhưng cái trò cù nách vợ để kiếm nụ cười thì vẫn còn được áp dụng lai rai trong xóm làng. Đau khổ vẫn hiện hữu nhưng không chiếm hữu. Hạnh phúc vẫn bị đe dọa, nhưng không bao giờ đầu hàng. Chỉ vì nụ cười vẫn nở như nụ hoa.

***
4/ Một linh mục đi tù. Hỏi tại sao, ông chỉ cười trừ. Ông ngồi ăn cơm với bảy đồng cảnh. Tám người ngồi xếp bằng trên sạp, tạo thành một vòng tròn đẹp. Giữa vòng tròn là một thau cơm và một hũ muối. Cơm gạo lứt có mầu tím sám. Muối hột không trắng không đen. Ông bới một chén cơm vơi vơi. Ông chậm rãi và một miếng nho nhỏ. Ông nhai, nhai mãi. Nhai để tập thể dục cho hai hàm răng đang thiếu canxi. Nhai để cảm thấy vị ngọt đang rỉ ra và thấm xuống họng. Ông gắp một hột muối bỏ vào miệng. Ông cảm thấy vị mặn thấm vào chân răng. Ông thầm nghĩ: phải có mặn mới có mặn mà; muối mặn làm cho đời thêm mặn mà. Hoan hô muối! Tiếng muối vỡ vụn nghe rạo rạo. tạo nên một thứ âm thanh đơn điệu nhưng rất vui. Vui giữa bầu khí buồn man mác.
 Ông vừa nhai hết chén cơm vơi vơi thì các đồng cảnh đã buông đũa. Mỗi người đều ngốn hết từ ba đến bốn chén. Thấy đồng cảnh ăn nhanh và nhiều như thế, ông linh mục cười thầm trong bụng. Cứ cười thầm thôi cũng đủ biến ngục tù thành vườn hoa. Nụ cười là nụ hoa.

MỘT HỌC TRÒ CÓ NHIỀU THẦY CÔ


MỘT HỌC TRÒ CÓ NHIỀU THẦY CÔ
Lm Piô Ngô Phúc Hậu
Trích từ BGCN TGP/SG tháng 6.2012

1/ THẦY SẦU RIÊNG
Mình đi dạo lang thang trong vườn Đan viện Xitô. Vườn mà mênh mông như rừng. Bỗng xuất hiện một hàng sầu riêng. Mình đếm một, hai, ba, bốn…. đếm mãi mới hết. Lá sầu riêng lưa thưa không che được cái lõa lồ của trái. Kẽ nách này một chùm. Kẽ nách kia một quả. Không muốn giấu giếm, không thèm che đậy. Mình cười thầm trong bụng: “Khoe của”.
 Mình thì thầm đếm. Mình im lặng ngắm. Trên màn ký ức xuất hiện biết bao kỷ niệm vui buồn về trái sầu riêng. Bất giác mình thốt lên: ”Chào thầy”.
 Mình vẫn coi trái sầu riêng là bậc thầy dạy mình rất nhiều về nhân tình thế thái. Trên thế giới hiện nay có bảy tỷ người, thì có lẽ 95% chẳng biết trái sầu riêng là gì. Còn lại 5% thì chia làm hai phe. Phe này ca tụng sầu riêng là: “ngon tuyệt vời”. Phe kia thì chửi sầu riêng là: “thối như xác chết”. Phe ca tụng thì lầm lầm lì lì cứ ngồi ăn hì hục. Vừa liếm láp vừa mút mát. Liếm mút đến trơ trụi cái hột, đến nhẵn nhụi mười đầu ngón tay. Ăn rồi vẫn tiếc hùi hụi…
 Phe chửi thì ấm ĩ, mạt sát không tiếc lời. Lại còn ví von để bêu diếu: “Vàng vàng như…, nhão nhão như…, thum thủm như….”
 Mình đứng ở giữa không theo bên nào nhưng vẫn tự hỏi: “Ai đúng ai sai”. Ai cũng bảo mình là đúng và họ nói với tất cả tấm lòng thành của mình. Cuối cùng mình phải hỏi trái sầu riêng: “Sầu riêng ơi, mày thơm hay mày thối?”. Có tiếng trả lời: “Tương đối thôi”. Thì ra khả năng con người chỉ có thế. Đành phải chấp nhận nhau, tìm hiểu nhau và thông cảm với nhau thôi.
 Thầy sầu riêng ơi, em cám ơn thầy.

2/ CÔ MAI
Ông nhà vườn đang chuẩn bị hốt bạc. Ông trồng 1.000 cây mai. Ông chăm bẵm như cô bảo mẫu chăm sóc bé thơ. Ông bón phân. Ông tưới nước. Ông đo nhiệt độ ban ngày và ban đêm. Ông đo chiều cao của thân cây và chiều dài của cành xòe. Ông đi tới đi lui. Ông dừng chân và nhìn ngắm. Ông đặt tay lên trán và suy nghĩ… Người ta bảo ông nhà vườn phải lòng vườn mai.
 Rồi bỗng dưng ông quên vườn mai. Không bón phân. Không tưới nước… Người ta tưởng ông ngã bệnh nặng… Không phải. Ông mê cờ tướng, ngồi đánh cờ suốt ngày. Người ta xì xào: “Bán đồ phi phế”; “Đánh trống bỏ dùi”; “Mê bồ nhí thí phu nhân”. Nói mãi chán mồm, không ai thèm nhắc đến ông nhà vườn và 1.000 cây mai nữa.
 Bỗng ông nhà vườn lại xuất hiện nhưng không tưới bón mà lại phá phách. Ông ngắt hết lá của 1.000 cây mai, biến rừng xanh thành vườn chết cháy. Một ngàn cây mai giống như một ngàn thằng chết đói, Giơ tay khẳng khiu van xin cháo thị… Người xấu mồm bảo: “Thằng khùng giẫy chết”; “Con điên xé váy”. Ông nhà vườn nghe biết, nhưng không thèm chấp nhất.
 Thời gian trôi nhanh. Ngày đầu xuân xầm xập đi tới. Rừng mai chết biến thành rừng hoa mai vàng bạt ngàn. Trập trùng. Rực rỡ. Xe cộ từ thành phố đổ về nườm nượp. Con buôn xỉa tiền nhanh như máy. Ông nhà vườn hốt tiền nhanh hơn nhân viên môi trường hốt rác. Láng giềng xấu mồm bây giờ há hốc miệng. Chết điếng!
 Từ ngày ấy, hễ cứ thấy cây mai thì mình lại ngắm nghía và suy nghĩ, rồi buột miệng: “Chào cô”.Cây mai là hình ảnh tuyệt vời để mình suy niệm Mầu nhiệm Cứu Độ: “Từ thụ nạn đến Phục Sinh”, “Từ khổ giá đến vinh quang”.
 Cây mai cũng phải trải qua lịch sử: “Từ khổ gốc đến vinh quang”. Giáo dục trẻ em cũng phải theo gương cây mai. Mọi người muốn làm nên sự nghiệp cũng phải theo gương cây mai. Linh mục, tu sĩ muốn đạt được hào quang của bậc tu trì thì cũng phải nhận cây mai là cô giáo của mình.
 Chào Cô Mai.

3/ THẦY “SANH-SI-SỌP-GỪA”
Mình đi lượm rác chung quanh nhà thờ, nhác thấy một cây gừa thò đầu ra từ trong kẽ tường. Tức quá, mình túm lấy ngọn nó, kéo thật mạnh. Đứt ngọn. Mình lảo đảo muốn té... Mà gốc và rễ vẫn nằm gọn trong kẽ tường. Thế là nó thắng, mình thua. Mình đứng lặng suy nghĩ...
Sanh-Si-Sọp-Gừa giống như bốn thằng đàn ông có bà con với nhau. Lập trường của chúng nó là sống khỏe hơn sống đẹp. Rễ của chúng nó bủa ra chung quanh gốc cây để lấy muối khoáng y như các loại cây khác Chúng còn cho rễ bung ra khắp mọi cành, mọi nhánh. Rễ thả xuống tua tủa như tóc tiên. Rễ còn ôm chặt lấy thân cây như cánh tay vạm vỡ của thằng khổng lồ. Dùng rễ để tồn tại và tồn tại oai hùng. Nhưng để phát triển thì sao? Kế hoạch của chúng nó là không ồn ào như rễ. Chúng nó rất âm thầm và khiêm tốn.
Trái của chúng nó nhỏ xíu chẳng ai để ý. Chỉ loài chim mới thấy. Chim ăn rồi ỉa. Chim ỉa trên nóc nhà, trên đỉnh ngọn tháp. Trong cứt chim có hạt của chúng nó, hạt đó không bị hủy hoại. Nó âm thầm mọc lên. Mọc trên tháp, mọc trên ống máng, mọc trong kẽ tường. Bất khuất. Người ta tức mà chẳng làm gì được nó.
Bốn anh em nhà Sanh-Si-Sọp-Gừa vừa dạy mình một bài học về truyền giáo. Bài học ấy là:
-         Hiến thân mình làm thực phẩm nuôi chim.
-         Khiêm tốn biến thành cứt chim để được chim gieo giống hộ trên cao.
-         Sống cho trọn vẹn để hỗ trợ bất cứ tổ chức nào, bất cứ tôn giáo nào, miễn là tổ chức ấy có ý tốt. Khiêm tốn đến tận cùng, đến độ không ai biết đến, miễn là Đức Giê-su được rao giảng. Cứ thế Tin Mừng sẽ lớn lên, tồn tại, phát triển và bất khuất.
Cám ơn thầy Sanh-Si-Sọp-Gừa.

