#Stats1 ul{margin:0;border:0;padding:0;height:32px;background:url(//goo.gl/ZHG881) no-repeat 0 -34px} #Stats1 li{margin:10px 0;border:0;padding:0 0 0 40px;list-style-type:none} #totalComments{height:32px;background:url(//goo.gl/ZHG881) no-repeat} #totalCount{height:32px;background:url(//goo.gl/ZHG881) no-repeat 0 -68px}
Hiển thị các bài đăng có nhãn Bút ký. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Bút ký. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 27 tháng 1, 2015

CÓ NGHE CON MÌNH KHÓC ?


CÓ NGHE CON MÌNH KHÓC ?

Từ trên nhìn xuống, không biết mọi ngày thì sao chứ hôm nay con thấy nhà thờ thật là vĩ đại, người đông kinh khủng mà trật tự, yên lặng trang nghiêm quá chừng. Con thấy hãnh diện vì biết mọi người trân trọng Thánh Lễ này, Thánh lễ cha dành cho chúng con, cha cùng mọi người dâng Lễ tiễn đưa chúng con. 
Nãy giờ tụi con bảo nhau giữ yên lặng, đừng ngọ ngoạy, có nhiều em không yên, ý là bầu không  khí này quan  trọng quá, con nít sợ. Con nói ngồi im kẻo rớt nơ rơi Thánh giá bây giờ, tụi nó nín khe vì còn sợ bung cả áo đẹp nữa. Hôm nay  tụi con được các anh chị ca đòan và giáo lý viên mặc áo đẹp cho, mỗi đứa một màu, một kiểu, em nào cũng được thắt nơ ở cổ, nơ dài và sặc sỡ thấy mê luôn. Nhìn chung, hết thảy tụi con đều đẹp, nhưng con thấy con đẹp nhất ( vì con bự nhất á, há há, thấy thương luôn ha cha !) , kế đến là Tài và Lộc, cũng to nhất nhì, í, thua con thì phải nhì chớ nhất sao được.
Có mấy đứa sốt ruột kêu sao lâu quá không Lễ cha ơi, hồi sau có vẻ sự nhộn nhạo nhốn nháo muốn nổ ra, con nhắc to, trật tự đi các em, nhìn lên bàn thờ đi, đừng quậy cha ra cha la bây giờ. Nói vậy cho bọn nhỏ sợ, chứ con biết cha sẽ không la. Cha thương tụi con cha mới mang tụi con về nhà cha. Thời gian qua, biết bao nhiêu quậy phá mà cha có quát tháo gì đâu, cha chỉ nhắc bảo thôi. Tội nghiệp cha, tội nghiệp những cô bà chú bác, các anh các chị cất công đi xin, đi mang chúng con về đây, nên nhiều lúc chúng con cũng thương mọi người lắm. Chúng con sẽ cầu nguyện cho mọi người. Cám ơn mọi người. 
Hôm nay chắc chắn chúng con sẽ nhận được nhiều lời cầu nguyện chung riêng, phải vui thôi. Đời buồn quá, nhưng phải vui thôi, vì ai cũng thương tụi con mà. À không, có một người, đó là mẹ !
Con xin lỗi Chúa, đôi khi con nghĩ mẹ con không thương con. 
Con thương mẹ quá trời luôn, sao mẹ nỡ bỏ con ? 
Mẹ đâu biết mỗi lần mẹ buồn ói con co ro dúm người để giúp mẹ đỡ mệt!
Mẹ đâu biết mỗi cơn mệt của mẹ làm con đau đớn và thương mẹ biết chừng nào!
Mẹ đâu biết những khi mẹ khóc con rất muốn kéo vạt áo mẹ lau nước mắt cho mẹ !
Mẹ đâu biết mỗi lần mẹ bị người lớn la mắng, con chỉ muốn dang tay bảo vệ mẹ!
Mẹ ơi, sao mẹ vội vàng quyết định vậy ? Mẹ bỏ con rồi, con phải chết thôi. 
Mẹ ơi, mẹ có nghĩ đến 
kể từ lúc đó, mẹ để cho người ta chặn hơi thở của con, người ta cắt đứt sự sống của con, mẹ mất con rồi còn đâu !
Con tuy lớn hơn các em bé trong phòng  nhưng con mới có 6 tháng, con bé tí à, ai cũng nói bụng mẹ gọn mà ! Vì sao mẹ bỏ con vậy, có phải ba không thương mẹ nữa ? Có phải bà Ngoại bắt mẹ phải đi học tiếp ? Hay mẹ còn muốn rảnh rang để đi chơi với bạn mẹ ?
Mẹ ơi, con nhớ mẹ nhiều, con thèm ở trong bụng mẹ, con muốn nghe mẹ nói hòai mà, sao mẹ để cho người ta lôi con ra ? Tội nghiệp con mà mẹ.
Rồi, cuối cùng cũng xong Lễ, vừa trọn tâm tình con tỉ tê nãy giờ.
Tối hôm qua, nghe cha xứ nói mai là Lễ Chôn Cất Thai Nhi, thế nào ba mẹ con cũng tới, con khóc tu tu, cha cũng rướm nước mắt. Mẹ có thấy cảm động không? Mẹ đâu rồi ?
Bây giờ đây mỗi đứa chúng con được một vị đón lấy, nâng trên tay để bưng chúng con ra nghĩa trang, mọi người đi thành hai hàng dài. Con được một cô ca đòan bưng, cô vừa đi theo đòan người, vừa đọc kinh , con không biết cô cầu nguyện cho ai, cho con hay cho ba, cho mẹ ?
Tới nơi, cha xứ tới bàn thờ đọc vài nghi thức, nói vài câu, rồi trong khi ca đòan hát thì mấy chú bắt đầu nhận từng chúng con đặt vào huyệt mở sẵn. Mọi người ở trên nhìn xuống , chúng con được xếp nằm cạnh nhau, hơi chật thì chú xếp chỗ nhẹ nhàng, nâng niu sắp đặt lại cho chúng con không đè lên nhau. Buồn quá, sắp phải xa mọi người rồi!
Chú ấy bắt đầu đổ cát lên chúng con, san bằng dần…Mẹ ơi, con bị chôn rồi !
Khi người ta đổ vào huyệt mộ tới lớp xi măng thì tôi không còn nghe thấy BÉ nói nữa, hình như nó đang khóc, và nhiều tiếng nức nở theo…
Những người mẹ trẻ phá thai có nghe thấy tiếng con mình đang khóc  không ?

ANNA

Thứ Sáu, 12 tháng 9, 2014

NHỚ THƯƠNG-ÁO-BÀ-BA

Ảnh lấy từ  bài "Bay cùng sao"

Tôi quen Thắm, còn gọi là Thương do nick Thương Áo Bà Ba của Thắm, chỉ mới hồi tháng 12 năm ngoái trong mùa Phòng Cầu nguyện online Mẹ Khiết Tâm Bảo Vệ Sự Sống về Việt Nam làm công tác xã hội. Theo bạn trong Phòng cho biết, Thắm là một nhân tố cần thiết của Phòng. Thắm hướng dẫn giờ Kinh, Thắm hát Thánh ca trên xe, Thắm lo xe cộ, hậu cần cho anh chị em trong Phòng mỗi lần Phòng tổ chức sinh họat.
Lần đầu gặp Thắm, tôi có thiện cảm ngay với cô gái có làn da trắng trẻo, tính tình nhanh nhẹn và hồn nhiên này. Nhưng điều làm tôi hết sức ấn tượng là Thắm là "đạo theo". Thật , không nghĩ một người mới theo Đạo mà sốt sắng với việc Đạo như vậy. 
Lại càng ngỡ ngàng hơn khi tới nhà Thắm, ngay giờ người chị của Thắm đang tụng Kinh Phật. Chiếc chiếu trải ra dưới chân bàn thờ Phật Bà Quan Âm. Phật tử ngồi đó thành tâm niệm cùng tiếng mõ gõ đều đều, kế bên những nồi cơm từ thiện ngun ngút khói được nấu ngay trước hiên nhà. Cả nhà Thắm làm từ thiện, nơi Chùa và nơi nhà thờ. 
Còn hôm thứ Tư tuần rồi, nghe tin Thắm đột quỵ đêm trước, chúng tôi đến viếng thăm Thắm, Thắm vẫn ở nhà đó, nhưng Thắm đã ngủ yên. Những cờ trướng, những hoa phúng, những nhang đèn khói hương theo nghi thức Tang chế Phật giáo vây quanh Thắm. 
Và bên trong nhà, ở tít trên cao, nơi bệ tường, tôi thấy tượng Đức Mẹ Fatima chắp tay  cầu nguyện.
Mẹ ở đó, xin Mẹ cầu nguyện cho ANNA Thắng, đó là tên Thánh và tên thật của Thắm, của Thuong-Ao-Ba-Ba sớm được hưởng Nhan Thánh Chúa.







