#Stats1 ul{margin:0;border:0;padding:0;height:32px;background:url(//goo.gl/ZHG881) no-repeat 0 -34px} #Stats1 li{margin:10px 0;border:0;padding:0 0 0 40px;list-style-type:none} #totalComments{height:32px;background:url(//goo.gl/ZHG881) no-repeat} #totalCount{height:32px;background:url(//goo.gl/ZHG881) no-repeat 0 -68px}

Thứ Hai, 31 tháng 3, 2014

NHÂN NGÀY GIỖ ĐẦU


Nhân ngày giỗ đầu -15.3.2014- kính nhớ cụ Phạm Đình Khiêm
Đăng ngày: 18.03.2014
________________________________________
VRNs(18.3.2014) – Sài Gòn – Có những người trời phú cho khả năng gợi ta nhớ, và liên tưởng rất nhiều điều. Cụ Phạm Đình Khiêm là một người như thế đối với tôi. Nếu chỉ có nhớ và liên tưởng suông có lẽ tôi chẳng nói làm gì, hay chỉ ghi lại cho riêng mình, nhưng như St.Exupéry viết “ cái cốt yếu là cái vô hình, cái không thấy được” (l’essentiel est invisible). Cụ Khiêm gợi nhớ, mà từ cái nhớ ấy lại như cảm thụ cái không thấy được, cái vô hình. Tôi may mắn có mặt ở tu viện Kỳ Đồng, Sài Gòn, đúng ngày lễ giỗ đầu cho cụ, và được tham dự thánh lễ cùng với gia đình và rất đông những người đã quen biết cụ. Nhớ cụ ngày trước viết rất nhiều bài cho tôi đăng lên Nguyệt San Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, tôi xin có mấy hàng này để lễ cụ trong ngày giỗ đầu.
Những năm cuối đời cụ ở Sài Gòn, tôi sống cách xa ở miền Bắc, vậy mà cái miền Bắc ấy lại gợi nhớ cho tôi không chỉ về cụ, mà đến cả từng mảng rộng trong đời sống Giáo Hội. Tôi nói đến cái không thấy được, cái vô hình là vì vậy. Chẳng hạn tôi về thành phố quê hương Nam Định. Ngôi nhà thờ nhỏ bé và những cơ sở từ xa xưa còn lại. Nối tôi với một quá khứ mà tôi không được chứng kiến, có Đức Cha Lê Đắc Trọng và Cha Chu Văn Minh, nay cũng là giám mục phụ tá Hà Nội kế vị Đức Cha Trọng. Qua hai đấng ấy, tôi như được đi ngược thời gian lên đến thời cụ Khiêm còn thanh niên.