4/ CÔ ACB
Mình gặp một vị chủ chăn cao cấp, ngài vừa cười vừa kể chuyện :
Có một cô làm việc trong ngân hàng ACB. Cô mới xin học đạo và theo đạo. Đạo mới mà hơn đạo cũ : sốt sắng lắm! Nghe người ta khen mà tôi chưa gặp mặt cô lần nào. Bỗng hôm ấy, trong một dịp đại hội, có một người dẫn cô ấy đến giới thiệu với tôi.
 Đã biết chuyện và sẵn có thiên cảm với cô, tôi nói chuyện vui vẻ và cởi mở ngay.
-     Chị trở lại đạo hồi nào?
-     Thưa (ngập ngừng), con ‘đi tới’ chứ con không ‘trở lại’... Con theo đạo Phật. Đạo Phật quá hay. Bây giờ con khám phá ra là đạo Chúa hay hơn. Thế là con đi tới luôn. Con không ;trở lại’ đạo, vì con có đi sai đi lạc đâu mà ‘trở lại’...
 Kể xong chuyện, ngài nhắc nhở mình : « Coi chừng đấy nhá. Chúng ta có thói quen nói là người ngoại trở lại đạo. Nói vậy thì vừa sai vừa xúc phạm đấy... »
 Nghe chuyện « cô ACB trở lại đạo » mình hồi tưởng câu chuyện của nhà thơ Charles Péguy.
 Năm 39 tuổi Charles Péguy xin học đạo. Khi học giáo lý, anh được người giáo lý viên trình bày về Hỏa Ngục. Người ta thích nói về sự khủng khiếp của Hỏa Ngục, để người nghe vì sợ  Hỏa Ngục mà không dám phạm tội. Rõ thật là hay mà không hay.
 Sau khi kết thúc bài giáo lý về Hỏa Ngục, giáo lý viên phỏng vấn Charles Péguy.
-         Anh có sợ Hỏa Ngục không?
-         Không!
-         Ơ hay. Tại sao anh không sợ Hỏa Ngục?
-         Tôi có xuống đó đâu mà phải sợ nó.
-         Anh này buồn cười nhỉ. Tại sao anh biết là anh không xuống Hỏa Ngục?
-         Tôi biết chứ, vì Chúa không muốn cho tôi xuống Hỏa Ngục. Tôi cũng không muốn luôn.
???!!!
 Vô tình Charles Péguy trở thành thầy của giáo lý viên.
Vô tình cô ACB trở thành cô giáo của mình.
Cám ơn Thầy Charles Péguy. Cám ơn Cô ACB.

ĐÁM TANG BÀ NĂM



Đám Tang Bà Năm
 Lm. Piô NGÔ PHÚC HẬU

Cái Rắn, ngày 16-7-1995

Hôm nay Chúa nhật, sau lễ chiều, bà Sáu Sen hối mình :
 - Ông cố ơi !  Ông cố đi rửa tội gấp cho bà Năm Thân. Bà hết biết rồi. Gia đình người ta  đem xuồng tới đón.
 - Bà Năm xin theo đạo từ sáu tháng nay mà chưa rửa tội cho bà được… Thôi mình đi !
 Bà Năm nằm im lìm, hai mắt nhắm nghiền. Mình nhắc bà kêu Trời bằng cha… xin Chúa rước linh hồn bà về hưởng hạnh phúc thiên đàng với Chúa. Bà cụ cựa cái đầu, nhóp nhép cái miệng. Bà còn tỉnh, nhưng đã kiệt sức.
 - Maria, tôi rửa  bà nhân danh Chúa, và Con và Thánh Thần.
 Mình bắt tay giã từ ông Năm.
 - Tôi gởi ông Năm chút tiền để lo cho bà Năm. Tôi sẽ cầu nguyện nhiều cho bà Năm và ông Năm.
 - Ông cha nhớ là tôi và bà nhà tôi đã xin theo đạo ông cha. Con út tôi cũng theo đạo ông cha. Còn mấy đứa kia, thì tôi sẽ nói với tụi nó.
 Bước xuống xuồng, nhìn trở lại, mình thấy bà con lối xóm đã bắt đầu dựng rạp; căn nhà của ông Năm đã xiêu vẹo; cửa ra vào là một hình bình hành mà hai góc nhọn đã quá nhọn. Có lẽ nó sẽ sập xuống trước khi bà Năm ra đi.
 Sở dĩ mình lần khân không muốn rửa tội sớm cho ông bà Năm, vì mình vẫn nghĩ câu nói sau đây là một thực tế : “Đi đạo lấy gạo mà ăn”. Thủng thẳng để chờ đợi là thượng sách. Nhưng nghĩ như thế có xúc phạm đến người nghèo không nhỉ ?

 Cái Rắn, ngày 17-1-1995

Sáng nay bà Sáu Sen hớt hải báo tin :
 - Bà Năm chết rồi ông cố ơi !
 - Hồi nào ?
 - Hồi khuya  nay. Mấy chị em tụi con trực suốt đêm ở bển.
 - Hỏi gia đình người ta xem chừng nào thì chôn cất để tôi qua làm lễ an táng.
 Bốn giờ chiều mười lăm, mình xuống xuồng.
 Bà con ngồi đầy sân. Mấy chục vành khăn tang đi ra đi vào. Một người đàn ông dõng dạc tuyên bố :
 - Trước khi ông cha nhà thờ làm lễ cho bà Năm, con cháu tập họp phía trước. Lên đèn cúng…
 - Đem đồ ăn ra !
 - Có bấy nhiêu thôi sao ?  Cho thêm vài món nữa !  Tội nghiệp bả .
 Mấy chục cái đầu cúi rạp xuống để tỏ lòng biết ơn đối với “công đức sinh thành”…
 -Tôi xin công bố: nhà thờ giúp một trăm tám mươi lăm ngàn đồng, mười ký gạo và ba bộ đồ; chánh quyền ấp chúng tôi giúp một trăm ngàn đồng. Bây giờ mời ông cha phát biểu cảm tưởng.
 Mình dự tính phát biểu cảm tưởng trong bài giảng của thánh lễ. Nhưng ca đoàn chưa tới. Bèn giảng trước thánh lễ để tranh thủ thời gian.
 Ai nấy trố mắt, há mỏ để nghe ông cha trệu trạo giọng “Hànội – Sàigòn”. Với giọng nói không ngọt ngào, mình chuyển đến bà con lương dân cảm nghĩ về cái chết theo Kitô giáo: “Chết là trở về với Chúa; chết là khởi đầu cuộc sống vĩnh cửu”. Từ  đó mình gởi lời chia vui với bà Năm và xin bà Năm cầu nguyện cho bà con lối xóm, để mọi người cùng được sum họp với bà trên thiên đàng. Giảng vừa xong, thì ca đoàn tới. Thánh lễ bắt đầu.
 - Yêu cầu bà con trật tự, để ông cha làm lễ.
 Một người đàn bà cho con bú, kéo vội vạt áo xuống. Ai nấy im lặng như tờ. Ca đoàn dìu mọi người vào thế giới thần linh : “Khi Chúa thương gọi tôi về. Hồn tôi hân hoan như trong một giấc mơ…”. Lời nghe thật rõ, nghe nhạc thật dịu. Chắc hẳn người lương dân cũng cảm thấy như mình. Cái chết đẹp như thế đó.
 Mình tập trung tư tưởng để dâng một thánh lễ thật sốt sắng. Chúa Giêsu hiện diện ở đây. Mình tha thiết xin Ngài mạc khải cho bà con lương dân đang trố mắt nhìn vào Ngài. Mình tin rằng họ đang gặp Ngài bằng một cách nào đó.
 Khung cảnh quá bệ rạc. Cái bàn tròn khập khiễng. Mái lá của hàng ba thấp lè tè không đủ độ cao để mình đâng Mình Thánh lên cao theo thông lệ. Có lẽ những nhà soạn giáo luật khe khắt không cho phép mình dâng thánh lễ trong điều kiện như thế. Nhưng mình thì nghĩ một cách giản dị: Chúa ngự ở đây cũng như  Ngài đã ngự trong hang Bêlem. Cần gì phải câu nệ…
 Mình kết thúc thánh lễ, thắp cho bà Năm cây nhang cuối cùng rồi trao thời gian còn lại cho ông Hai Dưỡng…
 - Bên tôn giáo làm lễ xong. Đạo tì tiến lên. Nghiêm !  Phút mặc niệm bắt đầu. Thôi !
 Hai hàng đạo tì lực lưỡng, mặc quần xà lỏn, trần như nhộng, tràn vào, nâng bổng quan tài lên, khom mình xuống chui qua khung cửa hẹp hình bình hành, rồi đi te te ra huyệt cách đó chừng bốn chục mét. Mình xách máy chụp rượt theo.
 Tiếng khóc của con cháu xen lẫn với tiếng cầu kinh của các bà hiền mẫu tạo nên một âm thanh loạn xà ngầu, nhưng lại làm tê tái lòng người. Mình chụp vội mấy tấm hình cuối cùng, rồi vội vã trở lại căn lều. Ông Năm ghé tai mình nói nhỏ :
 - Cha cho tôi xin cái mùng. Cái mùng cũ, tôi cho bả đem theo rồi.
 - Được
 Ông Hai Dưỡng kéo áo mình :
 - Ông cha ở lại dùng cơm chia buồn với ông Năm.
 - Rất tiếc tôi phải về. Xin ông Hai cho tôi kiếu.
 - Cũng được, nhưng ông cha uống với tôi nửa cốc rượu cho có tình cảm… Một nửa cốc nữa đi ông cha… Cám ơn ông cha nhiều lắm.
 Mình xuống xuồng ra về. Cơm bắt đầu bưng ra. Đó là tấm lòng của chồng con bà Năm đối với thịnh tình của bà con lối xóm. Các bà hiền mẫu của mình cũng ở lại để cầu lễ.
 ………..
 Bây giờ đã hai mươi giờ hai mươi phút. Bà Năm đang gởi xác ở đó, bên hàng bình bát rậm rì. Còn hồn của bà thì có lẽ đang sững sờ trước ngưỡng cửa của Người Cha, mà bà đã biết rất muộn màng.
 Trong căn lều xiêu vẹo, mấy chục vành khăn tang đang phân vân không biết là nên ra về hay nên ở lại. Ở lại thì không có chỗ ngả lưng. Ra về thì tội nghiệp cho vong linh người quá cố… Và ở tận miền biển xa tắp tít, một thằng con trai của bà Năm đang đi câu cua, chẳng hề biết mẹ mình đã chết. Chẳng ai đi báo tin cho hắn, vì chẳng biết hắn ở đâu mà tìm.