Thứ Hai, 28 tháng 4, 2014

ĐỨC THÁNH GIÁO HOÀNG GIOAN PHAOLÔ II

     
  Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
TÁC PHẨM, TÁC GIẢ NGƯỜI DỊCH THƠ
Ngày 27 Tháng 04, Năm 2014 sắp tới đây, Hội Thánh sẽ tôn phong hiển thánh cho Đức Thánh Cha Gioan Phao Lô Đệ Nhị. 
 Con người, cuộc sống, lòng đạo đức, thánh thiện, nhân cách, tinh thần làm việc và cách lãnh đạo Giáo hội của ngài... Cả thế giới đã rõ, đã biết, đã tường tận, nhất là lòng kính trọng, khâm phục, ngưỡng mộ và kính mến, không những thế mà còn rung cảm thương cho cuộc đời của ngài từ khi còn là một cậu bé mồ côi mẹ, rồi lớn lên đi lao động, đi quân dịch, cũng mang ba lô,  đội nón sắt... hiên ngang bảo vệ quê hương. Hết nghĩa vụ quân ngũ, ngài lên đường theo tiếng gọi lương tâm, vào chủng viện đi tu, làm linh mục, giám mục, hồng y, làm giáo hoàng và giờ đây, ngài đang chuẩn bị làm thánh cho chúng ta. Cả loài người thiên hạ sẽ gọi và tuyên xưng ngài là Thánh Nhân. 
 Bắt đầu năm phụng vụ 2015 và mãi đến suốt đời, Hội Thánh Công Giáo sẽ có và dành riêng một ngày đặc biệt trong năm, và Giáo hội khắp nơi trên Hoàn vũ sẽ mừng lễ kính vị Thánh Gioan Phao Lô II này trong ngày đó.
 Nói và viết về ngài, có lẽ với tôi và cả với bạn nữa sẽ rất dè dặt, vì quả thật ngôn ngữ giới hạn của chúng ta không đủ để diễn đạt trong khi sự nhân đức và thánh thiện của ngài thì quá bao la và cao cả. Có nhiều người đã nói, đã viết về ngài, về vị thánh sống từ khi ngài còn nơi dương thế. Vâng, cả thế giới này đã thực hiện và làm những điều đó mỗi ngày ròng rã suốt gần bốn mươi năm qua bằng nhiều hình thức qua các phương tiện truyền thông và báo chí, trên các trang mạng kể từ khi ngài được bầu làm giáo hoàng năm 1978 rồi mãi đến khi ngài qua đời, và vẫn còn khơi dậy cho đến hôm nay. Tôi tin tưởng ảnh hưởng của ngài sẽ còn rộng lớn hơn trong tương lai và sẽ mãi mãi trong dòng chảy của kiếp nhân sinh. 
Thánh nhân Gioan Phao Lô Đệ Nhị đã đi vào lòng lịch sử của Thế giới, của Giáo Hội Công Giáo và bất biến trong lòng kính yêu, trong mỗi trái tim của người tín hữu hiện diện khắp nơi trên quả địa cầu này.
 Tuy nhiên, có lẽ bạn và tôi sẽ không biết đến về một lĩnh vực rất riêng của ngài mà theo Đức Cha Giáo Phận Bắc Ninh Cosma Hoàng Văn Đạt nghiên cứu và tìm hiểu rằng, Ngài là một trong bảy nhà thơ lớn của nền văn học nước Ba Lan. Và nếu hôm nay không có Giáo sư Phanxicô Lê Đình Thông, một học giả có tiếng tăm tại Pháp nói riêng và Hải Ngoại nói chung đã khổ công nghiên cứu, chuyển ngữ, rồi dịch thơ của thánh nhân lại bằng tiếng Việt Nam của chúng ta, một ngôn ngữ mẹ đẻ rất gần gũi bên cạnh như hơi thở, như cơm với cá, như mẹ với con, thì có thể tôi chưa biết trọn vẹn đến ngài.
 Qua tập thơ của Đức Thánh Cha Gioan Phao Lô II đã được vị giáo sư này dịch lại mà tôi nhận được từ một anh nhạc sĩ bạn. Tôi lắng đọng tâm hồn để đọc từng chữ, từng câu, từng ý tưởng và lần lượt từ bài này qua bài khác. Dòng thơ ấy đã lôi cuốn tôi vào một tri thức của chữ nghĩa và của văn chương, dẫn tôi đến bến bờ không phải là sự trừu tượng mà thực thể cho tôi được cảm, được nhận và biết thêm về cuộc sống đời thường với tình cảm sâu kín rất thật, rất giản dị nơi con người của thánh nhân.
 Bài thơ "Mẹ Ơi" (Trích đoạn I) của ngài. Qua một góc nhìn với một lăng kính giới hạn nào đó, tôi thấy được tình cảm của ngài đối với người mẹ của mình, một thứ tình cảm luôn dạt dào nhưng luôn khắc khoải và lắng sâu. Ngài không thể che dấu niềm đau vật vờ và nỗi chua xót thiếu thốn người mẹ trong đời sống.
 Chúng ta có thể tưởng tượng và nhìn ra được cuộc đời đơn côi của một đứa bé bị mất mẹ, với những tháng ngày ngỏ vắng, dại khờ, với lờ mờ sớm trưa mà ngài phải gánh lấy trong quãng đời thơ dại đó. Tựa đề bài thơ này chỉ vỏn vẹn có mỗi hai chữ "Mẹ Ơi". Vâng, chỉ có hai tiếng giản dị đó thôi cũng đủ cho chúng ta thấy được sự khao khát tình mẫu tử nơi ngài, khao khát của môt đứa bé luôn cần có mẹ bên cạnh  để được chở che và vỗ về, được gọi "mẹ ơi" bất cứ khoảnh khắc nào trong đời sống từ khi bé thơ và thậm chí đến khi đã khôn lớn. Nhưng quả thật, ngài đã bất hạnh vì không được gọi hai tiếng thiêng liêng đó. Hai tiếng gọi đầu đời trên môi của em bé mà không một ai hướng dẫn, không một trường lớp nào dạy dỗ, chỉ bảo. Chỉ có Thượng Đế mới gắn chặt tình mẫu tử thiêng liêng đó ngay từ những giây phút phôi thai khi đứa bé được thụ thai, rồi nên hình, nên dạng trong dạ lòng của người mẹ. 
 Tôi nghĩ rằng: hơn ai hết, dịch giả Giáo sư Lê Đình Thông đã thẩm thấu và cảm nhận điều sâu xa về cuộc đời thiếu thốn tình mẫu tử của thánh nhân, để chọn và dịch lại hai tiếng "Mẹ Ơi" rồi đặt tên làm tựa đề cho bài thơ này. 
 Hãy điểm qua một vài câu thơ của ngài được chuyển ngữ và dịch thơ lại sau đây: "Dòng đời trôi nổi bấp bênh, qua bao năm tháng lênh đênh nổi sầu. Mẹ tôi mất cũng đã lâu, làm sao quên được niềm đau vật vờ...." Thế đó! Ôi tình cảm thật chân thiết đã in sâu vào tâm trí, trong tiềm thức của ngài mà khi đọc qua, có lẽ chúng ta không ngăn chặn được cái nghèn nghẹn co thắt đâu đó trong tim, và có thể giọt lệ đang làm ta cay mắt và chực ứa trào. Chưa hết, bài thơ "Hoa Trắng" cũng là một kiệt tác về văn chương nhưng cũng rất đậm sâu về tình cảm mà tác giả đã diễn tả như tiếng kêu rên rỉ âm thầm, xót đau trong lòng của một đứa bé mất mẹ. 
 Bài thơ Hoa Trắng này đã thật sự dẫn đường tôi đến để nhìn thấy ngôi mộ của mẹ thánh nhân. Tôi tin chắc ngôi mộ này rất đơn sơ và có thể lót đá hoặc quét vôi trắng nằm chênh vênh, đơn độc ở một góc chân trời nào đó mãi tận nước Ba Lan. Bài thơ này đã cho tôi cảm nghiệm thêm nổi buồn, xót xa, qua những năm tháng trong từng giây phút trống vắng, lạc lõng, đơn côi giữa dòng đời mà thánh nhân đã đối diện và sống trong hoàn cảnh mất mẹ từ khi ngài còn rất nhỏ bé, khoảng tám chín tuổi nếu người viết nhớ không lầm. 
 Tôi đây cũng đã mất mẹ, mới mất cách đây bốn năm thôi và mất khi tôi đã là năm mươi tuổi. Vâng, năm mươi tuổi mà mất mẹ thì cũng xem như đã vững chân đứng trong dòng đời ngược xuôi, tự lo và xoay xở và tự sống còn về thể lý. Tuy nhiên và mặc dù thế, trong tôi vẫn luôn cảm nhận được sự đau xót, thương tiếc, đơn côi, bơ vơ, lạc lõng đến thế nào ấy, nhất là khi tôi thất thểu bám sau quan tài để tiễn đưa mẹ tôi xuống lòng huyệt. Dòng lệ và dòng suy tư đã làm tôi ý thức được là kể từ nay tôi sẽ không còn mẹ trong cuộc đời, sẽ không bao giờ được gần bên mẹ, được gọi tiếng mẹ ơi khi cần đến, khi đau khổ hay hoạn nạn để được mẹ ủi an, khi hạnh phúc hay khi sướng vui để kể cho mẹ mừng, khi thất bại hay công thành danh toại để chia sẻ với mẹ... Với những cảm nhận chia ly và mất mát của tôi đó, thì huống gì sự đau đớn, chua xót và đơn côi đối với một đứa bé mới lên tám tuổi thì niềm đau sâu thẳm đến chừng nào ? Làm sao và có thể đứa bé tự định hướng được trong cuộc đời ?.
 Những đau xót và thương tiếc của thánh nhân được diễn tả qua các vần thơ trong bài Hoa Trắng, đã thật sự dao động trong tâm hồn tôi, đã làm tôi phải chảy nước mắt khóc thương nhớ đến mẹ của tôi mà giờ đây ngôi mộ và thân xác của mẹ cũng đang nằm cô quạnh dưới lòng đất lạnh: "Mẹ tôi mộ đá trắng ngần, nở bông hoa trắng xoay vần đời con. Vành tang mất mẹ mỏi mòn, bao năm xa cách một lòng nhớ thương. Mẹ tôi mộ trắng xót thương, tình yêu hoa trắng còn vương cõi trần, Mẹ tôi mộ vắng vấn vương..." (Bài thơ Hoa Trắng).
 Hãy dành thời gian để đọc hai muơi lăm bài thơ của ngài, rồi thả dòng suy tư về đời sống và con người của thánh nhân. Ngoài các nhân đức và đời sống thánh thiện, ngài còn có lòng đặc biệt yêu quê hương và đất nước của mình. Có hai câu nói mà ngài đã nói và đã để lại cho chúng ta thấy được lòng yêu nước, yêu quê hương, thương giống nòi thật mãnh liệt ở trong trái tim của ngài. 
 Trong thời gian làm Giáo hoàng, ngài đã thẳng thắn và can đảm nhưng rất chân thành bày tỏ lòng yêu nước của mình. Ngài nói: "Dù là một vị Giáo hoàng, nhưng tôi vẫn có trái tim để yêu quê hương và đất nước của tôi".  Ngài còn khẳng định lòng yêu quê hương và muốn bảo vệ cho đồng bào dân tộc của mình qua câu nói sau đây:  "Tôi sẽ cởi áo giáo hoàng để về bảo vệ và chiến đấu nếu Liên xô hay một quốc gia nào đó tiến quân xâm lược đất nước tôi".  
 Ngày đắc cử ngôi vị Giáo hoàng và đứng trên ban lơn, ngài cất tiếng chào mừng và chúc bình an cho mọi tín hữu. Ngoài lời chào mừng và chúc bình an đó, ngài đã dùng một đoạn ngắn của Thánh Mathêu trong Phúc âm để nói với dân chúng: "Các con đừng sợ !" Một câu nói ngắn ngủi ấy thôi, thế mà sau này đã làm tan rã các thế lưc tà quyền và những mưu mô của thế tục.  Vì "Các con đừng sợ" nên người dân Đông Đức đã mạnh dạn hiên ngang đứng dậy dùng búa thẳng tay phá sập bức tường ô nhục Bá Linh năm 1989 để vượt qua Tây Đức tìm  lại bà con, gia đình, tìm lại tự do mà sau bao nhiêu năm nằm sợ sệt vì phải bị bức tường ngăn cách dòng máu lưu thông trong huyết quản từ một người Mẹ chỉ vì ý thức hệ và lòng tham bá chủ của những đứa con cứng đầu, ngổ nghịch, tham lam và khó dạy ! "Các con đừng sợ", ngài cũng đã lập lại một lần nữa trong kỳ Đại Hội Giới Trẻ như để nhắc nhở những thế hệ trẻ sau này đừng sợ mà hãy mạnh dạn chiến đấu với nền văn hóa của sự chết, văn hóa của bóng tối và của tội lỗi...
Lòng yêu quê hương và đất nước của ngài có thể diễn tả qua người diễn viên nơi sân khấu cuộc đời "Quanh ta có biết bao người, tác phong chín chắn nói cười thong dong. Ta như thác nước xuôi dòng, mà không hổ thẹn tấm lòng sắt son..." (Bài thơ Diễn Viên).
 Dù là một vị Giáo hoàng cao trọng, nhưng tôi nghĩ ngài rất gần gũi với người chân lấm tay bùn, người thấp cổ bé miệng. Từ người lao công của hầm mỏ, đến những công nhân lao động chân tay như: xẻ đá, đục, gõ, cưa, bào, và những giọt mồ hôi. "Dùng bàn tay chai đá nứt làn da. Giơ búa cao đập tan bao tảng đá. Đá chẻ ra bao ý nghĩ mặn mà. Nhờ chịu khó ta làm nên tất cả..." Vâng, thơ hay mà người dịch thơ cũng tuyệt vời và khéo léo. Nhưng hình như chúng ta đang nghe có tiếng thở dài mệt nhoài và thấy những giọt mồ hôi nhễ nhãi, lấm tấm trên khuôn mặt và ướt đẫm trên chiếc áo lao động của ngài. "Người thợ điện nghỉ ngơi cơn gió mát, xẻ non cao đào sông rạch xa gần. Bác nông phu phơi lúa chín ngoài sân, bầy con nít nắm tay nhau ca hát..." (Bài thơ Xưởng Thợ). 
Gần gũi nhất là tác giả vẽ cho ta một bức tranh, trong đó có hình ảnh sống động của bác nhà nông, con trâu với đồng lúa, với ánh sáng mặt trời đang chiếu dọi trên đồng ruộng. Cho ta thấy bác phu đang cầy cấy mà có thể bác phu đó cũng chính là ngài với những mong ước rất chi là bình thường và giản dị... Sự mong đợi từ những cây mạ non khi vừa ươm xuống lòng ruộng, rồi từng ngày chăm bón ngóng chờ được nẩy mầm, niềm sung sướng khi thấy lúa trổ đòng đòng, thỏa lòng khi được mùa gặt bội thu, hát câu ca vang trên con đường đê, khấp khởi hân hoan kê vai quẩy gánh thóc về. 
Hãy nhìn vào bức tranh, để thấu và cảm nhận được lòng ngóng trông của bác nhà nông: "Ánh mắt nào con mong còn đợi, mau đến mùa lúa mới đơm bông. Cấy cầy vất vả nhiều công, mong sao mưa thuận, cầu mong gió hòa..." (Bài thơ Mùa Lúa Mới).   
 Tôi nghĩ thánh nhân khi đương thời đã có cái nhìn rất thực tế về Nhân Sinh Quan. Ngài không bao giờ bi quan mà luôn có tinh thần lạc quan trong mọi tình huống nơi đời sống. Đặc biệt nơi ngài là sự quan tâm đến những người chung quanh và lòng xót thương khi gặp người bị nạn. 
 Nếu giả sử ngài không phải là vị giáo hoàng mà tôi chỉ biết và tìm hiểu sau khi đọc các vần thơ, tôi sẽ thấy nơi ngài có lòng thương người và rất quan tâm những ai bên cạnh dù thời gian eo hẹp và dù có bận rộn trong đời sống. "Tâm trí ta mệt nhoài tim bấn loạn, khu phố đông người qua lại vội vàng. Lời dặn dò nghe đó đây loáng thoáng, chớ bỏ qua rồi ra sẽ muộn màng..." (Bài thơ Tiếng Thầm).
 Trong cuộc sống và dòng đời vội vã, có lẽ bạn và tôi không dành thời gian nhiều để quan tâm người bên cạnh, mà thật ra người nào cũng có liên quan trong đời sống của chúng ta bằng cách này hay cách khác. Từ người láng giềng, hàng xóm đến những bạn bè, những người Thầy, người Cô dạy dỗ ta, những người cùng mang một dòng máu đỏ da vàng, thâm chí đến những người thân trong gia đình... thử hỏi có mấy khi ta mở lời chào và thăm hỏi hay quan tâm đến đời sống và sức khỏe của họ thật lòng ? Xã hội và môi trường bây giờ có xu hướng về chủ nghĩa cá nhân, họ không còn cái xót thương và lòng trắc ẩn khi gặp người bị hoạn nạn hay thiếu may mắn trong đời sống, thậm chí nghoảnh mặt hay vô tâm để rồi phải sảy ra "những điều trông thấy mà đau đớn lòng" (Nguyễn Du).
 Cách đây không lâu bên nước Trung Quốc, có một em bé bị xe cán và bị thương khá nặng khi băng qua đường. Biết bao người qua lại đã nhìn thấy em bé tội nghiệp đang nằm dẫy dụa với các vết thương, nhưng tất cả đều vô tâm mặc dù con phố luôn tấp nập và đông người. Có lẽ vì bận rộn chạy cho kịp cuộc sống để rồi không một ai chịu cúi xuống ra tay giúp đỡ hoặc đưa em bé đi bệnh viện, hoặc băng bó vết thương cho em. Cuối cùng vì kiệt sức bởi máu ra quá nhiều và em đã nhắm mắt lìa trần chết tất tưởi một cách thê thảm và oan uổng. Khi chết rồi, xác em cũng nằm trên góc con phố đó đến chiều tối cũng không có một ai màng đến.  
Em nhắm mắt lìa trần nhưng có mở được mắt lương tri cho những người dân cùng mang dòng máu với em trên con phố nào đó ở bên Trung Quốc ? Em nhắm mắt chết tất tưởi, nhưng tôi tin em đã mở mắt loài người trên thế giới để họ nhìn thấu rõ những con người đó đã đánh mất hết lương tâm, chai lì lòng trắc ẩn, coi thường tình người, mất tính nhân bản mà hậu quả là do sự nhồi nhét một thứ chủ nghĩa lạc hậu, lỗi thời, một thứ chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cá nhân.