Cụ Phạm Đình Khiêm bên bàn làm việc khi còn sống
Đó là thời vị thừa sai người Pháp, cha Cao tức André Vacquier, tập họp những thanh niên Công giáo, mở thư viện lớn, xuất bản Nguyệt San thanh niên Công giáo, lập đoàn Hướng đạo, khuếch trương các công tác xã hội… Rõ ràng vị thừa sai người Pháp có cao vọng đào tạo những lớp trẻ ưu tú sau này gánh vác tương lai Giáo Hội. Ví dụ như đồng thời với Phạm Đình Khiêm nhưng trẻ hơn, và cùng sống bên Cha Cao, có Phạm Hân Quynh sau này là một linh mục có nhiều tác động đặc sắc, những năm hết sức khó khăn và khắc nghiệt của giáo hội miền Bắc. Năm 1939 đó Phạm Đình Khiêm chưa đầy 20 tuổi. Anh say sưa dìm mình vào kho sách của cha Cao và cảm thấy sức hấp dẫn của những công trình nghiên cứu và của lĩnh vực truyền thông sách báo. Cũng chính vì thế mà anh đã ghi tên sang tận Paris để học khoa báo chí hàm thụ (cours de journalisme par correspondance). Vị thừa sai cũng như những thanh niên sôi nổi ở Nam Định đều nuôi bao nhiêu ước mơ cho một giáo hội tương lai huy hoàng.
Nhưng có Nhân định mà cũng có Thiên định. Và Nhân định thì không thể thắng Thiên. Cha Cao hay anh Khiêm có những ước mơ đang dậy men. Nhưng thế chiến thứ hai nổ ra, quân Nhật vào Đông Dương, rồi Nhật với Pháp gờm nhau. Pháp núng thế động viên quần trừ bị. Cha Cao còn trong độ tuổi cũng phải gia nhập quân ngũ, cấp bậc thiếu úy. Lúc ấy thì những lực lượng cách mạng Việt Nam cũng đang hình thành. Trong một hoàn cảnh bí mật cha Cao đã bị thủ tiêu không tìm thấy xác vào năm 1943. Xét ra, Cha Cao cũng phải thành hạt giống gieo xuống lòng đất, như bao nhiêu hạt giống khác vô danh…
Về qua Nam Định, tôi lại nghĩ đến những hoài bão của thế hệ xa xưa ấy. Bảo là đứt gánh giữa đường cũng được. Nhưng nói vậy mà không phải vậy, vẫn có một cái gì truyền nối. Trước khi cha Cao thảm tử một năm, Phạm Đình Khiêm đã thành chủ bút của bán Nguyệt san Thanh Niên, và chèo chống được đến năm 1945 thì biến thành Thanh niên chuyên san và đã có tác phẩm đầu tay “Hành Động xã hội của Giáo Hội qua các thời đại và ở Việt Nam”, tựa của cụ Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố, thuộc viện Pháp Quốc Viễn Đông Bác cổ, xuất bản ở Nam Định năm 1945. Rõ ràng đây là kết quả của những năm tháng miệt mài bên cố Cao. Nó nói lên phần đóng góp của giáo hội cho xã hội và dân tộc. Nó là chứng tích của một thời tuổi trẻ hăng say tha thiết.
Sau đó chiến tranh Việt Pháp bùng nổ. Nhóm trẻ Nam Định tứ tán. Không còn là điểm hội tụ, thì nhóm Nam Định lại có mặt rải rác ở nhiều nơi trong nước, như Phạm Hân Quynh bấy giờ đã là chủng sinh Xuân Bích ở Hà Nội, còn Phạm Đình Khiêm thì di cư sang Hưng Yên. Gia đình ghi lại “về Hưng Yên với hành trang duy nhất: một cái cặp đựng quyển sách tiếng pháp Ma Mère (Mẹ tôi) để có thể ghé đâu dựng đó”. Thì ra ham viết, ham truyền thông đến thế! Không thấy ghi thêm chi tiết xem tay trắng như vậy thì làm thế nào tục bản tờThanh Niên ngay từ tháng 10.1946. Thế là đã chí cốt với cái nghiệp viết báo đạo rồi, (còn cuốn Mẹ tôi của cha Schrijvers CSsR thì đã xuất bản ở Huế lần đầu 1949).
Từ đó về sau liên tục thấy Phạm Đình Khiêm hoạt động trong lĩnh vực báo chí. Năm 1948 đồng sáng lập nguyệt san Trái Tim Đức Mẹ với Đỗ Sinh Tứ ở Hà Nội. Cuối 1949, lại vào Sài Gòn chủ trương báo Phụng Sự cùng với Phạm Đình Tân. Năm 1950 Đức Giáo Hoàng Pio XII mở năm thánh và công bố tín điều Đức Mẹ hồn xác về trời. Nghe nói năm đó ngài cũng chứng kiến lại phép lạ Mặt Trời Fatima trong hoa viên Vatican.
Phạm Đình Khiêm được diễm phúc có mặt ở Roma để mừng Năm Thánh. Từ đó ông củng cố và tăng cường lòng sùng kính đặc biệt với Đức Mẹ và sứ điệp Fatima, một kiểu sùng kính dạt dào đã quyện vào ông suốt đời. Nhưng dù thế nào cũng không quên cái nghiệp báo chí. Sau Roma ông lưu lại Paris học hỏi với một số cơ quan báo chí Công giáo Pháp thời ấy đang phong phú. Về nước ông gia nhập Việt tấn xã làm phóng viên Pháp ngữ, phóng sự chiến trường, sát cảnh với những nhà báo quốc tế của AFP, Le Figaro, Paris Match, Reuters, AP. Từ 1954 cho đến 1975 ông là công chức trong ngành báo chí.
Chính trong thời kỳ này, sự gắn bó với Đức tin và Giáo hội khiến cho ông hoàn thành được một số tác phẩm nguyên cứu và chuyên đề có giá trị. Năm 1958, ông cho ra cuốn “Minh Đức Vương Thái Phi”, tiểu sử bà Thái Phi của chúa Nguyễn Hoàng. Năm 1959, đến lượt “Người chứng thứ nhất” khảo cứu về vị tử đạo tiên khởi Đàng trong, Andre Phú Yên (1625 – 1644). Năm 1961, ông cùng với Nguyễn Khắc Xuyên và Andre Marillier soạn tác phẩm “Giáo sĩ Đắc lộ và tác phẩm quốc ngữ đầu tiên” trong đó in lại trọn cuốn “Phép giảng tám ngày – Cathechismus” của Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ). Ngoài ra ông còn những biên khảo chuyên đề như: “Từ Đèo Cả đến sông Gianh – theo dấu hai bà Ngọc Liên-Ngọc Đỉnh” (Văn Hóa nguyệt san 9.1959). “Đi tìm địa điểm và di tích hai thành cổ Quảng Nam và Phú Yên đầu thế kỷ XVII(Khảo cổ tập san 1.1961). “Xã hội Việt Nam thế kỷ XVII dưới mắt Giáo sĩ Đắc Lộ” (khảo cổ tập san 2.1961). “Une grande page d’histoire oubliée du Vietnam… (Sài Gòn 1974), nghiên cứu về lịch sử ngoại giao giữa triều đình Huế và triều đình Dudong (Thái Lan).