GIẬT MÌNH VÌ CÁO MÌNH


GIẬT MÌNH VÌ CÁO MÌNH
Lm Piô Ngô Phúc Hậu
Trích BGCN TGPSG 11/2012

            Mình đọc vội vàng Tông thư Cửa Ngõ Đức Tin. Đang đọc thật nhanh thì bị vấp. Đành thôi đọc nhanh, để đọc thật chậm.
 Dường như Đức Thánh Cha bức xúc lắm khi ngài viết: “ Giáo Hội phải liên tục tiến bước trên con đường sám hối và canh tân” (CNĐT 6). Nói như thế cũng y như nói: “Giáo Hội phải tắm hoài hoài”. Vì bẩn mới tắm. Vì bẩn hoài hoài nên mới phải tắm hoài hoài Lời nói của Đức Thánh Cha làm cho mình cảm thấy vừa xấu hổ vừa tự ái. Thì ra Giáo Hội của mình là như thế sao? Bẩn và bẩn hoài. Yếu đuối và sa ngã liền liền. Buồn quá!
 Đọc Tông thư Cửa Ngõ Đức Tin, nình giật mình nhớ đến thông điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Chuộc. Đức Gioan-Phaolô II tuyên bố:Giáo Hội và các nhà truyền giáo phải nêu lên chứng tá khiêm tốn, trước hết đối với chính mình, khi dám tự kiểm thảo ở mức độ cá nhân cũng như cộng đoàn, ngõ hầu sửa chữa lại trong cung cách sống của mình, những gì đi ngược với Tin Mừng và làm biến dạng dung nhan Đức Kitô” (SVĐCĐ 43).
 Đọc nhanh, đọc chậm rồi thôi đọc để ngẫm nghĩ. Mình tự hỏi: trong mấy chục năm truyền giáo, mình có loan báo một Đức Giêsu chính thống hay không? Câu hỏi lớn quá, mình chưa đủ can đảm để trả lời.
 Mình nghĩ về thời Công Vụ Tông Đồ. Mình thấy các Tông đồ cũng chưa hiểu hết được tâm ý của Thầy. Do đó các ngài cũng đã rao giảng một Đức Giêsu không trọn vẹn. Cụ thể là Chúa đã hủy bỏ trọn vẹn 47 câu trong chương 11 của sách Lêvi. Môsê đã long trọng mở đầu chương 11 như sau: “Giavee phán cùng Môsê và Aharon rằng”. Sau đó ông kể tỉ mỉ về những đồ ăn mà ông bảo là uế và ai ăn thì mắc uế. Ông bảo là uế, còn Đức Giêsu thì dạy rằng: “Mọi đồ ăn đều thanh hết” (Mc 7,19). Chúa tuyên bố rõ như thế, vậy mà các Tông đồ không hiểu. Vì không hiểu, nên các ông bị mắng nặng lời: “Cả anh em nữa, anh em cũng tối dạ như thế sao?” (Mc 7,8). Bị mắng là tối dạ, thế mà chừng mười năm sau, Thánh Phêrô vẫn tối dạ. Ông ngang nhiên chống lại Lời Chúa:
 -         Phêrô, trỗi dậy làm thịt mà ăn.
-         Lạy Chúa, không được đâu. Chưa bao giờ con bỏ vào miệng con những thứ ô uế ấy.
-         “Những gì Thiên Chúa tuyên bố là sạch, thì ngươi chớ bảo là ô uế” (Cv 10,12-15)
 Sau Thánh Phêrô thì đến Thánh Giacôbê. Để kết thúc Công Đồng Giêrusalem, Thánh Giacôbê dã tuyên bố một lời sai với giáo huấn của Chúa về luật thanh uế: “Người ngoại trở lại phải kiêng không được ăn thịt những con vật chết ngạt và không được ăn tiết” (Cv 15,19-20)
 Các Tông đồ đã là thế, thì huống hồ là mình. Mình chỉ còn biết cúi đầu nhận lỗi và thầm đọc Kinh Cáo Mình: “Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa toàn năng và cùng anh chị em….”
 Lại giật mình một lần nữa.
 Mình lấy máy tính ra để bấm, mới thấy rằng trong suốt 70 năm cuộc đời, mình đã đọc Kinh Cáo Mình ít nhất là 25.550 lần. Mình đã sám hối mỗi ngày ít nhất là một lần. Mình liên tục sám hối. Sám hối nhiều hơn lòng muốn của Đức Thánh Cha Bênêdictô XVI. Thế mà kết quả thì…. Chả thấy gì hết. Tại sao vậy? Mình nghiệm ra rằng: Hằng ngày mình chỉ thành thật thú tội “cùng Thiên Chúa toàn năng” mà thôi. Còn câu “và cùng anh chị em” thì chỉ là nói phét. Khi lấy tay đấm ngực và đọc: “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”. Thì cũng chỉ là nói dóc đấy thôi.
 Trong thực tế mình chỉ nhận lỗi với Chúa, còn với tha nhân, thì đừng hòng. Nếu mình đủ can đảm và thành thật, thì mình cứ thẳng thắn đọc Kinh Cáo Mình như sau: “Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa toàn năng, và không cùng anh chị em…. không  phải lỗi tại tôi, không phải lỗi tại tôi một tí nào….”
 Bây giờ mình mới ngộ ra rằng: sám hối và sám hối thành thật là đoạn đường tất yếu phải có trước Phép Rửa. Người truyền giáo cũng phải sám hối liên tục để rao giảng môt Đức Giêsu tròn trịa, không méo mó. Chính Đức Giêsu đã kêu gọi sám hối trước, rồi tin vào Tin Mừng: “Thời kỳ đã mãn và triều đại nước Thiên Chúa đã gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15)
 Mình đang cúi đầu xấu hổ và đã sám hối dối trá 25.550 lần. thì … bỗng lại giật mình. Trên màn ảnh ký ức của mình, hiện ra một gia đình biết sám hối chân thành. Cả gia đình cùng đọc Kinh Cáo Mình, nhưng rất chính xác, chứ không dối trá như mình.
 Gia đình ấy có hai vợ chồng và bốn đứa con. Tối nào cũng đọc kinh. Bố cục giờ kinh rất khoa học:
 -         Hát Kinh Cầu Xin Chúa Thánh Thần
-         Ba Kinh: Tin, Cậy, Mến
-         Bài Tin Mừng. Đọc, chia sẻ và cầu nguyện tự phát.
-         Suy gẫm một Mầu Nhiệm Mân Côi và lần hạt một chục.
-         Xét mình chung
-         Đọc Kinh Cáo Mình
-         Hát bài kính Đức Mẹ
-         Kết thúc bằng nghi thức chúc lành
 Mình đánh giá phần xét mình chung là tuyệt vời. Mình ghi nhận một buổi xét mình chung như sau:
 Chồng: Sáng hôm nay anh nóng nảy và đã nặng lời với em. Anh xin lỗi. Em bỏ qua cho anh nhé
Vợ: Thì cũng tại em lì, anh mới quạu như thế. Em xin lỗi anh.
Hai vợ chồng bắt tay nhau, nở những nụ cười rất chân thành, rất thoải mái. Bốn đứa con vỗ tay hoan hô. Vợ chồng cười. Con cái cười. Cả nhà vui.
Sau đó đến lượt con cái sám hối do chính cha mẹ hướng dẫn
Mẹ: Sáng nay thằng Hai ăn hiếp em, không đúng tư cách của một người anh. Con phải xin lỗi em con.
Thằng anh cười bẽn lẽn, vừa bắt tay xin lỗi em. Thằng em cũng cười bẽn lẽn với anh.
Bố: Út, hồi chiều con có lỗi với chị. Khoanh tay xin lỗi chị đàng hoàng.
Thằng Út đến trước mặt chị, khoanh tay, nói lí nhí: “em xin lỗi chị, em hứa không như vậy nữa”. Cô chị ôm cậu em, đánh yêu vài cái lên lưng em.
Sau khi mọi người xin lỗi nhau, cả nhà cùng đọc: “Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa toàn năng, và  cùng anh chị em…” Lời thú nhận rất chân thành. Lòng tha thứ rất chân thành. Tình yêu chan hòa. Hạnh phúc tràn ngập. Ấn tượng vô cùng!
 Kinh Cáo Mình làm mình giật mình. Nhờ giật mình, mình thình lình nghĩ ra nhiều chuyện. Chuyện buồn, chuyện vui, chuyện vô ích và hữu ích, và có cả chuyện buồn cười nữa.

·                             một linh mục vừa đọc kinh vừa nói phét 25.550 lần. Chuyện có thật, không hề thêm bớt. Đáng buồn. Nhưng cũng chỉ đáng buồn cười thôi.
·                             Các Tông đồ mà không hiểu lời Chúa dạy. Do đó trên đường loan báo Tin Mừng, có những giáo huấn của các ngài không phù hợp với ý Chúa. Chuyện kỳ lạ mà có thật. Người truyền giáo phái khiêm tốn và sám hối liên lỉ, đó là điều vừa rất đúng, vừa rất bức xúc.
·                             Một gia đình giáo dân biết đưa tinh thần sám hối vào buổi đọc kình tối là một sáng kiến không do chủ chăn, mà còn tiến bộ hơn chủ chăn, thì quả là một việc làm vừa đáng tuyên dương, vừa nên chứng nhân cho mọi gia đình và mọi người.
·                             Giáo Hội phải liên tục tiến bước trên con đường sám hối và canh tân. Đó là một giáo huấn mà mình phải mãi mãi ghi nhớ và ghi ơn Đức Bênêdictô XVI.