 Nếu bạn lên youtube mà người Việt Nam đã đưa lên. Hãy mở xem những cảnh người lớn đánh nhau trên đường phố, trong trường học với các học sinh, thậm chí các học sinh nữ. Biết bao người đứng xung quanh chỉ để xem mà không hề chịu vào để can ngăn và giúp kẻ yếu được thoát nạn. Họ quá dửng dưng như thể con tim và lương tâm của họ không còn một chút xót thương và rung cảm của đồng loại. 
Hãy nghe lời khuyên của thánh nhân: "Đừng nhìn nhau vẻ hời hợt bề ngoài, đến bên nhau trong sâu lắng khôn nguôi..." (Bài thơ Tiếng Thầm) 
 Vì chủ nghĩa cá nhân đã che lấp cái tình nghĩa con người, xem vật chất là trên hết. Văn hóa của bóng tối và văn hóa của sự chết đã làm tắt nghẽn dòng máu loài người, bóp chết trái tim biết rung cảm và xót thương, đóng cửa và nhốt lý trí lại nơi hàng rào trong bức tường ích kỷ, làm cho kém đi sự nhận thức và lu mờ để không còn có khả năng biết được những "cái đẹp sẽ cứu rỗi thế giới". Hậu quả là biết bao cảnh đau lòng sảy ra trên thế giới từ chiến tranh chết chóc, khủng bố, đánh bom tự sát, nạn bạo hành trong gia đình, học trò đánh thầy, bác sĩ thủ tiêu bệnh nhân xuống sông vì lỡ làm chết để che dấu bởi cách chữa trị hời hợt và thiếu lương tâm. Các tệ nạn, cướp bóc, giành giựt, hỗn loạn, đảo lộn mọi thứ trong đời sống. Tất cả điều đó cũng phát xuất từ các chủ nghĩa nói trên và xem thường cung cách giáo dục ở các nhà trường từ đức dục, trí dục, luân thường đạo lý, nhân lễ nghĩa trí tín, lòng đạo đức, tính thương người... 
 Có lẽ thánh nhân đã nhìn thấy một xã hội, một thế giới băng hoại đó nên ngài mới viết ra những lời tâm huyết để mời gọi và nhắn gửi đến chúng ta, nhất là nhắn gửi đến các bạn trẻ: "Các bạn trẻ tìm đường bước tới. Đường loanh quanh trăm lối về đâu. Biết chăng muốn bước qua cầu. Con đường chính đạo nhiệm mầu trong tâm..." Ôi thật là thâm thúy và nhiệm mầu ! (Bài thơ Đường Sáng).
 Bạn đọc mến,
 Như đã nói từ đầu, tôi chỉ muốn đề cập đến một góc cạnh trong lăng kính rất giới hạn của ngôn ngữ, và chỉ vỏn vẹn những vần thơ mà tôi cho đó là cái nhìn rất Nhân Sinh Quan trong đời sống đời thường của Đức Thánh Cha Gioan Phao lô II.  Những bài thơ, vần thơ tôn giáo, đạo đức, tu đức... của thánh nhân mà Giáo sư Lê Đình Thông cũng đã chuyển ngữ và khéo léo dịch thơ lại rất ý nghĩa và thanh thoát... Tôi không dám luận bàn hay phân tích, nhưng sẽ đọc mãi để cảm hóa lòng đạo đức của mình. 
 Trong tri thức và những gì là của ngài, cũng huyền nhiệm và cao cả. Từ cuộc sống đời thường nơi dương thế, đến khi ngài làm giáo hoàng, bị ám sát với bốn viên đạn xuyên qua ngực nhưng không chết, và thậm chí ngay cả thời gian mà ngài qua đời trong những ngày lễ Phục sinh và kính Lòng Thương Xót Chúa, cũng nằm trong sự huyền nhiệm đó, mà hễ điều gì, cái gì đã là huyền nhiệm thì con người và khoa học cũng không thể giải thích và chứng minh được. 
Xin bạn hãy nhắm mắt suy luận để thấy rõ hơn những gì tôi vừa đề cập. 
Vâng, tất cả nơi ngài là huyền nhiệm và cao cả đối với tôi. 
 Tôi xin mời bạn hãy đọc những vần thơ đó sớm có thể. Khi đọc những vần thơ đó là chính bạn đang thực sự cầu nguyện. Nội tâm và trí đoán của bạn một cách nào đó đang siêu thoát và có thể đang chạm đến Đấng Thượng Trí. 
 Trong tri thức và lòng đạo đức của ngài, trong tâm tình và văn chương phong phú, kiệt tác, xuất chúng của ngài trải dài trên những vần thơ đó, đích thật là huyền nhiệm nhưng giãi bày, thanh thoát nhưng tình cảm, cao sâu nhưng gần gũi, triết lý nhưng thực tế, có thể sờ mó được, nhất là tấm lòng tình cảm chân chất của ngài đối với mẹ hiền, với quê hương và với nhân thế. 
 Cuộc đời trải dài tám mươi lăm năm của ngài nơi dương thế, đã để lại biết bao điều thánh đức và gương sáng, về đời sống mục tử và chứng nhân. Nhân thế cũng đã để lại lòng thương mến, kính yêu, trân quí mà người người khắp nơi trên thế giới luôn hướng về Tòa thánh nơi căn phòng có ánh sáng lọt qua cửa sổ trong những đêm ngài hấp hối, rồi tiếng khóc vỡ òa khi tin ngài qua đời. Cuối cùng chiếc quan tài bằng gỗ tạp đơn sơ, giản dị và khiêm hạ như chính con người và đời sống của ngài. Chiếc quan tài đặt xuống mặt đất giữa quảng trường Thánh Phêrô mêng mông biển người, không có đèn nến hoa đăng, không có vải lụa gấm vóc giăng đầy như các chủ tịch của nước Bắc Hàn qua đời, cũng không trầm thơm ngào ngạt, hay khói hương nghi ngút như các vị vua chúa hay các bậc quyền quí, cao sang. Nhưng thay vào đó, ngài có hàng triệu triệu con tim khắp nơi trên thế giới, đủ mọi thành phần đã nhỏ lệ khóc thương tiếc ngài. Ngài đã sống thánh giữa trần gian và đã mang lại cho con người những điều của Chân, Thiện, Mỹ... 
 Một nhà thơ người Hoa Kỳ mang tên Ralph Waldo Emrson đã nói: "When you were born you were crying and everyone else was smiling. Live your life so at the end, your're the one who is smiling and everyone else is crying." Tạm dịch: Khi bạn sinh ra, bạn khóc mà mọi người đều cười. Hãy sống làm sao đến cuối đời khi bạn ra đi, bạn cười mà mọi người đều khóc.
 Vâng, tất cả mọi tín hữu đều đã khóc thương tiếc ngày ra đi của ngài, mặc dù ai cũng biết ra đi là khởi điểm cho ngày trở về theo quan niệm và tín lý của Ki-tô giáo.
 Người khôn ngoan thì luôn xây nhà trên đá, luôn nghĩ để dọn đường cho sự sống vĩnh hằng mai sau, còn dưới thế thì sẽ để lại tiếng thơm tiếng tốt muôn đời mà chính bia miệng của loài người sẽ nhắc mãi qua câu tục ngữ: "Trăm năm bia đá thì mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ". 
Thánh nhân biết rõ điều đó nên đã tự nói và luôn nhắc nhở lòng mình qua bài thơ ngắn ngủi của ngài sau đây: " Đời người ngắn ngủi không bằng, cây đa cổ thụ đầu làng xanh lâu. Hơn nhau cuộc sống đời sau, linh hồn sống mãi nhiệm mầu huyền vi". Hoặc là: " Đời người thân xác mất đi, linh hồn như cánh chim di miệt mài. Sau này cát bụi hình hài, bao nhiêu sự nghiệp một mai còn hoài" (Bài thơ Độc Thoại).
 Vâng, giờ đây mọi người sẽ không còn khóc nữa, nhưng sẽ cùng với ngài hân hoan tạ ơn Chúa và rồi cùng cười trong tiếng lòng với nước mắt sung sướng, nước mắt của hạnh phúc để đón nhận ơn thánh cao cả nhất mà ngài được tôn phong là Đấng Hiển Thánh như Thánh Phao lô đã khẳng định: "Qua Thập Giá, sẽ đến được Vinh Quang".
 Có lẽ đã có sự linh ứng khi ngài còn đương thời để rồi bài thơ "Bức Tường" mà ngài đã viết từ hôm nào về một vị thánh, và hôm nay vị thánh đó có lẽ chính là ngài: "Tường thẳng đứng hai bên là hốc đá. Tượng Thánh Nhân còn thanh thản nguyện cầu. Luôn mở ra trang sách thánh nhiệm mầu. Ngập tâm trí trầm hương bao điều lạ..." Ôi, thật là huyền nhiệm. Vâng, như tôi đã nói: Tất cả nơi ngài là huyền nhiệm, là cao cả !.
 Thưa bạn!
 Đến đây có lẽ bạn và tôi sẽ chợt nghĩ và sẽ đề cập đến người đã chuyển ngữ và dịch thuật hai mươi lăm bài thơ của thánh nhân, đó là Giáo sư Lê Đình Thông mà tôi có đề cập ở phần đầu.
 Tôi nghĩ rằng đây là một ơn thánh đặc biệt đã tác động cho vị giáo sư mũi tẹt da vàng, sống đời tị nạn lưu vong trên phần đất không phải là nơi chôn nhau cắt rốn của quê hương mình. Lại còn không phải khi sinh ra, vị giáo sư này được hấp thụ thứ ngôn ngữ của mẹ đẻ, gần gũi như hơi thở, như mẹ với con, mà rất xa lạ qua các ngôn ngữ Tiếng Tây, Tiếng Tàu, nhất là Tiếng Ba Lan. Nếu bạn có nói một cách rành mạch một thứ tiếng nào mà không phải ngôn ngữ của mẹ đẻ, thì cũng sẽ giới hạn trong một phạm vi nào đó của chuyên môn, trong xã giao, giao dịch hay trong đời sống thường nhật. Nhưng đối vị với vị giáo sư này thì lại khác. Ông ta đã vượt xa điều tôi tưởng. Hai mươi lăm bài thơ của thánh nhân mà ông ta đã dịch lại cũng đủ để chứng minh điều tôi muốn nói. Tôi nghĩ vị giáo sư này không những là một nhà thơ lỗi lạc mà còn là một nhà Ngôn Ngữ Học uyên thâm. 
 Có lẽ bạn và tôi không thể phủ nhận cách chuyển ngữ và dịch thuật lại, rồi diễn tả cũng chính bằng những vần thơ và tài tình chuyển qua thành các bài thơ Tiếng Việt Nam với các vần điệu, với các thanh âm bằng trắc để hoàn thành trọn vẹn từ các thể loại thơ lục bát, song thất lục bát, thơ đường, thơ tự do qua cách gieo vần thật phong phú và khéo léo, chứa đựng đầy đủ ngữ nghĩa với văn phong lôi cuốn... Nhà dịch thơ này còn lý luận, phân tích những từ của Hán Việt, rồi chọn và áp dụng vào những vần thơ nói trên. Thí dụ chữ "xiển dương" trong bài thơ Magnifica. Đây là văn từ ghép của Hán Tự mà vị giáo sư này đã dịch thuật lại để dùng từ này áp dụng cho thích hợp với cái khung cảnh, ngữ cảnh cũng như các chủ ngữ trong bài thơ Magnificat.  
Trước đây, từ ngữ này đã có một số người đã dùng, trong đó còn có cả nhà thơ, và nhạc sĩ mà một vị nào đó đã dùng từ này để đặt tên cho một bài hát với tựa đề: "Mẹ Triển Dương" có câu hát đầu: "Mẹ triển dương trên núi Li Ba Nô..." Theo Hán Ngữ thì chữ "xiển" nghĩa là "mở ra" chữ "dương" cũng có nghĩa là "rộng, lớn, bao la..." Như vậy: xiển dương có nghĩa là mở ra bao la, trong đại... "Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi bao điều trọng đại..." (Một trong đoạn kinh thánh của Thánh Luca 1, 47-55). Vậy, theo ý nghĩa, tôi nghĩ chữ "xiển dương" mới đúng và chính xác như vị giáo sư này đã dùng đến.
 Văn chương Tiếng Việt Nam rất phong phú với nhiều nét đặt thù lôi cuốn, có lẽ là nhờ âm điệu vì có các thanh âm năm dấu, sáu giọng nên tiếng Việt Nam "dễ thương" đến thế.  
 Lần đầu tiên khi đến Việt Nam và nghe Người Việt Nam nói chuyện, các nhà ngoại quốc đã quả quyết và nói rằng: "Người Việt Nam nói chuyện như hát vậy". Phải lắm, vì mỗi tiếng được phát ra là có âm điệu lên xuống bởi các thang âm của mỗi chữ mang các dấu: huyền, sắc, nặng, hỏi, ngã. Cũng thế, tiếng Việt Nam là một ngôn ngữ đơn âm và nếu dùng đơn phương hay lẻ loi một từ thì sẽ rất nghèo nàn, chính vì thế mới có các chữ được ghép lại qua sáng kiến của các học giả, nhất là các cụ xưa kia để cho tiếng Việt Nam thêm phần phong phú. 
 Những thế hệ đi trước đã ảnh hưởng rất nhiều đến chữ Nho và khi các cụ ghép lại, thường là tiếng Nôm, tiếng Hán đi đôi. Thí dụ: dân-chủ, độc- lập, thế-lực, chính-quyền, tà-quyền, v.v... Cũng thế, thiết tưởng hôm nay chúng ta gọi tên nước Việt Nam mà thiếu đi một chữ cũng là điều thiếu xót quan trọng. 
Nước Việt Nam không nên gọi tách riêng là Nước Việt, Người Việt Nam không nên nói là Người Việt, Tiếng Nói Việt Nam không phải là Tiếng Nói Việt, Nền Văn Hóa Việt Nam không phải là Nền Văn Hóa Việt, Dân Chủ Việt Nam mà gọi Dân Chủ Việt thì ra thể thống gì. V,v... 
Xin đừng chia, đừng cách, đừng xẻ đôi đất nước Việt Nam dù qua những hình thức nào đi nữa, ngay cả cái tên Nước Việt Nam, tên gọi thiêng liêng của đất nước đã có từ ngàn năm mà biết bao xương máu đã đổ xuống để bảo vệ và duy trì. Đừng xem thường rồi một lúc nào đó lâu dần thành quen miệng và cứ tưởng đó là "chân lý".  
Tôi chân tình và rất cảm phục cách chuyển ngữ rồi dệt lại và cuối cùng làm cho ra những vần thơ kiệt tác một cách trôi chảy mà bạn đang cầm trên tay. Tôi không có cơ hội đọc các bài thơ nguyên thủy của ngài, mà dẫu có đọc cũng không thể hiểu được vì có thể ngài viết bằng chính ngôn ngữ của ngài. Tuy nhiên, sau khi đọc các bài thơ đã được dịch lại, tôi đã cúi đầu để tạ ơn Chúa vì đã thấy và cảm nhận cách dịch thơ rất tài tình và tuyệt vời của Giáo sư Lê Đình Thông. Tôi nghĩ vị giáo sư này góp một bàn tay rất quan trọng để cho chúng ta hiểu thêm một góc cạnh trong đời sống văn chương của ngài, nhất là chắp cánh cho các bài thơ của thánh nhân đến với chúng ta là Người Việt Nam. 
Với sự thông thái và uyên bác, vị giáo sư này đã làm cho các bài thơ của thánh nhân ý nghĩa hơn, hay và mượt mà hơn, tô điểm và mặc thêm bộ áo để các bài thơ ấy tươi sáng, rực rỡ và duyên dáng hơn.
 Người ta thường nói "dịch" là "diệt". Nhưng với vị giáo sư này thì làm ngược lại, nghĩa là cho nó sống động hơn, đầy cảm xúc hơn qua nghệ thuật văn chương và thơ phú trời ban cho ông ta. Chính vì lẽ đó, các bài thơ ấy đã lôi cuốn trong tôi và tạo cho tôi nguồn cảm hứng lạ thường, điều mà những người làm công việc của nghệ thuật và của âm nhạc rất cần thiết và cần có. Nguồn cảm hứng ấy đã giúp tôi hoàn thành mười ca khúc phổ từ hai mươi lăm bài thơ kiệt tác đó.
 Một bài thơ hay và ý vị, ắt phải hội đủ những yếu tố cần thiết về bố cục, ý nghĩa, văn chương, cách gọt chữ, vần điệu, câu cú và điệp từ như tôi đã nói ở trên, nhất là chiều sâu của bài thơ. Tạ ơn Chúa, Giáo sư Lê Đình Thông đã có và đã đạt được những điều đó.
 Những thế hệ trước đã có các nhà thơ công giáo để đời như Hàn Mặc Tử. Lời thơ của vị này sâu thẳm, nhưng chúng ta có thể thấy máu và nước mắt trong từng câu thơ qua sự đau đớn về thể xác, nhưng cũng cho chúng ta cảm nghiệm cái tinh thần luôn biết cậy trông và phó thác. Gần đây có nhà thơ Xuân Ly Băng với các nhà thơ tiếng tăm khác, và hôm nay chúng ta có thêm Giáo sư Lê Đình Thông, một nhà thơ và một người dịch thơ tuyệt vời.
 Không phải là điều tự nhiên sắp xếp ý định của con người. Sự hiện diện hiếm có của vị giáo sư này trong những bài thơ của thánh nhân, tôi nghĩ là Thiên định. Như tôi đã nói ngay từ đầu và hay lập lại. Tôi đã nói gì ? Tôi đã nói rằng:  Tất cả những gì liên quan nơi thánh nhân là huyền nhiệm và cao cả và tôi tin tưởng điều đó, vì: "Một sợi tóc trên đầu rơi xuống, cũng là thánh ý nhiệm mầu của Thiên Chúa".
 Trong sách Luận Ngữ có câu mà Đức Khổng Tử khuyên chúng ta rằng: "Hãy lấy Đạo làm Hướng, lấy Đức làm Gốc, lấy Nhân làm Nơi Nương Tựa và lấy Nghệ làm Niềm Vui..." 
Quả thật, Giáo sư Lê Đình Thông còn làm hơn thế, vì tất cả công việc mà ông đang thực hiện không những chỉ để làm niềm vui cho riêng mình, mà còn lấy Nghệ Thuật để loan báo Tin Mừng giữa thế giới hôm nay.