Để viết tác phẩm về bà Minh Đức Vương Thái Phi và André Phú Yên, khoảng những năm 1958, 1960 ông đã đi nghiên cứu khảo sát thực địa và phát hiện di tích hai thành cổ Phú Yên và Quảng Nam thế kỉ XVII. Trên kia tôi có cảm nghĩ rằng ông Phạm Đình Khiêm gợi cho ta rất nhiều điều, không chỉ những điều thuộc thời đại ta mà cả những điều chìm sâu trong quá khứ. Không có những chuyến đi điền dã và rất nhiều công trình liên lạc tìm tòi tài liệu, hình ảnh từ nước ngoài: Rôma, Paris, Áo Môn, Lisboa… đúc kết thành tác phẩm của ông, đã mấy người trong chúng ta nghe nói đến bà Minh Đức Vương Thái Phi hay công chúa Ngọc Liên?  Công của ông không phải chỉ là gợi lại quá khứ với những biến cố thô mộc. Công của ông là làm cho ta cảm thấy trong cái quá khứ mù mịt biệt tăm ấy, bỗng bật lên những lời cầu nguyện giống như ta, bà Minh Đức hay bà Ngọc Liên cùng với ta chung một lời kinh Lạy Cha, một lời kinh Tin Kính. Ta không còn chiêm ngắm những bức tượng cổ, nhưng nghe thấy một nhịp thở tâm hồn, ta biết rằng vẫn có đấy một sự sống vĩ đại lưu truyền. Quá khứ không chết. Quá khứ vẫn là một mạch nước ngầm. Cũng vậy, cuốn “Giáo sĩ Đắc Lộ” cho ta như sống lại tinh thần và ngôn ngữ của vị thừa sai từ 300 năm trước ở Thăng Long Kẻ Chợ.
Tôi không có ý nói chỉ có mấy tác phẩm đó của ông, bởi trước ông, đồng thời với ông và sau ông vẫn còn nhiều công trình nghiên cứu về những đề tài ấy và còn cần có thêm nữa, nhưng phải công nhận là ông đã có công phổ biến cho bạn đọc Công Giáo những kiến thức mà chúng ta coi như không phải nhu yếu với đức tin, và do đó dễ bỏ qua, dễ quên nếu có biết, nhưng nghĩ lại đó là những nét phong phú thuộc về mầu nhiệm Hội Thánh không công, như thư Do Thái viết: “Anh em đã đến với linh hồn những người công chính, đã được nên hoàn thiện” (Dt 12,23)
(Còn nữa)
Lm. Máthêu Vũ Khởi Phụng
 Nhân ngày giỗ đầu -15.3.2014- kính nhớ cụ Phạm Đình Khiêm (2) (tt)
Đăng ngày: 22.03.2014 , Mục: - Tin nổi bật, Bình Luận
________________________________________
Nhân ngày giỗ đầu -15.3.2014- kính nhớ cụ Phạm Đình Khiêm (1)
VRNs (22.3.2014) – Sài Gòn –  Năm 2002, tôi chuyển về làm việc ở Sài Gòn. Từ đó có nhiều dịp gặp và giao tiếp với ông Khiêm. Trước đó chỉ biết ông qua sách báo.
Âu cũng là một thứ duyên tiền định, ngôi nhà của ông Phạm Đình Khiêm nằm trong một con hẻm yên tĩnh gần lề đường Hiền Vương. Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần thì lại quan hệ nhiều đến những người vào thời điểm khởi đầu của Kitô giáo Đàng Trong, như bà Minh Đức, như thầy giảng Andrê Phú Yên. Và địa chỉ của Ông thuộc giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Ông làm Chủ tịch hội đồng Giáo xứ nhiều năm liền. Tôi thì không làm việc Giáo xứ nhưng làm bên tòa soạn nguyệt san Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp. Liên tiếp từ 1968 đến 1975 ông giữ mục “Máu đào minh chứng”, giới thiệu tiểu sử của các Chân phước tử đạo Việt Nam. Sở trưởng của ông vẫn là ôn lại, giúp ta hình dung lại và hiệp thông với quá khứ của Hội thánh.
Tác phẩm Người Chứng Thứ Nhất, cụ Phạm Đình Khiêm viết về Thầy giảng Anrde Phú Yên
Sự cộng tác bị bỏ dở năm 1975. Cách mạng đến, tôi là người đứng ra làm cái việc rất không đáng phấn khởi là ghi dấu chấm hết cho tờ nguyệt san đã sống được 46 năm. Ông Phạm Đình Khiêm thì nặng nợ hơn nhiều. Ông phải đi tập trung cải tạo ở trại Cẩm Thủy tận biên giới Việt-Lào trong tỉnh Thanh Hóa.
Tôi nhớ lại mấy năm trước ông đã từng tha thiết và tận tâm tận lực biết bao nhiêu tổ chức rước Đức Mẹ Fatima thánh du Miền Nam Việt Nam. Ý cầu nguyện chính là cầu xin cho chiến tranh chấm dứt và xin Đức Mẹ chặn bước chân của người anh em Cộng sản: “Trái Tim Mẹ sẽ thắng”. Nhưng đường lối của Chúa chẳng mấy khi giống với mơ ước của con người. Chiến tranh thì ơn trên cho chấm dứt, nhưng bước chân của người anh em Cộng sản thì Chúa đưa vào tận Sài Gòn luôn. Thông cảm được quá với nỗi buồn ê chề của ông Khiêm. Cái kham khổ, thiếu thốn, nặng nề cực nhọc về phần xác trong trại tập trung đã đành, nhưng những thói quen tinh thần, một sự quân bình nào đó đã đạt tới trong xã hội cũ cũng mất đi. Tự nhiên bật ra ngoài cái khung ấy, hỏi sao không hụt hẫng?
Nhưng mất gì thì mất, đức tin vẫn là cái còn lại. Mà đức tin từ thời Abraham đến giờ vẫn có những lúc chuyển vào tâm hồn tín hữu một tiếng gọi “Hãy ra khỏi nhà cha ngươi, và đi…”. Đi đâu? Không thấy nói rõ: “Đi đến xứ ta sẽ chỉ cho”(St 12,1). Abraham đi tìm một miền đất hứa. Đối với ông Khiêm, đất hứa là khi nào “Trái tim Mẹ thắng” mặc dù Mẹ thắng kiểu gì thì con cái khó hình dung. Trong khi chờ đợi thì cứ phải như Abraham, “dỡ lều rồi lại dựng lều” (St 12,9)…
Tháng 10 năm 1979, ông Khiêm lại “dỡ lều” rời khỏi trại Cẩm Thủy. Người như ông, viết nhiều, quan hệ nhiều với báo chí cả đạo lẫn đời, ngày 30/04/1975 lại đang giữ chức Giám đốc báo chí phủ Thủ tướng Việt Nam Cộng Hòa, vậy mà chỉ học tập cải tạo có bốn năm là ngắn đấy. Hơn nữa, ông lại được trả tự do đúng ngày lễ Đức Mẹ Mân Côi. Ông cảm nhận đó như một điềm lạ. Ông trở về với gia đình trong căn nhà gần đường Hiền Vương nay đã mang tên cách mạng là đường Võ Thị Sáu. Thì thế gian vẫn đi đường của thế gian, nhưng ông cảm thấy trong tháng Mân Côi ấy như thoáng một nụ cười ung dung đầy an ủi của Đức Mẹ. Còn Giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp cũng vui mừng đón người cũ trở về, sớm chiều lại sum họp ấm cùng trong ngôi đền ở đường Kỳ Đồng.
Thời gian qua với bao nhiêu chìm nổi, bà con ở Giáo xứ đã quen gọi là cụ Khiêm. Không còn báo Đức Mẹ Hằng Cứu giúp để tôi được nhận bài hằng tháng của cụ, nhưng cũng không thiếu gì dịp được gặp cụ vì vẫn chung nhau một Giáo xứ, một nhà thờ. Nhớ về những năm đó, ấn tượng sâu đậm cụ Khiêm để lại cho tôi là do những lúc niềm vui nơi cụ bộc lộ. Cuộc sống tất nhiên không thể tránh khỏi những khó khăn, căng thẳng, lo lắng nhưng chính những lúc vui mừng hạnh phúc ấy cho tôi nhìn thấy như một dung mạo tinh thần. Tôi xin kể lại đây một vài thời điểm mừng vui đó.