TẢN MẠN VỀ VATICANÔ II


TẢN MẠN VỀ VATICANÔ II
 Nhật Ký Truyền Giáo
Lm. Piô Ngô Phúc Hậu

Sài Gòn, ... 1962

Hôm nay Chủng viện Sàigòn đón tiếp Đức cha Trần Văn Thiện mới từ Rôma về và xin ngài kể chuyện Công đồng. Chuyện ngài kể nóng hổi như viên gạch mới ra lò. Nhưng điều mình thích thú lại là chuyện bên lề Công đồng. Chuyện kể như sau :
 “Các nghị phụ thuyết trình bằng tiếng Latinh. Văn chương Latinh của các nghị phụ thì xuýt xoát như nhau. Nhưng giọng Latinh của các ngài thì trời ơi đất hỡi. Nhất là khi các nghị phụ Mỹ thuyết trình, thì chỉ có Chúa nghe thôi. Vả lại mình đã có bản dịch tiếng Pháp cầm trong tay rồi, nên nghe hay không nghe cũng được. Ngồi lâu buồn ngủ, tôi xuống phòng giải khát được thiết lập ngay bên dưới những hàng ghế bậc thang. Không ngờ lại gặp một Đức cha người Pêru cũng vừa "cúp cua" xuống đây.
 Tôi đến nói chuyện với ngài. Ngài nói tiếng Tây Ban Nha, tôi không hiểu. Tôi nói tiếng Pháp, ngài không hiểu. Chúng tôi đành nói chuyện bằng tiếng Latinh, tiếng Latinh ba cọc ba đồng, nhưng cũng hiểu được nhau :
 - Địa phận của Đức cha có bao nhiêu dân ?
 - Một triệu rưỡi.
 - Trong số đó có bao nhiêu giáo dân ?
 - Thì một triệu rưỡi chứ còn gì. 100% mà !
 - Thế địa phận Đức cha có bao nhiêu linh mục ?
 - Mười ba, cộng với tôi là mười bốn.
 - ? !
 Tình hình Công giáo ở Mỹ châu Latinh là như thế đó. Phải có Công đồng để làm lại mọi sự".
 Gần một nửa dân số Công giáo thế giới nằm trong vùng Mỹ châu Latinh. Nhưng đạo ở đó èo uột như thế đấy. Có cần phải trở về quá khứ để duyệt lại phương pháp truyền giáo ở đó không nhỉ ?

****
 Hà Nội,... 1993

Hôm nay mình vô chủng viện Hà Nội. Tình cờ gặp lại cha Chí từ Sàigòn mới ra. Hồi còn học ở trường Hồ Ngọc Cẩn, cha Chí ngồi dưới mình một lớp. Gần bốn chục năm xa cách hôm nay gặp lại nhau, biết để đâu cho hết chuyện tâm sự. Chuyện nọ xọ chuyện kia. Loanh quanh một hồi, rồi đến chuyện Công đồng. Cha Chí kể :
 “Hôm ấy là một ngày mùa đông. Mùa đông bên ấy lạnh lắm, nên cửa kính đóng im ỉm. Đóng cửa kính, thì căn phòng ấm áp, nhưng… hôi lắm. Và hôm ấy Đức Gioan 23 đang tiếp kiến một vị Hồng y. Đức Giáo Hoàng ngỏ ý muốn mở Công đồng, Công đồng Vaticanô II. Đức Hồng y sửng sốt hỏi :
 - Đức Thánh Cha mở Công đồng để làm chi vậy ?
 - Để làm chi hả ? Đây này... (Đức Giáo Hoàng đứng dậy ra mở cửa sổ cho không khí trong sạch tràn vào). Đấy, thấy chưa ? Ngộp quá rồi mà !...”
 Không biết cha Chí kể chuyện thật hay chuyện tiếu lâm, nhưng chắc chắn là Giáo hội phải canh tân và đó là mục tiêu của Vaticanô II. Nhưng Vaticanô II bế mạc 30 năm rồi mà dường như công việc canh tân vẫn chưa đạt tiêu chuẩn. Tại sao ? Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trả lời dứt khoát trong Thông điệp “Sứ vụ Đấng Cứu độ”.
 “Sứ vụ truyền giáo canh tân Giáo hội, tăng cường niềm tin và căn tính người Kitô hữu, đem lại diệu cảm mới và những động lực mới. Niềm tin càng mạnh khi đem chia sẻ" (SVĐCĐ, 2). Từ đó mình xác tín rằng : nếu Giáo hội không đến với muôn dân, thì Giáo hội không thể canh tân được; hoặc mọi công tác canh tân sẽ trở nên vô hiệu. Nếu không đến với muôn dân, Giáo hội sẽ mãi mãi là căn phòng mùa đông, cửa kính đóng im ỉm.

MỘT HỌC TRÒ CÓ NHIỀU THẦY CÔ -2-



MỘT HỌC TRÒ CÓ NHIỀU THẦY CÔ -2-
 Lm. Piô Ngô Phúc Hậu
Trích BGCN/TGPSG 7/2012

1/ Thầy Philipphê
Được Thầy tuyển chọn, Philipphê mừng quá vội chạy đi khoe với Nathanael: “Đấng mà Môi-sê và các ngôn sứ nói, tớ vừa mới gặp. Đó là Đức Giê-su, con ông Giuse, người làng Nagiarét”. Nghe nói đến Nagiarét, Nathanael cười muốn bể bụng: “Nagiarét có gì hay đâu?”. Quả vậy, mọi ngôn sứ, mọi nhân tài đều xuất thân từ Samari và Giuđê. Galilê quê một cục. Nagiarét quê hai-ba cục. Lịch sử minh chứng điều đó. Nagiarét quê mùa tới mức độ người Ai Cập cũng biết và có một câu ngạn ngữ nói về cái quê mùa ấy của Nagiarét: “Thằng đàn ông nào mà ông Trời ghét nhất thì được ông ấy cho một người vợ Nagiarét”, Nghĩa là đời nó tàn.
 Nathanael nói đúng quá, Philipphê đành ngậm tăm. Nhưng may quá, anh ta lại nảy ra một sáng kiến: “thì cậu cứ đến mà xem”. Philipphê dẫn Nathanael đến gặp Đức Giêsu… Thế là xong. Nathanael cúi đầu trước Đức Giê-su Nagiarét: Quả thật, Thầy là Con Chiên Thiên Chúa hằng sống”. Philipphê lật thế cờ từ thua đậm thành thắng lớn.
 Thấy Philipphê hí hửng sung sướng, mình nghĩ ngay đến chiến thuật bất ngờ của ông ta: “Cái gì mình thấy bí thì trao cho Đức Giê-su. Hễ gặp khó khăn vượt tầm tay thì nhờ Đức Giê-su giải quyết. Tâm hồn nào cứng cỏi mình không chinh phục được, thì cứ gửi gắm cho Đức Giê-su. Thế là xong”.
 Trên đường truyền giáo, mình bắt chước Philipphê và thấy kết quả đến ngay trước mắt. Tự nhiên mình cảm thấy Philipphê như một người đàn anh giàu kinh nghiệm. Bất giác mình gọi ông là “thầy giáo của mình”.

2/ Cô giáo Pearl Buck
Pearl Buck là con của một cặp vợ chồng người Mỹ sang truyền giáo ở Trung Quốc. Sống ở đấy và lớn lên ở đấy. Bà am tường văn hóa Trung Hoa như người Tàu và hơn người Tàu. Bà là nhà văn được giải Nobel.
 Mình biết bà từ khi đọc cuốn La Mère (Người mẹ) rồi cuốn Good Earth (Đất lành). Nhờ bà mình có thêm mớ kiến thức về văn hóa Đông Tây. Nhờ bà mình có được nhiều chuyện dí dỏm để trình bày Tin Mừng.
 Khi đọc cuốn Những người đàn bà vĩ đại của dòng họ Kennedy, mình khám phá ra một chân trời mới: một phương pháp truyền giáo khá mới lạ.
 Bà Pearl Buck là bạn thân của mẹ Tổng Thống Kennedy. Bà Pearl Buck là tín đồ Tin Lành nên mặc nhiên là chống Thánh lễ Misa và chức linh mục: coi chức linh mục là phạm thánh. Bà mẹ Tổng Thống Kennedy là một tín đồ Công giáo: Rất nhiệt thành, rất ham đi dâng lễ.
 Một lần kia bà mẹ Tổng Thống Kennedy mời bà Pearl Buck đi dự lễ. Đó là điều tối kỵ đối với tín đồ Tin Lành. Bà Pearl Buck nể bạn mà đi. Nhưng trong thâm tâm thì cứ thấy lợn cợn.
 Sau lần dâng lễ ấy, bà Pearl Buck thú nhận: :Thánh lễ Misa của đạo Công giáo Rôma ru tâm hồn con người vào thế giới thần linh thật”.
 Thay vì chống đối và kết án, bà Pearl Buck lại khen ngợi và tôn vinh, tại sao lại có một hiệu quả ngược chiều như thế? Mình ngẫm nghĩ và thấy rằng chính Đức Giê-su trong Bí tích Thánh Thể đã chinh phục bà Pearl Buck. Từ sự kiện ấy, mình quyết tâm mời người lương đi dự lễ, lễ cưới, lễ truyền giáo, lễ bổn mạng họ đạo…  mình động viên giáo dân mời tối đa bạn lương dân đến tham dự.
 Mình nhận định như sau:
·        Ai ghét đạo mà đi lễ thì thôi ghét.
·        Ai vô tâm vô tình với đạo mà đi lễ, thì có thiện cảm với đạo
·        Ai có thiện cảm với đạo mà đi lễ, thì sẽ xin theo đạo.
Kết quả đó là do chính Đức Giê-su Thánh Thể thực hiện.
 Một lần kia mình tổ chức lễ 20/11, mình gọi là ngày nhớ ơn thầy. Ai trong họ đạo từ nhỏ tới lớn đã từng học với thầy cô nào, thì mời đến nhà thờ dự lễ để cha sở có điều kiện cám ơn chung một lần. Sau thánh lễ các cô phát biểu: “Cha ơi, chings con khóc hết, chịu không nổi. Cả nhà thờ chùng đứng, cùng ngồi, cùng hát, cùng im lặng. Nhât là khi các em cùng cầu nguyện xin Chúa chúc lành cho thầy cô chúng con”. Các thầy thì không khóc, nhưng thành thật công nhận: “Ấn tượng quá linh mục ơi!”.
Bà Pearl Buck ơi, nhờ bà mà tôi mới nghĩ ra cách truyền giáo này. Cám ơn bà! Xin bà cho tôi gọi bà là cô giáo của tôi.