 Văn Duy Tùng
Washington D.C. Ngày 15 Tháng 02, Năm 2014
---------------------------------------------------------------
Bài do tác giả gửi cho ht'blog.
Ht. xin chân thành cám ơn Nhạc Sĩ Văn Duy Tùng.

Thứ Hai, 31 tháng 3, 2014

NHÂN NGÀY GIỖ ĐẦU


Nhân ngày giỗ đầu -15.3.2014- kính nhớ cụ Phạm Đình Khiêm
Đăng ngày: 18.03.2014
________________________________________
VRNs(18.3.2014) – Sài Gòn – Có những người trời phú cho khả năng gợi ta nhớ, và liên tưởng rất nhiều điều. Cụ Phạm Đình Khiêm là một người như thế đối với tôi. Nếu chỉ có nhớ và liên tưởng suông có lẽ tôi chẳng nói làm gì, hay chỉ ghi lại cho riêng mình, nhưng như St.Exupéry viết “ cái cốt yếu là cái vô hình, cái không thấy được” (l’essentiel est invisible). Cụ Khiêm gợi nhớ, mà từ cái nhớ ấy lại như cảm thụ cái không thấy được, cái vô hình. Tôi may mắn có mặt ở tu viện Kỳ Đồng, Sài Gòn, đúng ngày lễ giỗ đầu cho cụ, và được tham dự thánh lễ cùng với gia đình và rất đông những người đã quen biết cụ. Nhớ cụ ngày trước viết rất nhiều bài cho tôi đăng lên Nguyệt San Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, tôi xin có mấy hàng này để lễ cụ trong ngày giỗ đầu.
Những năm cuối đời cụ ở Sài Gòn, tôi sống cách xa ở miền Bắc, vậy mà cái miền Bắc ấy lại gợi nhớ cho tôi không chỉ về cụ, mà đến cả từng mảng rộng trong đời sống Giáo Hội. Tôi nói đến cái không thấy được, cái vô hình là vì vậy. Chẳng hạn tôi về thành phố quê hương Nam Định. Ngôi nhà thờ nhỏ bé và những cơ sở từ xa xưa còn lại. Nối tôi với một quá khứ mà tôi không được chứng kiến, có Đức Cha Lê Đắc Trọng và Cha Chu Văn Minh, nay cũng là giám mục phụ tá Hà Nội kế vị Đức Cha Trọng. Qua hai đấng ấy, tôi như được đi ngược thời gian lên đến thời cụ Khiêm còn thanh niên.