Một trong những niềm vui lớn của cụ Khiêm tôi được chứng kiến đó là quá trình đồng hành với thi sĩ Bàng Bá Lân đến với đức tin vào Chúa. Cụ thường nói cho tôi nghe về lòng thành tín của cụ Bàng Bá Lân khi cụ Lân làm bài thơ “Cầu Nguyện” ở Bình Triệu:
“Từng nghe nói Mẹ ban nhiều phép lạ
Con đến đây cầu xin được ơn trên” hoặc
“Tê-rê-sa tôi rất cám ơn người
Đã cho tôi một nhân sinh triết lí
Không tham vọng sống thu mình nhỏ bé…”
Cụ Khiêm xuýt xoa: “Một Hàn Mạc Tử thứ hai”. Lần này thì tôi cho là cụ nói hơi quá. Tôi không dám phủ nhận tài thơ của cụ Lân, nhưng tôi nghĩ cao điểm thơ ca của cụ Bàng đã nằm lại ở nông thôn ngoài Bắc từ thời tiền chiến. Không hiểu sao đến bây giờ tôi vẫn nhớ một bài thơ đã thuộc lòng từ thời tiểu học về cảnh đêm trăng vắng lặng:
“Ông lão nằm chơi ở giữa sân
Tầu cau lấp loáng ánh trăng ngân
Thằng cu đứng vịn bên thành chõng
Ngắm bóng con mèo quyện dưới chân”
Hình như thế giới tinh thần của cụ Bàng nằm trong cái bình lặng bát ngát đó, ở đấy có hồn cốt của một thế giới nông thôn và một thời. Nông thôn Miền Bắc thì hiện nay vẫn còn đó, nhưng từ thời cảm hứng của cụ Bàng đến nay quá nhiều chiến tranh bom đạn, quá nhiều đảo lộn xã hội và tâm linh đã nối tiếp nhau, rồi nông thôn cơ giới hóa, ô nhiễm, rồi lòng người với những lo toan, bận bịu, tư lợi, bất công, duy vật,… khiến cho ông lão nằm chơi dưới ánh trăng kia đã cùng với nhà thơ đi vào cái cốt yếu không nhìn thấy được, đó là tinh hoa thầm lặng của một thời. Và khi cụ Bàng Bá Lân đem cái tinh hoa tồn tại và đã trở nên vô hình ấy đến với chị Thánh Têrêsa hay Đức Mẹ Bình Triệu thì cụ đã đi vào cái cốt yếu mà không bận tâm nhiếu đến thi tứ hay thi pháp. Và đến đó thì Hàn Mạc Tử hay cụ Lân, cụ Khiêm cũng chia nhau một niềm vui, và tôi đồng cảm được với niếm vui đó.
Năm 1988, cụ Bàng Bá Lân qua đời, cụ Khiêm tổ chức thánh lễ cầu hồn rất trịnh trọng. Cụ mời nhiều vị trong giới văn nghệ sĩ lão thành đến dự. Lâu rồi tôi không nhớ được danh tính của các vị nhưng biết chắc có nhiều vị tên tuổi từ thời tiền chiến. Cụ nhờ tôi chia sẻ lời Chúa trong thánh lễ đó. Tôi cứ thành thực nói lên những suy nghĩ của mình, rồi tôi mang cả những trưa hè, lẫn những đêm trăng, cả tiếng sáo diều, tiếng chày giã gạo,.. vào bài giảng. Cụ Khiêm có vẻ tâm đắc. Cuối lễ, người bạn văn rất thân của cụ Khiêm là cụ Võ Long Tê tươi cười bảo tôi “Ông làm thần học về các thực tại trần thế đấy phải không?” Như thói quen của các cụ đồng tuế, cụ Võ Long Tê nói nguyên văn bằng tiếng Pháp “Théologie des réalites terrestres”.
Chỉ nguyên một câu nói đó khiến tôi nhớ lại cả một thời, nhìn các cụ cao tuổi là đã thấy gợi lên cả một thời văn hóa mượt mà, êm đềm thời tiền chiến. Về mặt đạo cũng vậy. Đúng ra thì từ các thực tại trần thế, lúc nào mà chẳng có thể vươn lên thành thần học? Nhưng lối nói đó: “Théologie des réalites terrestres” là một lối nói thịnh hành đặc biệt vào cả chục năm phục hưng và đổi mới thần học sẽ đưa đến Công đồng Vatican II và thời sau đó. Những người như cụ Khiêm, cụ Tê đã sống và chịu ảnh hưởng cũa giai đoạn ấy, của diệu cảm ấy. Và trong một chừng mực nào đó thì cả tôi cũng vậy, mặc dù tôi thua kém các vị đến hai chục tuổi. Nhưng chính vì vậy mà thế hệ tôi là một gạch nối giữa thế hệ các cụ và giới trẻ về sau ít có kinh nghiệm sống động về một quá khứ còn chưa xa. Cuộc sống biến đổi nhanh quá, có nhiều điều thời trước thấy rất thấm thía mà nhiều bạn trẻ bây giờ lại tưởng như xa lạ. Đó cũng là một lý do khiến tôi viết những dòng này, vì tôi tin rằng dưới những đổi thay mới lạ, vẫn có một tính liên tục mà nếu phát hiện ra sẽ có cả một niềm vui.
Một niềm vui khác nữa của cụ Khiêm: ngày ấy chúng tôi có sáng kiến tổ chức một cuộc hành hương của các bà “ Mẹ bồng con”. Nhà Dòng chúng tôi có Thánh Gerardo Majella (1726 – 1755) có đặc sủng cứu giúp các bà mẹ mang thai và các thiếu nhi. Lễ mừng Ngài ngày 16/10 chúng tôi mời gọi các bà mẹ đang mang thai hoặc đang nuôi con dại cùng con mình kính viếng Thánh Gerardo và mừng lễ với nhau. Chị em hưởng ứng năm sau đông hơn năm trước. Suốt buổi lễ ấy nhà Thờ vang lên những tiếng líu lo chí chóe của các bé. Những bà con quen với bầu khí tĩnh lặng trầm mặc thường ngày thì có hơi bị chia trí. Nhiều người khác lại rất vui. Cụ Khiêm thuộc phía những người rất vui, lúc thường cụ là người rất nghiêm túc, thấy nghi lễ nhà thờ có điều gì cụ coi là sai quy chuẩn, sớm muộn cụ cũng sẽ góp ý kín đáo nhưng thẳng thắn để yêu cầu sửa đổi. Riêng đối với cái hồn nhiên của bọn nhỏ cụ lại rất cảm thông, có ai tỏ ý hơi phiền lòng vì bọn nhỏ cứ như chim vỡ tổ, cụ lại tươi cười gạt đi “Kệ chúng nó! Cứ để chúng nó tự nhiên thế”
Ngày xưa Chúa Giêsu cũng muốn đón lấy trẻ con như thế. Chúa còn bảo nước trời là của những ai giống như chúng nữa kia. Nghe như giữa vị học giả nghiêm cẩn, trẻ thơ măng sữa và lời Tin mừng là một hợp âm. Tôi cũng vui lây.
Năm 1993, cụ Khiêm đi hành hương các đền thánh Châu Âu. Trọng điểm của chuyến đi này là hôm cụ được tham dự thánh lễ của Đức Châu Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolo II trong nhà nguyện riêng của Ngài ở Vatican. Trong dịp này cụ đã dâng kính Đức Thánh Cha một số tác phẩm đã biên dịch của cụ, trong đó có cuốn “Người chứng thứ nhất”, cùng với thỉnh nguyện thư xin tôn phong chân phước cho Andre Phú Yên. Chín năm sau, cụ còn có dịp đi Roma và được diện kiến Đức Gioan Phaolo một lần nữa.