3/ Thày “Cằm đàn ông”
Tòa Giám mục Hưng Hóa nhận được tin vui nửa vời từ nhà thờ Sapa: Nhà nước đã chấp thuận cho giải tỏa kh dân cư tọa lạc trên đất của nhà thờ. Nhưng với điều kiện là phải bồi thường cho dân đang tọa lạc trên đất giải tỏa. Số tiền bồi hoàn cho dân là 12 tỉ. Nếu nhà thờ không có khả năng bồi hoàn, thì nhà nước xử dụng mảnh đất này vào mục đích khác.
Nghe tin, ai nấy đều mừng nhưng vẫn ngơ ngác. Mười hai tỉ - Nợ sẽ ngập đầu. Lo được không? Không lo được thì mất trắng. Công cốc. Có một người hỏi ướm thử Đức cha Gioan:
-         Quỹ giáo phận còn tiền không?
-         Quỹ giáo phận Hưng Hóa giống như cái cằm đàn ông. Râu vừa lún phún thò ra thì đã phải cạo. Cạo trơn tru rồi, râu lại mọc ra nữa. Giáo phận có đồng nào thì xào đồng nấy. Chẳng lúc nào có tiền. Nhưng nếu cần tiền thì lại có.        
Mình chả có ý kiến gì, chỉ tủm tỉm cười.
Lấy cái cằm đàn ông để ví von về quỹ giáo phận thì hay quá, đúng quá. Mình đã lăn lộn với công tác truyền giáo chẵn bốn mươi năm tại miền cuối Việt. Mình đã thấy rõ như ban ngày là chẳng bao giờ có tiền, nhưng chẳng bao giờ thiếu tiền. Nếu cần, thì Chúa cho. Cho theo kiểu của Ngài.
1* Cho đúng lúc, hoặc cho trước, hoặc cho sau một chút.
2* Cho vừa đủ, hoặc thiếu một tí, chứ không bao giờ cho dư.
Từ hôm nay, mình nhận định: quỹ truyền giáo của mình giồng như cái cằm của đàn ông. Đúng quá! Cám ơn “cái cằm đàn ông”. Từ nay ta gọi mi là thầy giáo của ta.
Hiện nay giáo phận Hưng Hóa đang loay hoay với vụ nhà thờ Sapa. Biện pháp đầu tiên là đi vay. Vay các cha xứ, vay giáo dân. Vay người giầu, vay cả người nghèo. Kết quả ra sao? Mình chả biết. Nhưng có một người biết rất rõ. Đó là cái cằm đàn ông.

Thứ Hai, 19 tháng 8, 2013

HẠT GIỐNG ÂM THẦM


HẠT GIỐNG ÂM THẦM 
 Ngô Phúc Hậu, Lm.

Định Môn,… 1963

Hôm nay có một gia đình xin theo đạo. Đó là niềm vui lớn của đời truyền giáo, nhưng vẫn phải tìm hiểu.
 - Tại sao gia đình bà vô đạo ?
-Tôi thích đạo này từ lâu lắm rồi, từ hồi còn nhỏ tôi đi nuôi mẹ tôi ở nhà thương Cần Thơ. Các bà phước ở đó chăm sóc cho mẹ tôi kỹ lắm. Mấy bả tốt thiệt tốt.
 Thế là mình đã thu hoạch một vụ mùa mà ai đó đã gieo giống. Mình nhớ lại Lời Chúa trong Tin Mừng theo Thánh Gioan “Ta đã sai các con gặt hái nơi các con chưa từng lao động vất vả” (Ga 4,38). Người vất vả gieo giống là các nữ tu dòng Chúa Quan Phòng phục vụ tại bệnh viện Cần Thơ. Họ âm thầm khiêm tốn chăm sóc, thăm viếng các bệnh nhân từ ngày này qua ngày khác. Hôm nay có thể họ đã an nghỉ vĩnh viễn tại nghĩa trang nhà hưu Cù Lao Giêng. Hoặc có thể họ đang là những bà ngoại lưng còng, chống gậy đi lang thang trên những con đường tráng xi măng của nhà hưu dưỡng. Họ đâu có biết rằng hôm nay ở Định Môn mình đang gặt những bông lúa mà họ đã gieo từ ba thập niên về trước.

Cái Rắn, ngày 17-5-1995
Hôm nay mình đi thăm bà con lương dân cùng với một thành viên Hội đồng giáo xứ. Đi lang thang từ 7 giờ sáng và kết thúc vào lúc 10 giờ 40. Gia đình cuối cùng là gia đình ông bà Tư. Cả hai ông bà đều trên 80 tuổi và cả hai đều không ra khỏi cái giường của mình. Nói chuyện với ông Tư chán rồi, mình về vô nhà trong nói chuyện với bà Tư.
 - Năm nay bà Tư mấy mươi rồi ?
-Tôi tám mốt, còn ông tôi tám hai.
- Bà Tư ăn được nhiều không ?
- Bệnh quá, ăn được chừng lưng chén.
- Bà Tư ngủ được nhiều không ?
- Có khi thức suốt đêm.
-Thức nhiều như vậy thì bà Tư làm gì cho đỡ buồn ?
-Tôi vái Chúa và Đức Mẹ cho tôi mạnh giỏi, đừng có bệnh hoạn gì, cho tới chết luôn. Bệnh hoạn làm cực lòng con cháu quá. Bệnh hoài uống thuốc hết cả liền.
-Làm sao bà Tư biết Chúa và Đức Mẹ mà khấn vái ?
- Hồi còn bé tôi vẫn đi theo bà Lu-xi. Bả dạy tôi  cầu nguyện với Chúa và Đức Mẹ. Hổng biết  bây giờ bả ở đâu rồi ?  Ông cha biết bà Lu-xi không ?
- Biết, nhưng ít thôi. Tôi biết bà Lu-xi là một nữ tu dòng Chúa Quan Phòng, đã ở Cái Rắn một thời gian và mỗi lần đi đâu thì đưa bà Tư đi theo, năm nay bả thọ trên trăm tuổi, đang ở trên thiên đàng và đang cầu nguyện cho bà Tư theo đạo Chúa.
- Tôi già rồi, không đi nhà thờ được, không đọc kinh được thì làm sao mà theo đạo?
- Khỏi cần, bà Tư cứ thương Chúa là được rồi. Chúa ở khắp mọi nơi mà …

Cần Thơ, ngày 12-10-1994
Mình đến giáo xứ Bảo Lộc, Cần Thơ để chia sẻ kinh nghiệm truyền giáo với anh chị em thiện chí nhân dịp khánh nhật truyền giáo. Anh chị em trong giáo xứ và vùng phụ cận có rất nhiều kinh nghiệm sống động về truyền giáo. Nhưng người gây hào hứng nhất lại là linh mục Đinh Trọng Tự. Cử toạ thi nhau đặt câu hỏi :
 - Cha làm thế nào mà người ta theo đạo nhiều thế ?
- Từ ngày cha về đó, cha rửa tội được bao nhiêu người ?
- Cha kiếm đâu ra tiền để nuôi giảng viên giáo lý ?
-  …………
Linh mục Tự cào bằng mọi câu hỏi bằng một câu trả lời ngang như cua :
-Tôi chẳng làm gì cả. Tôi cứ ngồi rung đùi, hút thuốc lào, thế là người ta theo đạo.
 Mình nghĩ bụng: nếu truyền giáo là thế, thì mình làm cũng được. Mình dư khả năng để rung đùi và hút thuốc lào như ai. Sau một phút tếu táo, linh mục Tự khẳng định với một giọng nghiêm chỉnh.
 - Đúng thế: Tôi chẳng làm gì trong công tác truyền giáo này. Chính đứa con nít đưa người ta vô đạo. Chính bà già dốt đặc cán mai đã dẫn người ta theo đạo. Chính những người ít ăn ít học truyền đạo. Tất cả chỉ là sức mạnh của đặc sủng. Sau đó linh mục Tự trở về với giọng dí dỏm cố hữu, kể lại những câu chuyện vụn vặt cụ thể, để minh chứng cho lập luận trên của mình.
 Nhưng cuối cùng, linh mục cho biết rằng : có rất nhiều người trở lại vì trước đây đã có những kỷ niệm đẹp về đạo của Chúa. Có người hôm nay theo đạo vì trước kia đã học trường đạo; lại có những người khác nữa theo đạo vì cảm phục một tấm gương của một chứng tá Tin Mừng nào đó. Linh mục Tự khoái chí kết luận :
 - Hôm nay tôi sung sướng được thu hoạch một mùa bội thu do công lao mồ hôi nước mắt của những người vô danh mà tôi không thể biết được.
 Mình tin lời ông Tự, nhưng mình vẫn còn có nhiều thắc mắc. Hy vọng thời gian sẽ trả lời.

Ngô Phúc Hậu, Lm.

Thứ Sáu, 16 tháng 8, 2013

HỔNG DÁM ĐÂU


HỔNG DÁM ĐÂU
Piô Ngô Phúc Hậu
Trích BGCN TGP SG

  Một người đàn bà tuổi U50 lấp ló ở khung cửa sổ. Mình vội vàng đi ra.
-         Chị Hai đi đâu vậy?
-         Cha cho con xưng tội.
-         Chị xét mình chưa?
-         Xét mình là gì, con chưa nghe.
-         Như vậy thì chị ngồi xuống đây, tôi xét mình dùm cho. Chị xưng tội lần nào chưa?
-         Chưa.
-         Chị được Rửa tội hồi nào?
-         Hồi trước tết.
-         Vậy là được năm tháng rồi.
-         Chị có đi lễ Chúa Nhật không?
-         Có xuồng đâu mà đi. Nhớ nhà thờ muốn chết.
-         Thế có đọc kinh sáng kinh tối không?
-         Đọc hoài à. Ngày nào con cũng đọc cuốn Tân Ước cha cho đó.
-         Thế thì chị có những tội gì?
-         Con chỉ có một tội là hay rầy la tụi nó.
-         Có giận ghét, có nói xấu ai không?
-         Không. Bà con xóm giềng ai cũng thương con hết.
-         Có ăn cắp trái cà, trái ớt của ai không?
-         Cho người ta thì có.
-         Hỏi thiệt chị nha. Có khi nào mơ ước gian dâm ngoại tình không?
-         Hổng dám đâu, cha hỏi gì mà kỳ dzậy. Từ ngày vô đạo tới giờ con có dám gì nữa đâu.
-         Xin lỗi chị nha. Như vậy là chị Hai đã sống đạo thiệt tình.
-         Lối xóm ai cũng biểu là con được ăn Bánh Thánh nên đổi đời như rắn lột da vậy đó.
-         Mình mời chị Hai ra nhà thờ xưng tội. Giải tội xong, mình cứ ngồi lỳ ở tòa. Nhưng xoay người hướng về phía nhà tạm, tâm tình với Chúa. Mình tả oán với Chúa rằng: Con khổ vì người đàn bà này nhiều lắm. Nhiều người phiền trách con :
·                Ham rửa tội cho nhiều để lấy số lượng mà quên phẩm chất “quí hồ tinh, bất quí hồ đa”. Rửa tội rồi mà chẳng biết cách xưng tội. Kinh thì chỉ thuộc nhấp nhem.
·                Làm dấu Thánh Giá thì nghiêm chỉnh hơn cả đạo dòng. Nhưng hỏi Đức Giêsu có mấy tính thì chả biết. Hỏi bảy ơn Chúa Thánh Thần là gì thì cũng mù tịt.
·                “Tên thánh của nó là Têrêsa, mà hỏi nó có biết bà thánh Têrêsa là ai không, thì nó chỉ biết lắc đầu”.
·                “Đạo gì mà chẳng biết đi lễ Chúa Nhật.
Hôm nay được gặp lại chị này, được giúp chị xét mình xưng tội, con mới thấy chị có một tâm hồn đẹp quá chừng. Câu nói thảng thốt “hổng dám đâu” làm con giật mình suy nghĩ. Câu nói chân tình: “Từ ngày vô đạo con có làm gì nữa đâu” khiến con an tâm quá chừng. Con muốn mời mọi người đọc kinh rông rổng đến đây để nghe chị ấy phản ứng như một phản xạ: “hổng dám đâu”.
      Và rồi mọi người sẽ không còn lên lớp con nữa.
Cũng chẳng còn ai dám bắt chị ấy phải đi lễ Chúa Nhật, vì : “có xuồng đâu mà đi”.