Cụ Phạm Đình Khiêm bên bàn làm việc khi còn sống
Đó là thời vị thừa sai người Pháp, cha Cao tức André Vacquier, tập họp những thanh niên Công giáo, mở thư viện lớn, xuất bản Nguyệt San thanh niên Công giáo, lập đoàn Hướng đạo, khuếch trương các công tác xã hội… Rõ ràng vị thừa sai người Pháp có cao vọng đào tạo những lớp trẻ ưu tú sau này gánh vác tương lai Giáo Hội. Ví dụ như đồng thời với Phạm Đình Khiêm nhưng trẻ hơn, và cùng sống bên Cha Cao, có Phạm Hân Quynh sau này là một linh mục có nhiều tác động đặc sắc, những năm hết sức khó khăn và khắc nghiệt của giáo hội miền Bắc. Năm 1939 đó Phạm Đình Khiêm chưa đầy 20 tuổi. Anh say sưa dìm mình vào kho sách của cha Cao và cảm thấy sức hấp dẫn của những công trình nghiên cứu và của lĩnh vực truyền thông sách báo. Cũng chính vì thế mà anh đã ghi tên sang tận Paris để học khoa báo chí hàm thụ (cours de journalisme par correspondance). Vị thừa sai cũng như những thanh niên sôi nổi ở Nam Định đều nuôi bao nhiêu ước mơ cho một giáo hội tương lai huy hoàng.
Nhưng có Nhân định mà cũng có Thiên định. Và Nhân định thì không thể thắng Thiên. Cha Cao hay anh Khiêm có những ước mơ đang dậy men. Nhưng thế chiến thứ hai nổ ra, quân Nhật vào Đông Dương, rồi Nhật với Pháp gờm nhau. Pháp núng thế động viên quần trừ bị. Cha Cao còn trong độ tuổi cũng phải gia nhập quân ngũ, cấp bậc thiếu úy. Lúc ấy thì những lực lượng cách mạng Việt Nam cũng đang hình thành. Trong một hoàn cảnh bí mật cha Cao đã bị thủ tiêu không tìm thấy xác vào năm 1943. Xét ra, Cha Cao cũng phải thành hạt giống gieo xuống lòng đất, như bao nhiêu hạt giống khác vô danh…
Về qua Nam Định, tôi lại nghĩ đến những hoài bão của thế hệ xa xưa ấy. Bảo là đứt gánh giữa đường cũng được. Nhưng nói vậy mà không phải vậy, vẫn có một cái gì truyền nối. Trước khi cha Cao thảm tử một năm, Phạm Đình Khiêm đã thành chủ bút của bán Nguyệt san Thanh Niên, và chèo chống được đến năm 1945 thì biến thành Thanh niên chuyên san và đã có tác phẩm đầu tay “Hành Động xã hội của Giáo Hội qua các thời đại và ở Việt Nam”, tựa của cụ Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố, thuộc viện Pháp Quốc Viễn Đông Bác cổ, xuất bản ở Nam Định năm 1945. Rõ ràng đây là kết quả của những năm tháng miệt mài bên cố Cao. Nó nói lên phần đóng góp của giáo hội cho xã hội và dân tộc. Nó là chứng tích của một thời tuổi trẻ hăng say tha thiết.
Sau đó chiến tranh Việt Pháp bùng nổ. Nhóm trẻ Nam Định tứ tán. Không còn là điểm hội tụ, thì nhóm Nam Định lại có mặt rải rác ở nhiều nơi trong nước, như Phạm Hân Quynh bấy giờ đã là chủng sinh Xuân Bích ở Hà Nội, còn Phạm Đình Khiêm thì di cư sang Hưng Yên. Gia đình ghi lại “về Hưng Yên với hành trang duy nhất: một cái cặp đựng quyển sách tiếng pháp Ma Mère (Mẹ tôi) để có thể ghé đâu dựng đó”. Thì ra ham viết, ham truyền thông đến thế! Không thấy ghi thêm chi tiết xem tay trắng như vậy thì làm thế nào tục bản tờThanh Niên ngay từ tháng 10.1946. Thế là đã chí cốt với cái nghiệp viết báo đạo rồi, (còn cuốn Mẹ tôi của cha Schrijvers CSsR thì đã xuất bản ở Huế lần đầu 1949).
Từ đó về sau liên tục thấy Phạm Đình Khiêm hoạt động trong lĩnh vực báo chí. Năm 1948 đồng sáng lập nguyệt san Trái Tim Đức Mẹ với Đỗ Sinh Tứ ở Hà Nội. Cuối 1949, lại vào Sài Gòn chủ trương báo Phụng Sự cùng với Phạm Đình Tân. Năm 1950 Đức Giáo Hoàng Pio XII mở năm thánh và công bố tín điều Đức Mẹ hồn xác về trời. Nghe nói năm đó ngài cũng chứng kiến lại phép lạ Mặt Trời Fatima trong hoa viên Vatican.
Phạm Đình Khiêm được diễm phúc có mặt ở Roma để mừng Năm Thánh. Từ đó ông củng cố và tăng cường lòng sùng kính đặc biệt với Đức Mẹ và sứ điệp Fatima, một kiểu sùng kính dạt dào đã quyện vào ông suốt đời. Nhưng dù thế nào cũng không quên cái nghiệp báo chí. Sau Roma ông lưu lại Paris học hỏi với một số cơ quan báo chí Công giáo Pháp thời ấy đang phong phú. Về nước ông gia nhập Việt tấn xã làm phóng viên Pháp ngữ, phóng sự chiến trường, sát cảnh với những nhà báo quốc tế của AFP, Le Figaro, Paris Match, Reuters, AP. Từ 1954 cho đến 1975 ông là công chức trong ngành báo chí.
Chính trong thời kỳ này, sự gắn bó với Đức tin và Giáo hội khiến cho ông hoàn thành được một số tác phẩm nguyên cứu và chuyên đề có giá trị. Năm 1958, ông cho ra cuốn “Minh Đức Vương Thái Phi”, tiểu sử bà Thái Phi của chúa Nguyễn Hoàng. Năm 1959, đến lượt “Người chứng thứ nhất” khảo cứu về vị tử đạo tiên khởi Đàng trong, Andre Phú Yên (1625 – 1644). Năm 1961, ông cùng với Nguyễn Khắc Xuyên và Andre Marillier soạn tác phẩm “Giáo sĩ Đắc lộ và tác phẩm quốc ngữ đầu tiên” trong đó in lại trọn cuốn “Phép giảng tám ngày – Cathechismus” của Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ). Ngoài ra ông còn những biên khảo chuyên đề như: “Từ Đèo Cả đến sông Gianh – theo dấu hai bà Ngọc Liên-Ngọc Đỉnh” (Văn Hóa nguyệt san 9.1959). “Đi tìm địa điểm và di tích hai thành cổ Quảng Nam và Phú Yên đầu thế kỷ XVII(Khảo cổ tập san 1.1961). “Xã hội Việt Nam thế kỷ XVII dưới mắt Giáo sĩ Đắc Lộ” (khảo cổ tập san 2.1961). “Une grande page d’histoire oubliée du Vietnam… (Sài Gòn 1974), nghiên cứu về lịch sử ngoại giao giữa triều đình Huế và triều đình Dudong (Thái Lan).
Để viết tác phẩm về bà Minh Đức Vương Thái Phi và André Phú Yên, khoảng những năm 1958, 1960 ông đã đi nghiên cứu khảo sát thực địa và phát hiện di tích hai thành cổ Phú Yên và Quảng Nam thế kỉ XVII. Trên kia tôi có cảm nghĩ rằng ông Phạm Đình Khiêm gợi cho ta rất nhiều điều, không chỉ những điều thuộc thời đại ta mà cả những điều chìm sâu trong quá khứ. Không có những chuyến đi điền dã và rất nhiều công trình liên lạc tìm tòi tài liệu, hình ảnh từ nước ngoài: Rôma, Paris, Áo Môn, Lisboa… đúc kết thành tác phẩm của ông, đã mấy người trong chúng ta nghe nói đến bà Minh Đức Vương Thái Phi hay công chúa Ngọc Liên?  Công của ông không phải chỉ là gợi lại quá khứ với những biến cố thô mộc. Công của ông là làm cho ta cảm thấy trong cái quá khứ mù mịt biệt tăm ấy, bỗng bật lên những lời cầu nguyện giống như ta, bà Minh Đức hay bà Ngọc Liên cùng với ta chung một lời kinh Lạy Cha, một lời kinh Tin Kính. Ta không còn chiêm ngắm những bức tượng cổ, nhưng nghe thấy một nhịp thở tâm hồn, ta biết rằng vẫn có đấy một sự sống vĩ đại lưu truyền. Quá khứ không chết. Quá khứ vẫn là một mạch nước ngầm. Cũng vậy, cuốn “Giáo sĩ Đắc Lộ” cho ta như sống lại tinh thần và ngôn ngữ của vị thừa sai từ 300 năm trước ở Thăng Long Kẻ Chợ.
Tôi không có ý nói chỉ có mấy tác phẩm đó của ông, bởi trước ông, đồng thời với ông và sau ông vẫn còn nhiều công trình nghiên cứu về những đề tài ấy và còn cần có thêm nữa, nhưng phải công nhận là ông đã có công phổ biến cho bạn đọc Công Giáo những kiến thức mà chúng ta coi như không phải nhu yếu với đức tin, và do đó dễ bỏ qua, dễ quên nếu có biết, nhưng nghĩ lại đó là những nét phong phú thuộc về mầu nhiệm Hội Thánh không công, như thư Do Thái viết: “Anh em đã đến với linh hồn những người công chính, đã được nên hoàn thiện” (Dt 12,23)
(Còn nữa)
Lm. Máthêu Vũ Khởi Phụng
 Nhân ngày giỗ đầu -15.3.2014- kính nhớ cụ Phạm Đình Khiêm (2) (tt)
Đăng ngày: 22.03.2014 , Mục: - Tin nổi bật, Bình Luận
________________________________________
Nhân ngày giỗ đầu -15.3.2014- kính nhớ cụ Phạm Đình Khiêm (1)
VRNs (22.3.2014) – Sài Gòn –  Năm 2002, tôi chuyển về làm việc ở Sài Gòn. Từ đó có nhiều dịp gặp và giao tiếp với ông Khiêm. Trước đó chỉ biết ông qua sách báo.
Âu cũng là một thứ duyên tiền định, ngôi nhà của ông Phạm Đình Khiêm nằm trong một con hẻm yên tĩnh gần lề đường Hiền Vương. Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần thì lại quan hệ nhiều đến những người vào thời điểm khởi đầu của Kitô giáo Đàng Trong, như bà Minh Đức, như thầy giảng Andrê Phú Yên. Và địa chỉ của Ông thuộc giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Ông làm Chủ tịch hội đồng Giáo xứ nhiều năm liền. Tôi thì không làm việc Giáo xứ nhưng làm bên tòa soạn nguyệt san Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Liên tiếp từ 1968 đến 1975 ông giữ mục “Máu đào minh chứng”, giới thiệu tiểu sử của các Chân phước tử đạo Việt Nam. Sở trưởng của ông vẫn là ôn lại, giúp ta hình dung lại và hiệp thông với quá khứ của Hội thánh.
Tác phẩm Người Chứng Thứ Nhất, cụ Phạm Đình Khiêm viết về Thầy giảng Anrde Phú Yên
Sự cộng tác bị bỏ dở năm 1975. Cách mạng đến, tôi là người đứng ra làm cái việc rất không đáng phấn khởi là ghi dấu chấm hết cho tờ nguyệt san đã sống được 46 năm. Ông Phạm Đình Khiêm thì nặng nợ hơn nhiều. Ông phải đi tập trung cải tạo ở trại Cẩm Thủy tận biên giới Việt-Lào trong tỉnh Thanh Hóa.
Tôi nhớ lại mấy năm trước ông đã từng tha thiết và tận tâm tận lực biết bao nhiêu tổ chức rước Đức Mẹ Fatima thánh du Miền Nam Việt Nam. Ý cầu nguyện chính là cầu xin cho chiến tranh chấm dứt và xin Đức Mẹ chặn bước chân của người anh em Cộng sản: “Trái Tim Mẹ sẽ thắng”. Nhưng đường lối của Chúa chẳng mấy khi giống với mơ ước của con người. Chiến tranh thì ơn trên cho chấm dứt, nhưng bước chân của người anh em Cộng sản thì Chúa đưa vào tận Sài Gòn luôn. Thông cảm được quá với nỗi buồn ê chề của ông Khiêm. Cái kham khổ, thiếu thốn, nặng nề cực nhọc về phần xác trong trại tập trung đã đành, nhưng những thói quen tinh thần, một sự quân bình nào đó đã đạt tới trong xã hội cũ cũng mất đi. Tự nhiên bật ra ngoài cái khung ấy, hỏi sao không hụt hẫng?
Nhưng mất gì thì mất, đức tin vẫn là cái còn lại. Mà đức tin từ thời Abraham đến giờ vẫn có những lúc chuyển vào tâm hồn tín hữu một tiếng gọi “Hãy ra khỏi nhà cha ngươi, và đi…”. Đi đâu? Không thấy nói rõ: “Đi đến xứ ta sẽ chỉ cho”(St 12,1). Abraham đi tìm một miền đất hứa. Đối với ông Khiêm, đất hứa là khi nào “Trái tim Mẹ thắng” mặc dù Mẹ thắng kiểu gì thì con cái khó hình dung. Trong khi chờ đợi thì cứ phải như Abraham, “dỡ lều rồi lại dựng lều” (St 12,9)…
Tháng 10 năm 1979, ông Khiêm lại “dỡ lều” rời khỏi trại Cẩm Thủy. Người như ông, viết nhiều, quan hệ nhiều với báo chí cả đạo lẫn đời, ngày 30/04/1975 lại đang giữ chức Giám đốc báo chí phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng Hòa, vậy mà chỉ học tập cải tạo có bốn năm là ngắn đấy. Hơn nữa, ông lại được trả tự do đúng ngày lễ Đức Mẹ Mân Côi. Ông cảm nhận đó như một điềm lạ. Ông trở về với gia đình trong căn nhà gần đường Hiền Vương nay đã mang tên cách mạng là đường Võ Thị Sáu. Thì thế gian vẫn đi đường của thế gian, nhưng ông cảm thấy trong tháng Mân Côi ấy như thoáng một nụ cười ung dung đầy an ủi của Đức Mẹ. Còn Giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp cũng vui mừng đón người cũ trở về, sớm chiều lại sum họp ấm cùng trong ngôi đền ở đường Kỳ Đồng.
Thời gian qua với bao nhiêu chìm nổi, bà con ở Giáo xứ đã quen gọi là cụ Khiêm. Không còn báo Đức Mẹ Hằng Cứu giúp để tôi được nhận bài hằng tháng của cụ, nhưng cũng không thiếu gì dịp được gặp cụ vì vẫn chung nhau một Giáo xứ, một nhà thờ. Nhớ về những năm đó, ấn tượng sâu đậm cụ Khiêm để lại cho tôi là do những lúc niềm vui nơi cụ bộc lộ. Cuộc sống tất nhiên không thể tránh khỏi những khó khăn, căng thẳng, lo lắng nhưng chính những lúc vui mừng hạnh phúc ấy cho tôi nhìn thấy như một dung mạo tinh thần. Tôi xin kể lại đây một vài thời điểm mừng vui đó.