Sau này cụ sẽ nhắc tới “cuộc hạnh ngô ngàn năm một thủa” với Đức Gioan Phaolo. Từ lần đầu cụ Khiêm đến Roma thời Đức Pio XII, trên dưới 50 năm đã qua. Trong một nửa thế kỉ đó, bao nhiêu là biến cố thăng trầm, đảo lộn đã xảy ra trong đạo ngoài đời, trên thế giới và ở Việt Nam. Cuộc sống riêng của cụ cũng chìm nổi giữa những đổi thay ấy. Ta có thể hình dung được những ưu tư trăn trở, vui buồn, hy vọng, thất vọng của cụ thời chiến rồi thời bình, thời có một chút tự do tư bản rồi thời xã hội chủ nghĩa, những vấn nạn của cụ về ý thức hệ, những lúc như khai thông, như bế tắc. Từ quá trình đó mà giáp mặt với nhân dáng phi thường, nhân dáng khổng lồ của vị Giáo Hoàng người Ba lan vào thời điểm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, chắc chắn phải để lại trong lòng cụ nhiều âm hưởng vào những năm cuối đời.
Một niềm vui nữa cho cụ Khiêm: Năm thánh 2000 mừng thiên niên kỷ mới, ước mơ lâu năm của cụ đã thành hiện thực: ngày 5 tháng 3 Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II đã tôn phong người tín hữu thanh niên Việt Nam thế kỷ XVII là Andre Phú Yên lên hàng chân phước. Vị tử đạo đầu tiên của Hội Thánh ở Đàng Trong lại được tôn phong rất chậm so với 117 vị hiển Thánh khác của Việt Nam. Chẳng biết những cơn hoạn nạn không thiếu phần bị tráng của dòng Tên cả trong đạo lẫn ngoài đời từ cuối thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XVIII có phải là một nguyên nhân của sự chậm trễ này chăng?. Dù thế nào thì những giấy tờ, sách vở của những thừa sai tiên phong kia vẫn còn lưu trữ trong lòng Hội Thánh. Và trong Hội Thánh vẫn có những người miệt mài với những trang sử cũ, đem đối chiếu với các tài liệu đương thời. Trong số những người miệt mài đó có cụ Phạm Đình Khiêm. Đó là những người đã góp phần làm cho Andre Phú Yên sống mãi trong lòng dân Chúa.
Dịp lễ phong chân phước này cụ Phạm Đình Khiêm đã viết một bức thư nghe nói là “ rất tình cảm” gửi về dòng Tên ở Roma, nơi còn giữ di cốt (thủ cấp) của chân phước Andre Phú Yên. Thư đáp lễ gửi cụ Khiêm của ban thỉnh nguyện các vụ án phong Thánh của dòng Tên cho ta cảm nhận được tình hiệp thông của cụ với Hội Thánh:
Thưa Giáo sư kính mến,
“Bức thư thân thương của cụ đã đến với chúng tôi liền sau hôm mừng lễ tôn phong cho chân phước Andre Phú Yên thân yêu.
Chúng tôi cảm nhận được cụ đã ở gần chúng tôi bao nhiêu và đã hòa mình tới mức nào trong biến cố lớn cho toàn thể Giáo hội Việt Nam, đặc biệt cho những ai đã có thể cộng tác với chúng tôi để đạt tới thành tựu hạnh phúc này. Chính cụ là một người chúng tôi phải thọ ơn. Chúng tôi xin cụ biết cho rằng chúng tôi luôn nhớ cụ kể cả trong những năm tháng sau này khi chúng tôi không còn được cơ hội trao đổi thư tín với cụ…”
Xin tạm ngưng câu chuyện về những vui mừng của cụ Khiêm. Tôi không dám cho là mình biết nhiều về những vui buồn trong đời cụ. Nhưng những niềm vui mà tôi được chia sẻ trên đây quả thật đã phản ánh chiều sâu tâm hồn cụ.
Những năm sau này tôi ít có dịp gặp cụ Khiêm. Từ 2008 tôi đã chuyển ra Giáo xứ Thái Hà, Hà nội. Về những chuyện một mặt thì gay go, căng thẳng, nhưng mặt khác lại đầy hồng ân vì Chúa cho gặp và cảm thông sâu sắc với bao người gần xa không phân biệt lương giáo, tôi xin không nhắc lại đây làm gì. Chỉ xin nói rằng suốt những năm tháng ấy cụ Khiêm vẫn gửi cho chúng tôi những tín hiệu, tỏ rõ cụ vẫn theo dõi, cầu nguyện, hiệp thông với chúng tôi. Lâu lâu tôi có dịp về Sài gòn, thường được cụ hỏi thăm nồng nhiệt. Cụ đã già yếu đi nhiều, không tự mình đến nhà Thờ được nữa. Những dịp lễ tết, cụ cũng vẫn gửi thiệp, nhắn tin ra Hà Nội để hiệp thông. Nét chữ của cụ càng về sau càng méo mó không còn nhẹ nhàng bay bổng như xưa.
Cụ Phêrô Phạm Đình Khiêm qua đời lúc 15 giờ ngày 3 tháng 3 năm 2013, hưởng thọ 93 tuổi. Tôi rất tiếc không về được Sài gòn để tiễn đưa cụ. Nhưng năm nay, tôi được dự lễ giỗ đầu. Người đến dự thật đông, rất nhiều mái đầu bạc của những người đã thân thiết với cụ Khiêm không biết từ bao lâu. Riêng những người tôi có quan hệ cũng đã từng sinh hoạt với nhau đến 40 năm rồi. Nhưng bên cạnh những gương mặt đã già đi sau bấy nhiêu năm tháng, lại không thiếu những gương mặt trẻ của các thế hệ kế thừa. Hóa ra cụ Khiêm già cả, suốt đời hiền hòa khiêm tốn đã nối kết và tụ họp được nhiều người đến thế. Bầu khí thánh lễ ấm cúng, thân tình làm tôi nhớ lại khúc hát của Trịnh Công Sơn: “Tình ngỡ đã phôi pha, nhưng tình vẫn còn đầy; người ngỡ đã đi xa, nhưng người vẫn quanh đây”…
Lại nhớ đúng ngày này năm trước, đêm đã khuya, tôi đã đi nằm, chợt điện thoại reo. Tôi hơi lo ngại không hiểu có việc gì mà ai phải gọi mình giữa đêm khuya vắng lặng. Hóa ra từ đầu giây bên kia một người bạn từ nước ngoài nhắn tin: “đã có Giáo Hoàng mới, biết chưa?” Tôi bật dậy chạy qua phòng bên cạnh, mở đài CNN, thấy Đức Giáo Hoàng mới Phanxicô đang đứng trước biển người trên quảng trường Thánh Phêrô. Ngài có một cử chỉ độc đáo là cúi đầu sâu xin toàn thể Hội Thánh cầu nguyện cho mình, rồi sau đó Ngài mới chúc lành cho Roma và thế giới (Urbi et Orbi). Sự xuất hiện kể là rất đột ngột bất ngờ của Đức Giáo Hoàng Phanxicô trước Hội Thánh đúng vào ngày cụ Khiêm ra đi nhắc nhở tôi rằng cuộc đời nhỏ bé, giới hạn của mỗi tín hữu nằm trong sự sống vô tận mà luôn đổi mới của Chúa là Đấng hướng dẫn lịch sử.
Vũ Khởi Phụng, DCCT
(Bài do Gia đình Cố Học giả PĐK. cung cấp. ht. xin chân thành cảm ơn Quý Quyến)