Thứ Ba, 13 tháng 8, 2013

BÔNG HOA LẠ TRÊN ĐỐNG GẠCH VỤN


Bông hoa lạ trên đống gạch vụn
Lm Piô Ngô Phúc Hậu
VCN

Mình ngồi tâm sự với cha Phaolô Nguyễn Quốc Anh, giám đốc Caritas giáo phận Hưng Hóa. Tách nước trà của ông Quốc Anh thì đặc quánh và đắng nghét. Mình chỉ dám nhấm nháp từng giọt, từng giọt. Chuyện ông kể thì cay sè, nhưng mình lại say mê nghe và ghi nhớ từng lời, từng lời.

I. Chuyện về một đống gạch vụn ngổn ngang.

Cha xứ Cốc Lếu dẫn phái đoàn Caritas Hưng Hóa đi thăm một gia đình dân tộc Hán ở Xóm Mới, xã Mường Khương, huyện Mường Khương, tỉnh lào Cai, ngay sau cơn mưa đá dữ dội xảy ra đêm ngày 26/3/2013. Con đường dài trên 30 cây số: đường tráng nhựa, nhưng nhỏ hẹp và ngoằn ngoèo như con rắn bò. Bò mãi mới tới một căn nhà tuềnh toàng: nồi niêu xoong chảo lăn lóc; áo quần vắt vẻo trên dây tùm lum. Căn nhà tuềnh toàng ấy lại là một nhà kho chất chứa biết bao nỗi khổ của loài người.
 Thống khổ một: Ông Lồ Khái Phủ, 91 tuổi, góa vợ - ông ngồi gật gù, không muốn nói chuyện. Ông tủi thân nhớ lại quá khứ nghèo nàn. Ông tức tưởi nhìn một bầy con sống vật vờ: đứa thì mắc bệnh tâm thần; đứa thì câm; đứa thì điếc; đứa vừa câm vừa cụt chân. Chẳng bữa cơm nào đủ no. Chẳng có bộ quần áo nào lành. Ông vừa muốn chết để khỏi thấy kiếp sống đọa đày, vừa muốn sống đến trăm tuổi để thấy mình còn có cái gì đó hơn người ta. Sống cũng khổ. Chết cũng khổ. Cái khổ nào cũng to như núi. Cái khổ nào cũng mênh mông như biển cả…
 Thống khổ hai: Đứa con trai đầu lòng của ông là Lồ Sẻo Xì năm nay đã được 57 tuổi, nhưng vẫn sống như đứa trẻ thơ chưa có tuổi nào. Đầu thì hói, trán thì cao, cứ tưởng là triết gia, nhưng chỉ là cái sọ rỗng tuếch, ngờ nghệch. Cặp mắt thì lờ đờ, chỉ biết nhìn xuống, chẳng dám nhìn lên. Râu và ria mọc vô trật tự y như một nghệ sĩ lãng mạn, nhưng dường như nghệ sĩ ấy chưa có linh hồn. Chân tay oặt oẹo chưa bao giờ biết đứng thẳng là gì. Chỉ biết ăn bám, chỉ biết sống nhờ, nhưng lại ngơ ngơ chẳng biết ai cho mình ăn…
 Thống khổ thứ ba: Đứa con thứ hai là Lồ Thị Mửng, năm nay đã 50 tuổi, vừa câm, vừa xấu gái. Đã không biết nói, lại còn hơi ngơ ngơ. Có lúc cười thật đẹp, mà có lúc lại cười vô duyên. Và …dường như không biết làm đẹp là gì. Bởi thế chẳng có người đàn ông nào chiếu cố. Đành một mình vui buồn với cái cuốc, cái liềm trên mảnh vườn nhỏ như cái bàn tay ếch…
 Thống khổ bốn: Đứa con thứ ba là Lồ Thị Pà, năm nay đã 46 tuổi, nhưng vẫn sống độc thân, không chồng, không con. Cái mặt nhìn nghiêng thì dường như có duyên. Nhưng khổ một nỗi là vừa câm, lại vừa cụt một chân. Trí khôn thì tỉnh táo, hơn hẳn ông anh và bà chị, nhưng khôn hơn mà chẳng sướng hơn, vì khôn là chỉ để thấy mình cụt và câm. Lao động thì chẳng bằng bà chị, mà ăn thì chẳng thua ai. Mặc cảm đầy mình!
 Thống khổ năm: Đứa con thứ tư là Lồ Thị Sửu, năm nay cũng 46 tuổi như bà chị. Không câm, không cụt như bà chị, nhưng lại điếc, điếc trăm phần trăm. Bà là người con gái may mắn nhất của cụ Lồ Khái Phủ, vì bà có chồng và có con. Chồng thì khỏe mạnh và cần cù để gánh vác hết một tập thể tật nguyền. Nhưng dường như quá nặng, khiến vai ông phải oằn xuống và cặp mắt của ông cũng chẳng dám ngước lên để nhìn đời…
 Thống khổ sáu: Đứa con út của cụ Phủ là anh Lồ Dung Túng, đứa con may mắn nhất vì không tật nguyền và có vợ có con như ai. Nhưng vẫn như trốn tránh gia đình, vì quá nghèo không đủ sức để chia cơm xẻ áo…Đành chịu mang tiếng là thiếu tình ruột thịt.

II. Chuyện kể về một bông hoa trên đống gạch vụn.

Sau khi ủ rũ kể chuyện về một gia đình chồng chất nỗi thống khổ, linh mục Q. Anh lại cười toe toét kể về hai đưa con gái của bà điếc Lồ Thị Sửu, đó là hai em: Lồ Mai Duyên và Lồ Thị Múi. Em Duyên học lớp 8, em Múi học lớp 6 – cả hai em đều là học sinh giỏi và ngoan. Giỏi – ngoan – nghèo là đối tượng số một của Caritas Hưng Hóa. Vì thế khi nói về em Duyên, linh mục Q. Anh dang tay, hứng khí kể: “ Khi phái đoàn đến thăm, một mình em Múi kể chuyện về gia đình như một MC – Em đi tới đi lui, đi ra đi vào, vừa rót nước mời khách, vừa niềm nở giới thiệu từ ông ngoại, đến ông bác, ông chú, và các dì. Em mô tả rành mạch tật nguyền và khả năng lao động của từng phần tử trong gia đình…Em kể chuyện học hành của bản thân em và của bé Múi. Em là ngôi sao sáng rực giữa một đêm tối mịt mù. Em là bông hoa lạ mọc lên từ đóng gạch vụn ngổn ngang”.
 Chuyện kể chưa xong, thì có tiếng nhạc trổi lên từ trong túi quần của linh mục Q. Anh báo hiệu có người muốn nói chuyện. Mình tủm tỉm cười và dí dỏm hỏi:
 - Ai dám chui vào đấy mà nói chuyện vậy?
- Có tin buồn từ cha Thành, Lào Cai: Ngoài việc mưa đá xảy ra đêm 26/03/2013 đã giập tanh bành căn nhà của cụ Lồ Khải Phủ, thì nay lại thêm một tin buồn là cụ Phủ vừa qua đời. Thế là một thống khổ đè lên một thống khổ!
- Caritas tính sao đây?
- Thì phải cấp tốc lo cho gia đình ông ấy một mái ấm tàm tạm đã…
 Mình giã từ linh mục Q. Anh, về phòng riêng, ngồi ngẫm nghĩ một mình. Nỗi đau của hôm nay thì ngổn ngang như thế. Nỗi đau của hôm nay còn kéo dài cho tới khi nào? Và…Còn tương lai thì dài vô tận. Mình chạnh nghĩ đến em Duyên và em Múi: hai người thoát nạn lạ lùng của một tai nạn khủng khiếp; hai bông hoa bỗng dưng lại mọc lên từ đống đổ nát ngổn ngang. Đẹp quá! Quý quá! Nhưng làm thế nào để hai bông hoa ấy mãi mãi tỏa hương, mãi mãi khoe sắc?...