Một trong những niềm vui lớn của cụ Khiêm tôi được chứng kiến đó là quá trình đồng hành với thi sĩ Bàng Bá Lân đến với đức tin vào Chúa. Cụ thường nói cho tôi nghe về lòng thành tín của cụ Bàng Bá Lân khi cụ Lân làm bài thơ “Cầu Nguyện” ở Bình Triệu:
“Từng nghe nói Mẹ ban nhiều phép lạ
Con đến đây cầu xin được ơn trên” hoặc
“Tê-rê-sa tôi rất cám ơn người
Đã cho tôi một nhân sinh triết lí
Không tham vọng sống thu mình nhỏ bé…”
Cụ Khiêm xuýt xoa: “Một Hàn Mạc Tử thứ hai”. Lần này thì tôi cho là cụ nói hơi quá. Tôi không dám phủ nhận tài thơ của cụ Lân, nhưng tôi nghĩ cao điểm thơ ca của cụ Bàng đã nằm lại ở nông thôn ngoài Bắc từ thời tiền chiến. Không hiểu sao đến bây giờ tôi vẫn nhớ một bài thơ đã thuộc lòng từ thời tiểu học về cảnh đêm trăng vắng lặng:
“Ông lão nằm chơi ở giữa sân
Tầu cau lấp loáng ánh trăng ngân
Thằng cu đứng vịn bên thành chõng
Ngắm bóng con mèo quyện dưới chân”
Hình như thế giới tinh thần của cụ Bàng nằm trong cái bình lặng bát ngát đó, ở đấy có hồn cốt của một thế giới nông thôn và một thời. Nông thôn Miền Bắc thì hiện nay vẫn còn đó, nhưng từ thời cảm hứng của cụ Bàng đến nay quá nhiều chiến tranh bom đạn, quá nhiều đảo lộn xã hội và tâm linh đã nối tiếp nhau, rồi nông thôn cơ giới hóa, ô nhiễm, rồi lòng người với những lo toan, bận bịu, tư lợi, bất công, duy vật,… khiến cho ông lão nằm chơi dưới ánh trăng kia đã cùng với nhà thơ đi vào cái cốt yếu không nhìn thấy được, đó là tinh hoa thầm lặng của một thời. Và khi cụ Bàng Bá Lân đem cái tinh hoa tồn tại và đã trở nên vô hình ấy đến với chị Thánh Têrêsa hay Đức Mẹ Bình Triệu thì cụ đã đi vào cái cốt yếu mà không bận tâm nhiếu đến thi tứ hay thi pháp. Và đến đó thì Hàn Mạc Tử hay cụ Lân, cụ Khiêm cũng chia nhau một niềm vui, và tôi đồng cảm được với niếm vui đó.
Năm 1988, cụ Bàng Bá Lân qua đời, cụ Khiêm tổ chức thánh lễ cầu hồn rất trịnh trọng. Cụ mời nhiều vị trong giới văn nghệ sĩ lão thành đến dự. Lâu rồi tôi không nhớ được danh tính của các vị nhưng biết chắc có nhiều vị tên tuổi từ thời tiền chiến. Cụ nhờ tôi chia sẻ lời Chúa trong thánh lễ đó. Tôi cứ thành thực nói lên những suy nghĩ của mình, rồi tôi mang cả những trưa hè, lẫn những đêm trăng, cả tiếng sáo diều, tiếng chày giã gạo,.. vào bài giảng. Cụ Khiêm có vẻ tâm đắc. Cuối lễ, người bạn văn rất thân của cụ Khiêm là cụ Võ Long Tê tươi cười bảo tôi “Ông làm thần học về các thực tại trần thế đấy phải không?” Như thói quen của các cụ đồng tuế, cụ Võ Long Tê nói nguyên văn bằng tiếng Pháp “Théologie des réalites terrestres”.
Chỉ nguyên một câu nói đó khiến tôi nhớ lại cả một thời, nhìn các cụ cao tuổi là đã thấy gợi lên cả một thời văn hóa mượt mà, êm đềm thời tiền chiến. Về mặt đạo cũng vậy. Đúng ra thì từ các thực tại trần thế, lúc nào mà chẳng có thể vươn lên thành thần học? Nhưng lối nói đó: “Théologie des réalites terrestres” là một lối nói thịnh hành đặc biệt vào cả chục năm phục hưng và đổi mới thần học sẽ đưa đến Công đồng Vatican II và thời sau đó. Những người như cụ Khiêm, cụ Tê đã sống và chịu ảnh hưởng cũa giai đoạn ấy, của diệu cảm ấy. Và trong một chừng mực nào đó thì cả tôi cũng vậy, mặc dù tôi thua kém các vị đến hai chục tuổi. Nhưng chính vì vậy mà thế hệ tôi là một gạch nối giữa thế hệ các cụ và giới trẻ về sau ít có kinh nghiệm sống động về một quá khứ còn chưa xa. Cuộc sống biến đổi nhanh quá, có nhiều điều thời trước thấy rất thấm thía mà nhiều bạn trẻ bây giờ lại tưởng như xa lạ. Đó cũng là một lý do khiến tôi viết những dòng này, vì tôi tin rằng dưới những đổi thay mới lạ, vẫn có một tính liên tục mà nếu phát hiện ra sẽ có cả một niềm vui.
Một niềm vui khác nữa của cụ Khiêm: ngày ấy chúng tôi có sáng kiến tổ chức một cuộc hành hương của các bà “ Mẹ bồng con”. Nhà Dòng chúng tôi có Thánh Gerardo Majella (1726 – 1755) có đặc sủng cứu giúp các bà mẹ mang thai và các thiếu nhi. Lễ mừng Ngài ngày 16/10 chúng tôi mời gọi các bà mẹ đang mang thai hoặc đang nuôi con dại cùng con mình kính viếng Thánh Gerardo và mừng lễ với nhau. Chị em hưởng ứng năm sau đông hơn năm trước. Suốt buổi lễ ấy nhà Thờ vang lên những tiếng líu lo chí chóe của các bé. Những bà con quen với bầu khí tĩnh lặng trầm mặc thường ngày thì có hơi bị chia trí. Nhiều người khác lại rất vui. Cụ Khiêm thuộc phía những người rất vui, lúc thường cụ là người rất nghiêm túc, thấy nghi lễ nhà thờ có điều gì cụ coi là sai quy chuẩn, sớm muộn cụ cũng sẽ góp ý kín đáo nhưng thẳng thắn để yêu cầu sửa đổi. Riêng đối với cái hồn nhiên của bọn nhỏ cụ lại rất cảm thông, có ai tỏ ý hơi phiền lòng vì bọn nhỏ cứ như chim vỡ tổ, cụ lại tươi cười gạt đi “Kệ chúng nó! Cứ để chúng nó tự nhiên thế”
Ngày xưa Chúa Giêsu cũng muốn đón lấy trẻ con như thế. Chúa còn bảo nước trời là của những ai giống như chúng nữa kia. Nghe như giữa vị học giả nghiêm cẩn, trẻ thơ măng sữa và lời Tin mừng là một hợp âm. Tôi cũng vui lây.
Năm 1993, cụ Khiêm đi hành hương các đền thánh Châu Âu. Trọng điểm của chuyến đi này là hôm cụ được tham dự thánh lễ của Đức Châu Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolo II trong nhà nguyện riêng của Ngài ở Vatican. Trong dịp này cụ đã dâng kính Đức Thánh Cha một số tác phẩm đã biên dịch của cụ, trong đó có cuốn “Người chứng thứ nhất”, cùng với thỉnh nguyện thư xin tôn phong chân phước cho Andre Phú Yên. Chín năm sau, cụ còn có dịp đi Roma và được diện kiến Đức Gioan Phaolo một lần nữa.
Sau này cụ sẽ nhắc tới “cuộc hạnh ngô ngàn năm một thủa” với Đức Gioan Phaolo. Từ lần đầu cụ Khiêm đến Roma thời Đức Pio XII, trên dưới 50 năm đã qua. Trong một nửa thế kỉ đó, bao nhiêu là biến cố thăng trầm, đảo lộn đã xảy ra trong đạo ngoài đời, trên thế giới và ở Việt Nam. Cuộc sống riêng của cụ cũng chìm nổi giữa những đổi thay ấy. Ta có thể hình dung được những ưu tư trăn trở, vui buồn, hy vọng, thất vọng của cụ thời chiến rồi thời bình, thời có một chút tự do tư bản rồi thời xã hội chủ nghĩa, những vấn nạn của cụ về ý thức hệ, những lúc như khai thông, như bế tắc. Từ quá trình đó mà giáp mặt với nhân dáng phi thường, nhân dáng khổng lồ của vị Giáo Hoàng người Ba lan vào thời điểm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, chắc chắn phải để lại trong lòng cụ nhiều âm hưởng vào những năm cuối đời.
Một niềm vui nữa cho cụ Khiêm: Năm thánh 2000 mừng thiên niên kỷ mới, ước mơ lâu năm của cụ đã thành hiện thực: ngày 5 tháng 3 Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II đã tôn phong người tín hữu thanh niên Việt Nam thế kỷ XVII là Andre Phú Yên lên hàng chân phước. Vị tử đạo đầu tiên của Hội Thánh ở Đàng Trong lại được tôn phong rất chậm so với 117 vị hiển Thánh khác của Việt Nam. Chẳng biết những cơn hoạn nạn không thiếu phần bị tráng của dòng Tên cả trong đạo lẫn ngoài đời từ cuối thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XVIII có phải là một nguyên nhân của sự chậm trễ này chăng?. Dù thế nào thì những giấy tờ, sách vở của những thừa sai tiên phong kia vẫn còn lưu trữ trong lòng Hội Thánh. Và trong Hội Thánh vẫn có những người miệt mài với những trang sử cũ, đem đối chiếu với các tài liệu đương thời. Trong số những người miệt mài đó có cụ Phạm Đình Khiêm. Đó là những người đã góp phần làm cho Andre Phú Yên sống mãi trong lòng dân Chúa.
Dịp lễ phong chân phước này cụ Phạm Đình Khiêm đã viết một bức thư nghe nói là “ rất tình cảm” gửi về dòng Tên ở Roma, nơi còn giữ di cốt (thủ cấp) của chân phước Andre Phú Yên. Thư đáp lễ gửi cụ Khiêm của ban thỉnh nguyện các vụ án phong Thánh của dòng Tên cho ta cảm nhận được tình hiệp thông của cụ với Hội Thánh:
Thưa Giáo sư kính mến,
“Bức thư thân thương của cụ đã đến với chúng tôi liền sau hôm mừng lễ tôn phong cho chân phước Andre Phú Yên thân yêu.
Chúng tôi cảm nhận được cụ đã ở gần chúng tôi bao nhiêu và đã hòa mình tới mức nào trong biến cố lớn cho toàn thể Giáo hội Việt Nam, đặc biệt cho những ai đã có thể cộng tác với chúng tôi để đạt tới thành tựu hạnh phúc này. Chính cụ là một người chúng tôi phải thọ ơn. Chúng tôi xin cụ biết cho rằng chúng tôi luôn nhớ cụ kể cả trong những năm tháng sau này khi chúng tôi không còn được cơ hội trao đổi thư tín với cụ…”
Xin tạm ngưng câu chuyện về những vui mừng của cụ Khiêm. Tôi không dám cho là mình biết nhiều về những vui buồn trong đời cụ. Nhưng những niềm vui mà tôi được chia sẻ trên đây quả thật đã phản ánh chiều sâu tâm hồn cụ.
Những năm sau này tôi ít có dịp gặp cụ Khiêm. Từ 2008 tôi đã chuyển ra Giáo xứ Thái Hà, Hà nội. Về những chuyện một mặt thì gay go, căng thẳng, nhưng mặt khác lại đầy hồng ân vì Chúa cho gặp và cảm thông sâu sắc với bao người gần xa không phân biệt lương giáo, tôi xin không nhắc lại đây làm gì. Chỉ xin nói rằng suốt những năm tháng ấy cụ Khiêm vẫn gửi cho chúng tôi những tín hiệu, tỏ rõ cụ vẫn theo dõi, cầu nguyện, hiệp thông với chúng tôi. Lâu lâu tôi có dịp về Sài gòn, thường được cụ hỏi thăm nồng nhiệt. Cụ đã già yếu đi nhiều, không tự mình đến nhà Thờ được nữa. Những dịp lễ tết, cụ cũng vẫn gửi thiệp, nhắn tin ra Hà Nội để hiệp thông. Nét chữ của cụ càng về sau càng méo mó không còn nhẹ nhàng bay bổng như xưa.
Cụ Phêrô Phạm Đình Khiêm qua đời lúc 15 giờ ngày 3 tháng 3 năm 2013, hưởng thọ 93 tuổi. Tôi rất tiếc không về được Sài gòn để tiễn đưa cụ. Nhưng năm nay, tôi được dự lễ giỗ đầu. Người đến dự thật đông, rất nhiều mái đầu bạc của những người đã thân thiết với cụ Khiêm không biết từ bao lâu. Riêng những người tôi có quan hệ cũng đã từng sinh hoạt với nhau đến 40 năm rồi. Nhưng bên cạnh những gương mặt đã già đi sau bấy nhiêu năm tháng, lại không thiếu những gương mặt trẻ của các thế hệ kế thừa. Hóa ra cụ Khiêm già cả, suốt đời hiền hòa khiêm tốn đã nối kết và tụ họp được nhiều người đến thế. Bầu khí thánh lễ ấm cúng, thân tình làm tôi nhớ lại khúc hát của Trịnh Công Sơn: “Tình ngỡ đã phôi pha, nhưng tình vẫn còn đầy; người ngỡ đã đi xa, nhưng người vẫn quanh đây”…
Lại nhớ đúng ngày này năm trước, đêm đã khuya, tôi đã đi nằm, chợt điện thoại reo. Tôi hơi lo ngại không hiểu có việc gì mà ai phải gọi mình giữa đêm khuya vắng lặng. Hóa ra từ đầu giây bên kia một người bạn từ nước ngoài nhắn tin: “đã có Giáo Hoàng mới, biết chưa?” Tôi bật dậy chạy qua phòng bên cạnh, mở đài CNN, thấy Đức Giáo Hoàng mới Phanxicô đang đứng trước biển người trên quảng trường Thánh Phêrô. Ngài có một cử chỉ độc đáo là cúi đầu sâu xin toàn thể Hội Thánh cầu nguyện cho mình, rồi sau đó Ngài mới chúc lành cho Roma và thế giới (Urbi et Orbi). Sự xuất hiện kể là rất đột ngột bất ngờ của Đức Giáo Hoàng Phanxicô trước Hội Thánh đúng vào ngày cụ Khiêm ra đi nhắc nhở tôi rằng cuộc đời nhỏ bé, giới hạn của mỗi tín hữu nằm trong sự sống vô tận mà luôn đổi mới của Chúa là Đấng hướng dẫn lịch sử.
Vũ Khởi Phụng, DCCT
(Bài do Gia đình Cố Học giả PĐK. cung cấp. ht. xin chân thành cảm ơn Quý Quyến)