Chủ Nhật, 30 tháng 3, 2014

EPHATA


EPHATA - HÃY MỞ RA

 Lữ khách  đơn côi  xuôi về bến đợi
Con chơi với giữa bóng tối giòng đời
Lời Hằng Sống là ĐƯỜNG Ngài dẫn lối
Câm điếc rồi sao thỏa lòng đợi  mong
                               -o-
Ôi Lạy Chúa kéo con khỏi đám đông
Một mình con với Chúa Nguồn cậy trông
Ngước nhìn trời cao tay con mở rộng
Cho tình đơm bông - yêu thương chất chồng

Ephata - Hãy mở !    - Hãy mở ra !
Lời Chúa thiết tha, ân phúc hải hà
Con có Chúa đời con có tất cả
Lắng nghe Lời Ngài - hồn con ngợi ca
                         
Ephata - Hãy mở !  - Hãy mở ra !
Tình Chúa bao la, yêu thương  đậm đà 
Đời con kết bằng những mẻ cá lạ
Tri Ân Tình Ngài môi miệng hoan ca

Đường trần thế gai chông nhiều vấp ngã
Chúa đã đi qua - đã chạnh lòng thương
Chúa bẻ bánh trao ban nguồn thần lương
Nuôi dưỡng con trên đường về bến đỗ
                     -o-
Ổi lạy Chúa cho tim còn rộng mở
Mở tai nghe nỗi thống khổ bơ vơ
Mở con Đường TÌNH giữa cơn bão tố
Cho mọi người nhận rõ CHÚA LÀ CHA