Thứ Hai, 12 tháng 8, 2013

PHỤ NỮ


Nhật ký Truyền giáo
PHỤ NỮ
Lm. Pio NGÔ PHÚC HẬU
-------------------------------------------------------
Cà Mau, …
Hôm nay mình đọc xong cuốn “Mùa gió chướng” của Nguyễn Quang Sáng. Mình thích  Nguyễn Quang Sáng vì ông luôn luôn tìm được lý do để vui cười ngay cả  khi đang đứng bên bờ vực thẳm của sự chết: cô du kích không sợ súng Mỹ, nhưng lại hết hồn khi thấy con đỉa; cô cán bộ giao liên nhảy xuống đìa để tránh trực thăng Mỹ, nhưng lại không chịu hụp xuống nước, hoặc chui vào bờ bụi, vì cô tiếc cái mớ tóc mới chải dầu dừa… Nhưng mình nhớ để đời câu nói sau đây của Nguyễn Quang Sáng : “Đàn bà như sao trên trời…”
Sao trên trời thì vừa dày vừa sáng. Nhưng nó chỉ thật dày và thật sáng vào những đêm thật tối trời. Người đàn bà cũng vậy: họ chỉ ra tay anh hùng khi gia đình và đất nước lâm nguy. Thôi thì thượng vàng hạ cám, cái gì họ cũng làm được. Họ có thể buôn vàng, buôn đô la, rồi lại bán thịt, bán cá, ngồi quạt chuối nướng, ngồi bán ốc, bán bún… Trong khi đó các đấng mày râu chỉ biết thượng vàng mà không thể hạ cám.
Ừ, mà thế thật. Trong lúc cán bộ phái nam phải chui vào hầm để lẩn trốn, thì cán bộ phái nữ vẫn hoạt động khơi khơi: ra thành đấu tranh chống pháo kích và càn quét; giao liên từ tỉnh đến tỉnh, từ khu đến khu… Vào thời Tự Đức, khi các linh mục chui lủi trong vách kép, thì các chị Mến Thánh Gía vẫn đem thư của giám mục đến các họ đạo. Và hôm nay tại họ đạo của mình:  mình đào nương, bà phước cũng đào nương; mình đi gặt, bà phước cũng đi gặt. Nhưng khi bà phước ngồi bán bún riêu và quạt bánh đa, thì mình giơ tay đầu hàng… Vậy mình phải nghĩ thế nào về vai trò của phụ nữ trong Giáo hội hôm nay ?

Cà Mau, … 1994

Hôm nay một ông bạn không cùng tín ngưỡng đã đến thăm mình. Không cùng tín ngưỡng, những lại rất thân, đến mức độ có thể xưng hô bằng “cậu, tớ”. Anh thắc mắc đủ điều: nào là “Tại sao linh mục không có vợ”. “Tại sao phụ nữ không làm linh mục ?”…Anh kết luận :
- Như vậy là trong Giáo hội  sẽ không có bình đẳng nam nữ, bao lâu phụ nữ chưa được làm linh mục.
- Theo tôi nghĩ thì vấn đề là :  người phụ nữ có nên làm linh mục hay không, chứ không phải là người phụ nữ có được làm linh mục hay không ? Chính vì thế mà người phụ nữ Việt Nam không hề than phiền khi Nhà nước không đòi hỏi họ phải thi hành nghĩa vụ quân sự như nam giới. Nên quan niệm chức linh mục là một nhiệm vụ hơn là một vinh dự. Mỗi người, mỗi phái chỉ nên lãnh những trách nhiệm hợp với khuynh hướng và khả năng của mình.
- Anh nói có lý, nhưng tôi vẫn chưa hài lòng.
- Chính tôi cũng đã hài lòng đâu, bởi vấn đề phụ nữ là vấn đề của thời đại, đâu có giản dị như thế.
- Như vậy là đánh trống bỏ dùi hả ?
- Không phải tôi bỏ dùi, mà dùi gãy rồi !
Thế là xong. Câu chuyện chuyển hướng sang đề tài đời thường.

Sơn Tây, … 1993

Vũ Tất kể cho mình nghe :
- “Các bà Hơmông truyền giáo hăng say lắm. Cứ hết mùa gặt các bà lại đeo gùi lên vai, rồi đi bộ từ Yên Bái qua Sơn La, từ Sơn La qua Lai Châu. Các bà coi cánh đàn ông chẳng ra gì cả. Các bà ấy bảo chồng thế này :  Các ông ở nhà để chúng tôi đi truyền giáo cho. Đàn bà chúng tôi thì ăn ít, nói nhiều. Còn đàn ông thì nào ăn, nào uống, nào hút. Ăn, uống, hút cũng hết giờ rồi, còn truyền giáo cái gì nữa…”
- Mình thấy các bà Hơmông nói hay thật. Họ tự thú là đàn bà nói nhiều, nhưng lại biết hướng tật nói nhiều ấy sang sứ vụ truyền giáo.
- Họ tố cáo dàn ông cũng đúng luôn. Đàn ông Hơmông có cái tật hút thuốc phiện. Có người sạt nghiệp vì hút thuốc phiện đấy.

Hiền Quan, … 1989

Sáng nay mình đang ăn lót lòng với ông trùm ở trong phòng, thì bà quản từ ngoài cổng đi vào, cắt ngang sân để xuống nhà bếp. Ông trùm nói vọng ra :
- Sướng nhá !  Hôm nay không ăn cũng no nhá !
- Sách “Tháng Đức Bà “ cũng chả cho người ta đọc !
Hai câu đối đáp vu vơ làm mình ngẩn ra một lát. À !  thì ra bài giảng tối hôm qua đã gây tiếng vang dữ dội trong họ đạo. Mình nói về thái độ của Chúa Giêsu đối với người phụ nữ. Mình than phiền vì thấy tại quê hương mình người phụ nữ chẳng hề được đối xử công bằng như Đức Giêsu đã làm :
+ Trong Hội đồng giáo xứ không hề có người phụ nữ nào. Vài trò quan trọng nhất của họ chỉ làm “bà quản dâng hoa”.
+ Họ không được dọn dẹp trong khu cung thánh.
+ Nếu đọc sách thánh, thì họ không được đứng trên giảng đài.
+ Ngay trong nhà bếp họ cũng chỉ nấu cơm, nấu nước và rửa bát đĩa. Mổ gà, chiên cá, làm gỏi, đánh tiết canh… đều do cánh đàn ông đảm trách.
Mình nghiệm ra rằng có một sai lầm rất lớn trong “hội nhập văn hoá”. Xã hội Việt Nam ảnh hưởng sâu đậm văn hoá Khổng-Mạnh. Ở đó “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”. Ở đó “Người phụ nữ phải ở trong nhà thì xã hội mới yên”. Lẽ ra người truyền giáo phải lấy tinh thần kính trọng phụ nữ của Chúa Giêsu để nâng người phụ nữ trong xã hội Việt Nam lên, thì ngược lại họ lấy tinh thần trọng nam khinh nữ của văn hoá Khổng-Mạnh để trùm lên trên Phúc Âm và cơ chế họ đạo.

Sơn Tây, … 1993

Trong buổi họp, anh em linh mục Hưng hoá bàn về việc tổ chức kỷ niệm 100 năm thành lập giáo phận (1895-1995). Một trong các sinh hoạt dự tính là mở đại hội Ban Hành Giáo toàn giáo phận. Giáo phận cơ hơn 400 họ đạo. Mỗi họ đạo cử hai đại diện về dự đại  hội. Như vậy là có chừng từ 800 đến 1.000 thành viên Hội đồng giáo xứ tham dự. Và toàn là đàn ông. Mình nghĩ ngay đến một tấm hình chụp thật vĩ đại: một ngàn thành viên Hội đồng giáo xứ !  Thật là trùng trùng điệp điệp !  Đó là sức mạnh của giáo phận. Tuyệt vời !  Nhưng bỗng mình thấy có cái gì không ổn.
- Ủa !  Một ngàn thành viên Hội đồng giáo xứ mà không có một người phụ nữ nào sao ?  Có bình thường không nhỉ.
Bỗng mọi người ngẩn ra và cùng cười hì một cái.

(Trích NHẬT KÝ TRUYỀN GIÁO)