Thứ Ba, 12 tháng 11, 2013

CẦU NGUYỆN CHO NGƯỜI PHI LUẬT TÂN

Nó giống như một hôm mình đang ở trong nhà, bỗng nghe bên hàng xóm láng giềng những tiếng la hét thất thanh kêu gào đòi cấp cứu. Thật kinh khiếp khi nhìn sang nhà đó, tất cả thành một đống tan hoang đổ nát sau một tai nạn nào đó : Cháy nổ bình gas, sập trần nhà, bom rớt, người gục chết v.v...Bão Haiyan tàn phá nước Phi-Luật-Tân như vậy và cảnh tượng đã như trên. 
Gấp bội phần và  là một trong những cơn bão tồi tệ nhất trong lịch sử. 
Có thể đã có tới 10.000 người trên đảo Leyte thiệt mạng. Một nghĩa trang buồn khổng lồ và lộ thiên tại nước Bạn đang hình thành.
Tôi như không thể nghe được ngàn vạn tiếng khóc than của người Phi Luật Tân mà chỉ nghe tiếng gió rít bão gầm át cả. Hình như con người Phi Luật Tân cũng không còn sức để khóc thương người thân vùi thây dưới bão. Họ đang đói và khát lả.
Chỉ biết cầu nguyện cho các Bạn, những Linh Hồn vừa mới qua đời và những bóng ma đói sống sót vất vưởng trong thành phố hoang tàn.
Đã mấy ngày nay rồi, tôi nghe ngóng, trông mong một tin ấm áp nào đó cho các Bạn. 
Chúng ta cùng đón nhận đây là một trong những cuộc thanh tẩy.
Chúng tôi cầu nguyện cho Bạn, thưa các Bạn Phi Luật Tân, xin cùng chúng tôi nâng tràng chuỗi lên, tôi tin ở đâu đó có những Thánh Giá Chúa, những thánh tượng Mẹ còn vẹn nguyên ở bên các Bạn là những người con yêu dấu của Chúa Mẹ trong cơn hoạn nạn khốn cùng.
Xin cho các Cụ già tìm được nơi trú ẩn và có bữa ăn.
Xin cho những cháu bé có nước và sữa. 
Xin cho các phụ nữ đang mang thai được  bình an.
Xin cho các thanh niên thiếu nữ còn sức khỏe  để chăm sóc người bên cạnh.
Xin cho mọi người biết nhận ra Chúa là Chúa sự Sống, để đủ sức vượt lên bất cứ một sự chết nào, chúng con đón lấy Thánh Ý Ngài.
Lạy Chúa xin thương xót chúng con.
ht.


Chủ Nhật, 14 tháng 7, 2013

CON LAN



Hồi đó, khi ba mẹ tôi mới chuyển nhà từ cao nguyên về Sài Thành, đối diện nhà tôi có nhà con kia tên Lan, người Nam bộ.
 Tôi đã dữ, nó còn dữ hơn tôi nhiều.
Tôi ghét nó vì nó cứ chằm chằm gây sự với chị em tôi là ma mới của xóm.
Con Lan người bé nhỏ, gầy đen. Họ nhà nó ở đây lâu đời nên đông, chính xác là cả khu người Nam bên kia đường, trong hẻm đối diện nhà tôi đều  là  họ hàng nhà nó. Nó như chó cậy gần nhà, xoạch một cái nó từ trong hẻm chạy ra, ném cục gạch vào người em tôi xong biến mất, không làm sao bắt được quả tang cục gạch văng đi từ tay nó.
Tôi tức nó nhiều lần đi học về không ăn được cơm vì nó chỉ dám bắt nạt đứa bé hơn nó, đố có dám ném tôi, nhưng chính vì thế tôi không thấy được lúc nào nó hành sự. Đối với tôi, con Lan là đứa gian ác dễ ghét nhất trần đời.
Nhiều ngày đi học về đến nhà nghe  mách con Lan ném đá vào người em rồi chạy ù vào xóm nó, tôi giận lắm, bày kế với các em trả thù ...đời. Trẻ con đứa nào cũng như tôi vậy thôi , không bao giờ để yên cho  đứa nào bắt nạt em mình bao giờ đâu. Bằng mọi giá, phải chiến đấu đến cùng, cho nên bảo sao các thầy cô cứ phải xử những vụ đánh nhau là chính.  Mấy con em tôi tuy bé hơn Lan nhưng ỷ có tôi, một hình ảnh thần tượng tuyệt vời trong mắt chúng, nên hăng hái tham gia trò này của sư phụ.
Kế hoạch được thực hiện vào ngày tôi được nghỉ học hai giờ cuối, để về trước giờ tan trường Tiểu học của các em tôi.
Trưa hôm ấy, núp sẵn bên tường nhà đầu hẻm, tôi chờ Lan và chờ hai em tôi đi học về.
Chỉ trong chốc lát, tôi thấy bóng con ranh đáng ghét đó chạy vụt ra, gần tới chỗ tôi núp nó lại thụt vào. Tôi đoán nó chưa thấy các em tôi về tới.
Khi gần tới giờ cao điểm, áng chừng trẻ con trường trong  sắp túa ra, tôi nhìn vào phía chợ.
Kia, hai con em bé bỏng tội nghiệp của tôi đang tiến gần về ngã ba đầu chợ, tôi quay ngoắt về hướng đối diện tức hẻm nhà con Lan. Y như rằng, tôi bắt quả tang con Lan đang vừa phóng ra vừa giơ cao tay định ném một cục đá xanh về phía em tôi. Tôi lập tức nhảy ra chụp lấy cánh tay cầm đá của nó, bẻ ngoặt xuống, tay kia tôi chụp cánh trái của nó rồi khóa gấp hai khuỷu tay nó ra đằng sau. "Cơn bà lên", tôi lẳng lặng lôi ngược xềnh xệch con Lan về trước cổng nhà tôi. Hai con em  đang trố mắt nhìn màn võ tuyệt vời của con chị, nghe tôi quát : Vào lấy cho chị sợi dây để trên bàn, hai đứa tá hỏa vứt cả cặp táp, chạy biến vào nhà, thoắt cái sợi dây thừng ở trong tay tôi.
Hai con ngố, thấy Lục Vân Tiên vất vả vậy thì phải phụ, đây không, hai đứa đứng chắp tay sau đít nhìn tôi hành động.Vậy mà bảo tham gia, tham gia cái gì !
Tôi quấn liên hồi cả chục vòng dây vào hai cổ tay con Lan, đoạn thắt nút theo kiểu Hướng Đạo tôi mới học năm trước khi sinh hoạt Phật Tử trên chùa cũ .Hai đầu dây tôi buộc vào một bên hàng rào ngay cổng nhà tôi.
Một lúc lâu lắm mới xong phần trói ...gà. Cả gà cả tôi, người ướt đẫm mồ hôi.
Rồi tôi khảo :
- Tại sao mày cứ ném đá vào em tao ?
Nó bảo :
- Tao ném đứa khác chớ bộ.
Tôi giơ thẳng cánh tát cho nó một cái, đỏ hết một bên má, cãi hả, ngày nào em tao đi học về cũng bị mày ném mà còn cãi hả ? Hỏi nó có vậy mà nó bật khóc. Con này nhát, hơn 10 tuổi rồi chứ ít à mà còn mít ướt. Xong, nghe nó òa khóc, tôi sợ người lớn biết tôi xử nó lại can ngăn, làm hỏng kế hoạch của chị em tôi, tôi vội đốt cháy giai đoạn để còn mau ...tha nó :
- Từ nay trở đi mày còn ném đá em tao nữa không ?
Nó lắc đầu.
- Nhớ nghe mày, lần sau ...biết tay tao. ( tay tát con người ta đỏ má, nó biết rồi thây, còn lần sau gì nữa).
Lúc ấy, thật tình tôi không biết giáo huấn nó thế nào nữa, hù đại vậy cho nó sợ.
Được kẻ thù vâng phục, tôi đâm oai hẳn ra, nhân đạo, khoan hồng hẳn ra, bèn gỡ dây thả nó. Chưa nư, còn lên giọng kẻ cả :
 - Hỗn, không được tao - mày, phải gọi tao là chị .
Tù binh được thả, cóc thèm nói một lời biết ơn, chạy tót về nhà.
 Hai oắt tì xà lai nhà tôi vẫn chưa bừng tỉnh cơn mê, mải nhìn chăm chăm theo hướng con Lan, cho tới khi nghe gọi vào ăn cơm.
Từ ấy về sau, trên đường đi học về, hai em tôi được an toàn. Tôi không oai nhưng con Lan biết sợ.
Chuyện thời bé con thế đấy.
 (Xem ra đem chuyện này ví von với chuyện hiện tại, ngư dân ta bị bọn Tàu cướp của, đánh bắt ngoài khơi thấy đau lòng. Kinh nghiệm là phải cứng cựa với kẻ xấu, chúng mới sợ. Chính quyền mình như con chị hèn nhát, bạc nhược, có ngày giặc nó ngồi lên đầu cả ba chị em,cũng cúc cung lạy nó à ? Khốn nạn !)

()()()()()()()

Ít lâu sau, gia đình tôi  dọn vào hẻm trong chợ. Chị em tôi xa xóm ngoài, không gặp con Lan nữa.
Nhiều năm sau, chúng tôi lớn cả. Tôi nghe được chuyện này, thấy thương Lan :
Con trai nhỏ của Lan chơi bắn thun , bắn thế nào vào ngay mặt mẹ, làm hư mất một bên mắt của Lan. Nhà nghèo, Lan phải bán chiếc xe đạp để thuốc thang chữa trị.
Nếu bây giờ có dịp gặp Lan, tôi sẽ hỏi thăm nó nhiều với cung giọng rất nhẹ nhàng, dịu dàng, trìu mến.
Bù lại cái tát nó chịu, ngày hai chúng tôi đều còn bé.
HT.