Từ Linh



Thứ Ba, 25 tháng 3, 2014

TÊN LỪA ĐẢO

                                  TÊN LỪA ĐẢO

Trong cuộc hành trình dương thế của chúng ta, có một kẻ ẩn mặt nguy hiểm mà ta cần để ý đến. Tên hắn là Satan (Lc 10:18). Satan có nghĩa là Tên Cám Dỗ. Một trong những thủ đoạn của hắn là lừa đảo. Vì thế, xin được gọi Satan là “Tên Lừa Đảo” để phân tích một số chiêu thức thâm độc của hắn.
Bạn thân mến, khi ý nghĩ viết xuống những “phát hiện” của mình đối với Satan, có một cảm giác giống như là mình đang tự đi vào một cuộc đối đầu với một thế lực hung dữ. Thế lực đó nằm ẩn khuất đâu đó trong bóng tối còn mình thì ở ngoài ánh sáng. Nó đang giận sôi lên giống như sư tử điên cuồng muốn cắn xé (thư 1 Phê-rô 5:8). Bạn có thể hỏi mình “Sợ không?” và mình trả lời ngay: “Sợ!” Nếu bạn hỏi tiếp “Sợ thì tại sao vẫn viết?”, mình sẽ trả lời “Người chiến thắng luôn là Chúa, nên chọn Chúa là chọn phần thắng dù có thể sẽ phải lao đao.” (Ga 16:33; Kh 12:7-10, 17:13-14)
Tên là “Lừa Đảo” thì việc hắn làm cũng là lừa đảo. Trước khi bàn về một số “chiêu thức” của Satan, mình xin được nói ngay rằng nếu bạn càng gần Chúa thì trong mắt Satan bạn càng nguy hiểm cho kế hoạch của hắn; và vì thế, hắn sẽ ‘đầu tư’ sức tấn công vào bạn nhiều hơn (Kh 12:17). Điều này dễ hiểu vì ánh sáng luôn là đe dọa đối với bóng tối. Ngoài ra, những chiêu thức này được triển khai trước hết nơi cá nhân rồi từ đó lan rộng ra trên bình diện tập thể (gia đình, nhóm, giáo xứ, quốc gia,…) Bây giờ, mời bạn cùng vạch mặt Tên Lừa Đảo.
Chiêu thứ nhất: “ném đá giấu tay”. Đây là chiêu áp dụng thường xuyên của Satan. Điều hắn sợ ở đây là bị ta “phát hiện” ra sự có mặt của hắn vì một khi bị phát hiện thì những kế hoạch công kích không phát huy được nhiều tác dụng nữa. Thỉnh thoảng vẫn có người đùa rằng “quỷ rất đẹp”. Kể ra thì cũng có lý. Mình muốn thêm một câu đùa nữa là “quỷ rất khéo”. Điều tạo nên cái “khéo” ấy chính là chọn tấn công không lộ diện trực tiếp. Thông thường hắn luôn thích là “kẻ thứ ba” đứng đàng sau một hoàn cảnh. Để tạo nên một mâu thuẫn tinh vi, hắn khôn khéo chọn chiêu “núp bóng” sau lưng ta hay tha nhân để gây nhiễu khiến hai bên thấy “ngứa mắt” lẫn nhau mà quên đi Kẻ Xúi Dại (Satan) đứng đàng sau ‘thọc gậy bánh xe’.
Satan tuy độc ác ranh mãnh nhưng cũng có lúc sơ hở. Một trong những sơ hở của nó là: để lộ tên. Ta lấy một ví dụ đơn giản sau: Khi nó phá một gia đình, nó muốn gây chia rẽ, mâu thuẫn, đối kháng bằng cách gây ra hiểu lầm, nhỏ nhen và cố chấp. Chiêu độc ác mà cũng là sơ hở của hắn là: xui khiến các thành viên trong nhà gọi nhau là ma quỷ. Chiêu này thâm độc vì khi ta gọi người khác là ma quỷ thì trong lòng ta đã tự cho mình là công chính hơn họ và từ chối việc xét mình một cách khiêm tốn. Có thể nói rằng Satan muốn ta bị mù con mắt tâm hồn. Trừ những trường hợp bị quỷ ám thực sự và có những biểu hiện rõ ràng đáng khả nghi (ví dụ: điên cuồng, sùi bọt mép, trợn trừng mắt mũi, chống lại Danh Thánh Giêsu, la hét khi thấy Thánh Thể,…), bình thường ta không được phép kết án người khác là ma quỷ, vì làm như vậy nghĩa là chính bản thân ta đang mắc kế của Satan. Thật ra chiêu này không có gì mới lắm vì nó lặp lại câu chuyện các ông Pha-ri-siêu bị trúng kế Satan khi nói Chúa Giêsu bị quỷ ám (Mt 12: 24, 31). Như đã nói ở trên, chiêu này rất độc ác nhưng nó lại dễ bị “phản đòn” khi ta phát hiện ra nó. Satan “ngu” ở chỗ này: nó để lộ tên của nó.
Làm sao để nhận ra và khống chế chiêu độc ác này? Mỗi khi thấy bên trong bất an, lộn xộn, muốn lên án người khác, ta phải chủ động im lặng, im lặng thật sâu và cầu nguyện. Nếu ta càng muốn nói thì càng phải im lặng, cho đến khi lòng đã trở lại bình an thật sự. Chừng nào ta còn muốn gọi người khác là quỷ ám thì chừng ấy ta còn đang bị cám dỗ. Phải chống trả lại nếu không thì nguy hại cho bản thân và người khác. Vì đây là một vấn đề nghiêm trọng nên Chúa Giêsu rất nghiêm khắc đối với cơn cám dỗ này đến nỗi Người coi đó là sự xúc phạm đến Chúa Thánh Thần (Mt 12: 24, 31). Cho nên, phải rất cẩn thận để không mắc mưu của Tên Lừa Đảo.
Xin được đề nghị một cách cầu nguyện trong trường hợp này: chủ động đến trước bàn thờ Chúa, chậm rãi đọc kinh Lạy Cha. Khi đọc “Lạy Cha chúng con…”, ta chủ động đưa người khác và bản thân mình vào lại trong một gia đình duy nhất có chung một người Cha, ta xin cho Nước Tình Yêu ngự trị trong tâm hồn mình bằng việc sống tha thứ và chủ động vạch mặt sự cám dỗ của Satan: “Xin đừng để chúng con sa vào chước cám dỗ [của Satan]”. Khi ta gọi tên hắn là đã phát hiện ra tên “ném đá giấu tay” độc ác này và đã hóa giải được phần lớn âm mưu của hắn.