Thứ Bảy, 10 tháng 8, 2013

CHA NGÔ PHÚC HẬU


NĂM THÁNH HÓA LINH MỤC, ĐI NGHE CHA PIÔ HẬU NÓI VỀ NHỮNG KINH NGHIỆM TRUYỀN GIÁO CỦA LINH MỤC

Giảng đường Lầu 1 của Trung Tâm Mục vụ hồi 14 giờ chiều ngày 10/10/2009 không còn chỗ trống. Thậm chí, sơ Hồng Quế và Ban tổ chức đã phải liên tục kê thêm rất nhiều ghế đơn ở đằng sau cho những người tới trễ, đến nỗi tràn ra cả ngoài hành lang để nghe Cha Piô Ngô Phúc Hậu trình bày về đề tài: “Kinh nghiệm truyền giáo của Linh mục” trong Chương trình Nói chuyện chuyên đề cuối tuần.
Ảnh minh họa (internet)
Từ lâu, Linh mục Ngô Phúc Hậu đã là một cái tên rất quen thuộc, thân thương và gần gũi. Cái gần gũi trước hết là qua các tác phẩm của ngài. Với văn phong giản dị và dí dỏm, đầy hình ảnh đời thường, lại được chuyển đi với cả một tấm lòng yêu người và thương đời thiết tha, chính điều này đã tạo ra những lôi cuốn và lay động không nhỏ.
Quả thật, văn đúng là người nơi Cha Piô. Với những giản dị đến tềnh toàng của một Hai lúa vùng Năm Căn Cà Mau đã nhiều thập niên “đi lội ruộng truyền giáo”, Ngài bắt đầu kể chuyện.
Chuyện cái rốn và Bí tích Thánh Thể 
Bí tích Thánh Thể là lương thực hằng ngày không thể thiếu cho tâm hồn của người Công giáo, nhưng đối với người lương dường như lại là những điều ghê sợ khó có thể chấp nhận được, vì ai lại đi ăn thịt và uống máu người bao giờ? Điều kỳ diệu có nguy cơ biến thành kỳ cục nếu không biết trình bày.
Cha Piô đã hóa giải điều ấy bằng cách nói về sự sống của thai nhi. Người ta thường nói chín tháng mười ngày cưu mang, nhưng chính xác là 278 ngày bào thai ở trong lòng mẹ. Suốt thời gian ấy, bào thai được nuôi dưỡng bằng máu của người mẹ thông qua nhau thai, có chức năng như một nhà máy lọc máu bởi cuống rốn.
Vậy thì, rốn để làm gì? Người thì bảo rốn để xức dầu cù là, kẻ lại nói vui, rốn để cho chuồn chuồn cắn nhằm biết bơi. Thực ra, rốn chính là cửa khẩu đã mở ra để nuôi dưỡng thai nhi, giờ không cần thiết nữa thì nó đóng lại. Như thế, thai nhi đã được dưỡng nuôi và phát triển bằng máu của chính mẹ mình, nên có thể nói, ai cũng đã từng “uống máu” ngay từ khi vừa được tượng hình trong dạ mẹ một cách tự nhiên, chẳng có gì ghê sợ.
Tình mẫu tử thật thiêng liêng cao cả. Người mẹ nào chẳng mong luôn được bên cạnh, che chở cho con mình, muốn bản thân và đứa con yêu dấu trở nên như một. Nhưng những ước mong ấy đã thất bại ngay từ khi hài nhi được sinh ra, tách khỏi cung lòng người mẹ, và càng thất bại hơn nữa khi đứa con dần trưởng thành, ngày một rời xa mẹ mình.
Thế nhưng, với tình yêu vô biên và ý muốn của Chúa, điều thất bại ấy đã trở nên sự thành công kỳ diệu, dường vượt xa tưởng tượng của con người: “Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi sẽ có sự sống đời đời”. Những lời đó Chúa không nói đùa. Và ngay trong bữa tiệc biệt ly giữa thày và trò để đi chịu chết, Người còn nói rõ và thiết tha hơn nữa: “Anh em hãy làm việc này để nhớ đến Thày”.Chúa đã lập nên Bí tích Thánh Thể, tạo sự kết hợp nên một giữa Người và chúng ta mãi mãi.
Vì thế, khi lãnh nhận Bí tích Thánh Thể, khi ta ăn thịt và uống máu Chúa, ai cũng có quyền nói rằng, râu của tôi, tóc tai của tôi, mắt mũi và toàn thân thể của tôi đã trở thành của Chúa. Cũng vì thế, ăn thịt và uống máu Chúa thông qua Bí tích Thánh Thể chính là một sự kết hợp nên một rất tự nhiên vậy. Qua đó, cái khó hiểu nhất, buồn cười nhất đã trở thành dễ hiểu và hoàn toàn tin được.
Thánh lễ - Dịp để người tín hữu quây quần tỏ lòng thảo hiếu với Thiên Chúa là Cha
Không phải người tín hữu nào cũng hiểu rõ ý nghĩa và sự cần thiết của Thánh lễ Misa, và người lương càng khó có thể hiểu tại sao lại phải cần dự Thánh lễ.
Rất sinh động, ngài đã kể chuyện về một gia đình gồm người mẹ với những đứa con hiếu thảo. Cha Piô đã giúp cho mọi người hiểu rõ hơn về sự cần thiết của Thánh lễ, cũng như những ơn ích mà Thánh lễ mang lại. Những người con hiếu thảo, dù đi đâu hoặc ở đâu, đến ngày lễ tết, giỗ quảy cũng phải tìm về nhà thăm mẹ mình. Về nhà cha mẹ, để tỏ lòng yêu thương, thảo hiếu, để người con thể hiện lòng biết ơn công lao dưỡng dục sinh thành. Về thăm nhà cha mẹ cũng là để tạ lỗi với các ngài những điều vấp phạm, và cũng để xin cha mẹ những điều này, điều kia.        
Người tín hữu đến nhà thờ cũng gồm những mục đích tương tự, nhưng cao cả hơn khi tin Chúa là Cha, nên họ đến nhà thờ chính là về nhà cha mẹ  mình. Vì thế, không đi lễ là bất hiếu vì không về thăm cha mẹ. Tham dự Thánh lễ ngày Chúa Nhật chính là đi thăm cha mẹ, là tỏ lòng hiếu thảo với Thiên Chúa là Cha vậy.

Và những câu chuyện khác… 

Cứ thế và cứ thế, Cha Piô đã phối hợp các lý giải khoa học và những hình tượng cụ thể như con sâu, con nhộng, con bướm để giải thích một cách đơn giản và dí dỏm về những điều cao siêu khó hiểu như Đức Mẹ đồng trinh, hoặc chuyện bảy anh em cùng lấy một người phụ nữ, sau này, khi sống lại, người phụ nữ kia sẽ là vợ của ai trong bảy người ấy…
Và vẫn mãi như thế, trong suốt hành trình truyền giáo của mình, ngài đã kể chuyện về Đức Kitô bằng ngôn ngữ dân gian bình dị, với những hình tượng địa phương đời thường gần gũi, bằng những lý giải khoa học đơn giản dễ hiểu. Đặc biệt, tính dí dỏm và sinh động là không bao giờ thiếu trong những câu chuyện của Cha Piô, làm ai cũng thích nghe. Nhiều lần, những tràng pháo tay tán thưởng đồng tình vang lên trong giảng đường đã ngắt quãng lời ngài đang nói.
Đặc biệt hơn nữa, Cha Piô đã nhấn mạnh rất nhiều lần, việc kính trọng, yêu thương và đề cao các tôn giáo khác là điều không thể thiếu trong công việc truyền giáo của mình.
Ngài cũng nói đến những sai lầm khủng khiếp đã tồn tại gần 500 năm, qua cuốn Phép giảng tám ngày của cha Đắc Lộ, mà ở đó, nơi quyển thứ tư, đã cho rằng Phật Thích Ca là tên gian dối và xếp hạng Đức Phật ngang với Bụt, thần và ma quỷ. Cả những kinh đọc hàng ngày, mà theo đó, đã coi dân ngoại là dân không thể được cứu độ vì không ở trong Hội Thánh.
Dù những điều đáng tiếc về lịch sử này đã được điều chỉnh từ sau Công Đồng Vaticano II và ĐGH Phaolô VI cũng đã chính thức lên tiếng, nhưng các hệ lụy của nó không dễ phai mờ trong một sáng một chiều. Những điều ấy đã ảnh hưởng không nhỏ cho công cuộc truyền giáo hôm nay.        

Phần giao lưu        

Nhiều cánh tay đã giơ lên, cũng có cả những thắc mắc được viết lên giấy để xin được giải đáp và chia sẻ giao lưu. Có 3 câu hỏi đáng chú ý:        
1/ Có nên bái khi vào chùa?          
Đáp: Cứ việc cúi chào như mọi người, vì Phật dù đã được xem là một đại ân nhân của nhân loại, nhưng cũng chỉ là một con người. Nhưng phải thận trọng, kẻo sẽ gây gương mù gương xấu.        
2/ “Cha mẹ sinh con, trời sinh tính”. Chưa hẳn như thế đâu, vì cha mẹ góp phần không nhỏ trong việc hình thành tính cách cho người con.        
Nếu thụ thai tốt, sinh đẻ tốt, giáo dục tốt, nhiều khả năng người con ấy sẽ trở thành người tốt và ngược lại.  
3/ Khi đi đám tang người ngoại giáo, người ta thường đưa mấy nén nhang để bái Phật, nên hay không ?      
Đáp: Cũng như câu hỏi 1, hãy hết sức thận trọng, kẻo sẽ gây gương mù gương xấu.          
Phần giao lưu mỗi lúc một thêm thú vị và hữu ích, nhưng thật tiếc, sơ Hồng Quế báo, đã gần hết giờ. Buổi giao lưu đành phải tạm ngưng.

Vài tâm tình và một chút liên tưởng

Được đọc các tác phẩm, lại được nghe Cha Piô nói và cả được biết lối sống trong sinh hoạt hàng ngày của ngài, nhiều người đã liên tưởng đến Michel Quoist, vị linh mục đã được coi là một Hiền nhân với cách dùng ngôn ngữ hình tượng tuyệt vời. Một tác giả đã cho rằng, trong tương lai, ngôn ngữ tôn giáo phải là ngôn ngữ hình tượng, thứ ngôn ngữ mà Lão tử, Đức Phật và Chúa Giêsu vẫn thường sử dụng qua các dụ ngôn. Điều này là quá đúng, nhưng có gì lạ đâu, vì như thế cũng chỉ là trở về nguồn cội của ngàn năm trước mà thôi.
Nhưng liên tưởng cũng chỉ để liên tưởng, vì sự so sánh nào cũng sẽ trở nên khập khiễng. Hãy thử đọc lại một đoạn rất quen thuộc trong “Hãy nói với tôi về Tình yêu” (Parlez moi d’Amour) của Hiền nhân Michel Quoist để thấy rõ điều này, và từ đó, sẽ giúp khắc họa và tô đậm thêm hình ảnh Cha Piô Hai Lúa Ngô Phúc Hậu hôm nay:
“ Nếu mỗi nốt nhạc âm thầm tự nghĩ, một nốt nhạc chẳng làm nên một bản tình ca…thì sẽ chẳng bao giờ hình thành bản giao hưởng ngọt ngào bay bổng.
Nếu mỗi viên đá chán ngán nghĩ thầm, có đâu một viên đá làm nên nổi bức tường…thì sẽ chẳng bao giờ ngôi nhà xuất hiện.
Nếu giọt nước buồn phiền tự nhủ, một giọt nước làm sao kiến tạo nổi dòng sông…thì sẽ chẳng bao giờ đại dương hiện hữu.
Và nếu mỗi con người thì thầm tự nghĩ, làm sao cứu vớt được tất cả chúng sinh, chỉ bằng một cử chỉ yêu thương nhỏ bé của mình…thì sẽ chẳng bao giờ có bình an và công chính, phẩm giá và hạnh phúc trên mảnh đất loài người….”
Ngoài kia, nhà “lội ruộng truyền giáo” đang hối hả chuẩn bị trở về Cà Mau, dù trời chiều đã muộn, dù cơn bão số 10 vẫn chưa thực sự đi qua với mây đen đang vần vũ trên đầu.
Mọi người nhìn theo cái dáng lom khom già nua của Cha Piô Ngô Phúc Hậu đang chậm rãi xuống lầu, ai đó chợt thấy, đã có cái gì cay cay nơi sống mũi mình.
Xin tạm biệt một người con xứ Bắc, đã được bà con nơi miền cực Nam đất nước luôn hết lòng yêu thương quý mến, chỉ vì người con ấy đã giúp tỏa sáng sứ điệp yêu thương của Đức Kitô nơi nào có mặt.
Mọi lời nói và chữ viết lúc này,chưa bao giờ vô duyên và thừa thãi đến thế.

Xuân Thái
NGUỒN : (tại đây)