Thứ Năm, 4 tháng 7, 2013

MỘT LẦN NHỚ THẦY


Có những giấc mộng, ta không thể nào quên. Sẽ nhớ mãi, nhớ từng chi tiết nhỏ bé nhất, như sự thật hiển hiện  rõ ràng ...Đây là một trong những giấc mơ như thế.
Trong giấc ngủ gần sáng, tôi  mơ thấy nhạc sĩ Hải Linh, thầy giáo dạy tôi môn đánh nhịp.
Người đã qua đời năm 1988 tại Hoa Kỳ.
Thầy Hải Linh ở sau một bureau, đối diện với tôi. Trên mặt bàn, góc bên phải thầy Hải Linh, có một chồng sách chừng mươi cuốn, loại sách nhạc khổ lớn.
Thầy cười tươi với tôi.
 Từ đầu tới cuối, thầy luôn cười tươi, da dẻ trắng trẻo hơn xưa, khuôn mặt đầy đặn hơn xưa, hai má không hóp như xưa. Rõ ràng và như có ánh đèn sáng chiếu vào thân người ông. Trong mơ tôi chỉ thấy  mặt, một cánh tay trái và thân người của nhạc sĩ, vì ông ngồi sau cái bàn làm việc ấy. Đàng sau ông không có gì ! Trên bàn, sát chỗ tôi đứng (tôi đứng đằng trước cái bureau, sát mép bàn,rất mờ nhạt, hòa trộn vào bóng tối nhưng có cử động và nhìn trực diện nhân vật chính), có mấy tấm ảnh khổ to, khoảng gấp đôi 9 X 12, tất cả chập vào nhau, được dựng đứng, quay lưng lại tôi. Đằng lưng những tấm ảnh ấy cho thấy chúng đã cũ và được trưng một cách giản dị, đơn sơ, không đế (không biết làm sao chúng đứng thẳng được). Trong ....tôi, tôi nghĩ rằng đây có lẽ là ảnh Dung, Đức và bà Hải Linh.
Chỉ cần nhoài người về phía trước và nhìn ngược lại  là tôi có thể nhìn thấy ảnh ai, ai là người mà thầy Hải Linh chưng ảnh để nhìn khi làm việc, nhưng tôi không làm thế.
Khi thấy tôi có ý muốn nhìn xem mặt chính của mấy tấm ảnh, thầy thoáng buồn chút xíu, rồi lại cười tươi, đẩy nhẹ về phía trước một túi giấy bìa khác, cùng loại bìa màu xanh ố cũ, nhưng nhỏ, hình chữ nhật, trong có đựng sẵn vài tấm ảnh, đúng là loại túi đựng ảnh 4 x 6 mà chúng ta thường kèm theo hồ sơ cá nhân hay đơn từ ..., nhưng túi này lớn hơn 4 x 6 một  độ, đang ở dưới bàn tay trái của thầy. Chỉ là nhá tới thôi chứ không nhấc lên khỏi mặt bàn.
Cùng với động tác đẩy nhẹ túi ảnh nhỏ ấy, thầy Hải Linh nói với tôi, nguyên văn như thế này :
-" Đây mới là những ảnh vui . Ảnh của Cô, Anh để trong này".
Tôi hết sức ngỡ ngàng, ngạc nhiên, tại sao thầy tôi lại có lối xưng hô với tôi lạ lùng như vậy. Khi sống, thầy Hải Linh xưng là Hải Linh hoặc thầy, về sau, khi bố tôi mất rồi thì có khi thầy còn xưng ba với tôi nữa. Thầy gọi tên tôi. Không bao giờ gọi tôi là cô.Coi tôi như con, như Dung Tran, con gái thầy. Tôi cũng lấy làm lạ tại sao trong giấc mơ, chữ Anh và chữ Cô lại viết Hoa ? Khi thầy Hải Linh nói câu này thì tôi thấy câu nói ấy hiển hiện bằng ...văn bản ở ...trong tôi. Trong tôi nghĩa là ...trong tôi, không diễn tả được.
Ai đã từng nằm mơ đều biết, trong mơ, nhiều chi tiết rất kỳ lạ , không thể có trong thực tế.
" Anh - cô " chính là lối xưng hô của anh Hiên ( nhà văn Vũ Sinh Hiên) vẫn dành cho tôi. Tôi bỗng nghĩ quẩn, hay anh Hiên sắp chết rồi chị Hà ơi. Cả em nữa !
Ô không, chỉ là mơ qua. Nhẹ qua !
Giấc mơ về sáng này gieo cho tôi một niềm vui nhẹ nhàng, dường như là sự bình an thiêng liêng thế nào ấy, khi tôi nhớ lại dung mạo vui vẻ, sáng trắng của nhạc sĩ Hải Linh trong mơ.
Nguyện ước thầy đã lên cùng Chúa.
Nhớ thầy, người thầy quá cố hiền lành, nghèo khó ( nghèo quá sức là nghèo) , đơn sơ và thân thiết, gần gũi với tôi trong những năm tháng cùng quẫn, u buồn , thất vọng ...sau 75'....
Nhớ những tấm ảnh thầy ghi tặng đằng sau với chữ ký Hải Linh có chìa khóa Sol : Tặng ranh ca ...Giờ "ranh ca" không nhớ để đâu những ảnh thầy cho, vương mất hết .....
Nhớ chục cam thầy mang đến tận nhà, trong ngày bố Hải Triều mất.
Nhớ chung rượu thuốc quý hóa mỗi lần đến học được thầy rót cho vài giọt kẻo hết của thầy. Kể từ khi bạn cùng giờ học là Lại Thế Hưng vượt biển, còn lại mỗi mình bạn HT này thì thầy không dạy gì thêm, trò cũng không phải trả bài. Học ranh gì mà lớp có mỗi hai mống.  Đến nhà cô Chín chỉ là  nghe thầy nói chuyện nhà thầy và chuyện ông Li-ông-cua nào ấy ở bên Pháp mà thầy hay khen. Nghe, thỉnh thoảng dạ vâng, chả biết ông ấy là ai. Lâu lâu  làm được động tác hoa mỹ nào đúng nhịp, thầy hài lòng, bảo : Tốt, tốt lắm.
Về sau,  thầy hay cho nghe thầy chơi dòng Intro và phần đệm đàn bài Bến Thiên Đàng. Đoạn chạy những Liên Ba móc kép thầy đánh say sưa, hào hứng, người ngả đầu nghiêng, hài lòng với sự kết hợp này.
Bài Yêu con đời đời cũng được thầy nhún nhảy mỗi khi nhận được thư vui , ảnh mới từ Dung, Đức.
Thầy cũng hay chơi bài Thơ Thơ, tha thiết và tâm tình : "Ba  yêu con Thơ Thơ..." 
Ngoài ra, những giây phút còn lại trong đời thầy là buồn và ....buồn.
Nhớ năm 85 hay 86 thì phải, thầy đãi trò, kêu nhà hàng dọn đĩa thịt bò tươi sống cao sang, một lạng ba người ăn.
 Nhớ những buổi hai thầy trò đi chợ, lần nào cũng chỉ mua đúng một lạng thịt nạc, 2 quả cà chua, vài ngàn bạc bún , cây rau xà lách, vài cọng rau thơm, hành ngò về nấu nồi bún riêu...to, đủ để thầy nhường trò, trò nhường thầy. Thế là  xong bữa trưa gọn nhẹ, nóng hổi vào những Chúa Nhật , sau buổi làm việc về nhạc Hải Linh ở nhà thờ Thánh Giuse, Chợ Lớn.
Nhớ hai má hóp và cái miệng móm vì mất răng của thầy.
Nhớ manh vải trắng thầy từ Mỹ gửi về làm quà cho con, sau đó ít lâu, học trò ở VN. nghe tin thầy qua đời.
Nghĩ hay !
Chưa bao giờ tôi nói về nhạc sĩ Hải Linh nhỉ.
Mỗi lần môn sinh, thân hữu tổ chức lễ Giỗ, tưởng niệm nhạc sư Hải Linh, quý ban tổ chức thường đề nghị anh chị em viết bài về Thầy nhé. Mình tịt. Thân quá, nói gì cũng thấy thừa. May đời có lần viết về thầy, nhờ chút mơ hoa !
Thầy. Nếu lần sau con mơ thấy thầy, thầy cũng tươi cười với con như vầy, con sẽ viết tiếp về thầy.
"Thoáng mỏng" thôi.
HT
Thân hữu viếng mộ nhạc sĩ Hải Linh (1920-1988) - Ảnh mạng-

Thứ Hai, 1 tháng 7, 2013

NÓ CÓ DAO


Nhớ lại tuần trước nuôi mẹ trong nhà thương, xui xẻo sao hai mẹ con tạm trú cùng phòng với dân giang hồ.
Cha nội đó gục trên bàn nhậu, chiến hữu hè nhau quăng vô bệnh viện cấp cứu. Tăng xông lên trợn trắng hai con mắt, chân tay gồng cứng co quắp, lưỡi thè dài, quai hàm vẹo.
Bác sĩ cứu kịp thời, gã a lô kêu  9 giờ tối nay tiếp tục nghen tụi bay.
Sáng sớm, bác sĩ vô phòng, khai nhức đầu xây xẩm,  hỏi tối qua có đi nhậu nữa không, có, 6 chai thôi hà. Bác sĩ hỏi tiếp : Trước giờ vẫn vậy sao ? Không, cỡ 10 chai là cùng.Từ hồi bà già chết mới uống nhiều.
Giờ sao, còn vầy thì một là chết, hai là liệt, chọn đường nào ? Đi nữa không thì đi đi, chịu không ? Con vợ hất đầu bác sĩ hỏi nó á. Thằng chồng nín thinh.
Bỏ thôi anh ơi, mới bốn chục, còn trẻ quá mà phí đời vậy. Ráng lên nghe. Giọng nói dịu dàng của lương y chẳng biết có đánh động được gã bợm này không.
Nằm rũ trên giường bệnh viện mà nó còn lè nhè, con vợ, mày đánh 67 cho tao, hồi đêm bà già hiện về biểu.
Bà má nó, trúng tao mày kêu nguyên két.Tao nói nghe, bác sĩ cũng theo ca chứ đâu có mặt hoài mà kiểm tra tao. C.
Thằng này có giọng nói cục cằn thô lỗ hết sức, cam đoan ai nghe cũng muốn ói. Hai vợ chồng giang hồ thứ thiệt rồi. Chồng quát một câu, vợ trả một câu. Chửi nhau như chó cắn, xong con vợ lại tót lên giường bệnh, hai đứa nằm mở ti vi nhà thương coi phim bộ , đài Việt mà toàn phim Tàu....Chung phòng mà chúng sử dụng  ti vi, tủ lạnh như của riêng chúng, tự động tắt mở, tự ý chuyển kênh, bệnh cấp cứu mà ngồi gác chân lên ti vi coi phin... Trời đất !
Ở cùng phòng với bệnh nhân này, khỏe như mình muốn bịnh luôn, nói chi người già ốm thở không ra hơi. Chuyển chích sang uống, xin xuất viện sớm thôi mẹ ơi.
Còn không thì chơi luôn, muốn không, bà má nó, tối qua tới giờ nhịn lắm rồi nghe, trong bệnh viện phải biết tôn trọng bà con cùng phòng chớ, họ đâu có sức mà nghe vợ chồng mấy người chửi bậy, nói tục đâu, thối lắm chịu không nổi ! Làm ơn tế nhị dùm chút coi. Đang tính buông một câu mắng đại loại như vậy cho bõ tức thì cô em vô thay ca, thì thầm, chị ơi, đêm qua chuyển  mợ sang phòng này, em hãi quá, thấy chúng có con dao để trên bàn kìa.
Con nhà lành bỗng co rúm hết cả người, bao nhiêu nhuệ khí chiến đấu với sự xấu biến đi đâu mất hết.
Mặt hai phụ nữ chuyển màu, tái xanh không còn hột máu.
Mẹ già nằm thiếp trên giường bệnh, hai cánh tay mệt mỏi buông thõng trên nệm trắng, bàn tay phải duỗi hờ, trên ngón tay bà, chiếc nhẫn ma-ri-ê và chiếc nhẫn nạm ngọc thạch còn đó, vô tư ...
Nhưng hai ái nữ của bà lúc này không vô tư chút nào.
Thời nay vậy đấy, trăm ngàn mối nguy hiểm chực chờ quanh ta, bất cứ đâu, hãy đề phòng.
Nằm trong bệnh viện, sẽ khỏi bệnh, nhưng coi chừng bị cướp. Nó có dao, ta ...đâu có súng.
HT
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
( Xin mời  đọc bài viết reply của tác giả Laky : click : (BUÔNG DAO ĐỒ TỂ) )

Thứ Năm, 13 tháng 6, 2013

100 NGÀY NHỚ BÁC PHÊRÔ




Chiều mưa, ra cổng mở hộp thư nhận được Thiệp Mời Nhớ 100 ngày Bác Đi Xa. Con bồi hồi lạ. Bác là Học Giả Công Giáo, là nhà Nghiên cứu Công Giáo, là nhà văn, nhà dịch thuật, là người con yêu Mẹ Maria và được Mẹ Maria yêu dấu, là người chồng, người cha thánh thiện, đạo đức, gương mẫu và niềm vui cho mọi người trong gia đình, là Ca Sĩ chuyên trị  bè ngang và là người con rất kính trọng, quý mến.
Vậy là Bác đã về với Chúa được Trăm Ngày rồi.
Mở ảnh Bác ra ngắm.
Con hồi tưởng lại những kỷ niệm, ở đó Bác ưu ái dành cho con những tình cảm bác –cháu thật ấm cúng, chân thành và tôn trọng. Bác đã xem con như một người bạn Nhạc-Thơ, hơn thế, như con cháu trong nhà. Hương kể con nghe toàn Ba thế nọ Ba thế kia. Được coi như người nhà, con cảm động lắm. Cho nên lâu không đến viếng thăm hai Bác, con cứ áy náy luôn í, như là phạm phải một lỗi lầm nào. Mà đúng là lỗi rồi, phải chi khi Bác còn, con cố thu xếp giờ đến hát cho Bác nghe thường xuyên hơn. Sẽ không hát Mẹ ơi  nữa. Và như thế ca sĩ là Bác chứ không phải con. Nhớ lại mỗi lần con đến thăm, Bác bảo con hát Mẹ ơi hàng giờ...Lần nào cũng thế, đột nhiên, sau lần ốm nặng Bác đổi gu, chuyển sang "tông" Vương Diệu, lại mê "Nghìn trùng xa cách"...Hi hi ngộ thiệt.
Giờ đây, ở trên Thiên Đàng, Bác đang làm gì hở Bác ?
Con hỏi thăm thế thôi chứ biết chắc Bác đang hát Thánh Ca rồi. Tung tăng, tung tăng chứ đâu phải nằm liệt một chỗ trong căn phòng nhỏ trên lầu, Bác nhỉ.
Đôi chân Bác đã không còn yếu, đôi tay Bác đã không còn run, tai Bác không còn nghễnh ngãng nặng nữa. Bác không còn phải đi nhà thương nữa. Bác giờ hoàn toàn tự do thanh thản giữa trời hoan ca, muôn đời bên Chúa, Mẹ cùng các Thánh.
Con tin thế có sao đâu, Bác đẹp lòng Chúa Ba Ngôi mà.
Con ước ao sống sao được như Bác, để được về Quê an bình như Bác.
Bác PHÊRÔ ơi, xin cầu nguyện cho con biết sống tử tế, tốt lành. Bác hát cho Đức Mẹ nghe bài Mẹ ơi của con nhé. À, bài Bến Thiên Đàng nữa, cho cả và Thiên quốc nghe.
Bác cầu nguyện cho Bác Gái, cho các anh, chị, em, các cháu trong nhà Bác nhé.
Tất cả mọi người trong gia đình đều trìu mến thân thương nhớ Bác với nhiều kỷ niệm lưu ghi truyền đạt, mọi người thấy lòng bình an, tin tưởng.
Ngày Giỗ Trăm Ngày của Bác con phải trông mẹ con rồi, không đi Lễ được.
Bác nghe con nhắc vậy là nhớ một người Bác vẫn cầu nguyện cho đó, Bác nhớ không Bác ? Bác ơi, nài nỉ với Chúa cho chúng con còn nơi gian nan khổ đau yếu đuối, Bác nhé.
Xin tạm biệt và mong hội ngộ Bác.
HT
Xin xem thêm :
http://nshaitrieu.blogspot.com/2013/03/nho-bac-pham-inh-khiem.html