Chiêu thứ hai: gây ra “nội chiến”. Mũi tên của Tên Lừa Đảo luôn luôn chỉ có một hướng: con người. Nó không thể tấn công Chúa thì đối tượng duy nhất để tấn công là chính chúng ta đây. Âm mưu của hắn là biến ta thành một bãi chiến trường hỗn loạn. Hẳn ta không bao giờ được quên rằng Satan là một chuyên gia về tâm lý chiến. Chiêu tâm lý chiến đem lại thành công nhanh nhất mà ít tốn kém sức lực nhất là tạo ra một cuộc “nội chiến”. Cái nhìn về bản thân ta sẽ bị bóp méo, bị bôi lên những nét tiêu cực rối mù nào đó khiến ta tự thù nghịch với chính mình và dần dần tự xoay mũi tên chĩa vào bản thân và bắn. Khi ấy, kẻ tấn công và người bị tấn công, kẻ gây thương tích và người bị thương sẽ trở thành một: chính bản thân ta. Hắn muốn ta tự huỷ diệt.
Chiêu thứ ba: “tung hoả mù”. Satan luôn cố gắng “che mắt” ta. Một ví dụ cụ thể là hắn tìm cách khiến ta không thấy sự đau khổ của người anh chị em mà mình đang có vấn đề. Rất nguy hiểm! Nhiều lúc Satan dụ ta “nhân danh quyền lợi” cá nhân để lên án tha nhân. Đành rằng quyền lợi cá nhân có thể là điều nên bảo vệ khi nó thật sự chính đáng và công bình bác ái, nhưng Tên Lừa Đảo rất tinh vi ở chỗ hắn bóp méo ý nghĩa chân chính của quyền lợi cá nhân thành “cái tôi ích kỷ”. Ta nhận ra điều này khi suy xét kỹ lưỡng và thấy đâu đó ẩn dưới cái nhãn “quyền lợi cá nhân” một ý hướng muốn kiểm soát, khống chế, điều khiển, thay đổi người khác theo quan điểm của mình. Nói cách khác, ta đánh mất ý thức về quyền tự do của người khác. Ta không muốn họ sống khác quan niệm của ta, mặc dù nếu xét kỹ thì sự khác biệt của họ chỉ là khác ta chứ không xấu xa tự bản chất. Ta bị cám dỗ “quên” đi một chi tiết rất quan trọng cho phẩm giá một con người là: người anh chị em đang đối diện với tôi là một chủ thể riêng biệt có toàn bộ “nhân quyền” như tôi. Âm mưu độc hại ở đây là cướp đi sự nhạy cảm của ta đối với hoàn cảnh của người khác, nhất là người đang trực tiếp “có vấn đề” với mình. Hắn muốn ta chỉ thấy nỗi khổ của bản thân thôi. Ta sẽ bị che mắt để không thấy rằng người anh chị em ấy cũng đang bị cám dỗ, đang đau khổ, đang bị tấn công mà không biết. Rõ ràng Tên Lừa Đảo muốn tạo nên sự đối kháng từ cả hai phía khiến cả hai rơi vào tình trạng tranh chấp rối mù.
Chiêu thứ bốn: chọn mặt trận mập mờ nhất và bất ổn nhất. Mặt trận được Tên Lừa Đảo ưa thích để triển khai các cuộc tấn công là trí tưởng tượng hay tâm trí của ta. Hắn vẽ lên nhiều hình ảnh tiêu cực, trái ngược với hình ảnh tốt lành Thiên Chúa đã ghi dấu trong ta. Các hình ảnh này thường có gam màu tối của giận hờn, hận thù, cố chấp, tự trách, tư lợi, ích kỷ, tham lam, nhỏ mọn,… Hắn cố gắng làm cho tâm trí ta hướng vào chính bản thân mình và cách nào đó trói buộc ta bằng những hình ảnh ấy. Một khi bị cuốn vào vòng xoáy này, ta sẽ bị luẩn quẩn trong lý luận. Ta càng luẩn quẩn thì càng dễ vấp váp. Càng vấp váp thì càng dễ tổn thương. Càng tổn thương thì chiến lược của Satan càng dễ thành công.
Một lưu ý quan trọng: Sự hướng về bản thân có hai phía. Phía thứ nhất dẫn ta về với Thiên Chúa, Đấng ban sức sống. Trường hợp này vẫn được gọi là “tiếng nói lương tâm” hay “tiếng Chúa nói trong tâm hồn” kêu gọi mình trở về với nẻo chính đường ngay để đời mình ngày càng vui hơn, đẹp hơn và hạnh phúc hơn. Nói cách khác, phía này giúp ta sống tình yêu đối với bản thân một cách chân thật và tốt lành, nghĩa là không gây hại cho tâm hồn và nhân phẩm của ta. Còn phía thứ hai, thoạt nhìn thì có vẻ như ta đang “yêu mình” nhưng thật ra là ta đang bị lừa để “hại mình”. Làm sao để nhận ra điều này? Ví dụ có những dấu hiệu sau đây: sự hướng về bản thân làm cho mình thêm tức giận, chán nản, trách móc, bất an, hối tiếc, chết cứng, cố chấp, mất tự tin, sợ hãi tương lai, nghi ngờ tình thương của Chúa, thất vọng,…Sự hướng về bản thân thứ nhất thì kéo ta bay lên cao về phía bình an, còn sự hướng về bản thân thứ hai đẩy ta xuống hố sâu tự diệt vong.
Chiêu thứ năm: tạo “mê hồn trận”. Chiêu này được áp dụng khá nhiều. Tên Lừa Đảo tìm cách tạo ra một ảo giác rằng ta đang ở trong một góc bí, góc bế tắc không có lối ra. Nhưng sự thật là: luôn luôn có hướng giải quyết cho một vấn đề dù khó khăn đến đâu. Trước mặt ta là cả một bầu trời rộng mở với nhiều hướng giải quyết khác nhau. Cái góc bế tắc ấy chỉ là một ảo ảnh chứ không phải là thực tế. Vì là ảo ảnh nên nó sẽ không tồn tại lâu nếu ta không tin vào nó. Ảo ảnh vẽ ra trước mắt ta sẽ tự biến mất nếu ta không dán mắt vào nó. Xin đề nghị một cách hóa giải đối với ảo ảnh: Bình tĩnh để nhìn vấn đề một cách THỰC TẾ. Đưa “mắt” nhìn về một hướng khác. Chủ động điều khiển tâm trí mình thoát khỏi ý nghĩ một chiều. Có thể nhờ người khôn ngoan cùng nhìn vấn đề và phân tích với mình cho có tính khách quan và khoa học.
Chiêu thứ sáu: Gây hốt hoảng. Khi một cảm giác, một biến cố, một kinh nghiệm có vẻ không bình thường hoặc lạ lẫm xảy ra với ta, Tên Lừa Đảo lập tức tìm cách gây hoang mang, khó chịu, sợ hãi, bất an. Tâm trạng của ta giống như con thuyền bồng bềnh trên dòng sông. Tên Lừa Đảo rất khoái chơi trò khuấy nước để làm con thuyền chòng chành. Hắn thích nhìn thấy người trên thuyền cuống lên, chạy tới chạy lui tìm cách khống chế sự bấp bênh. Hẳn chúng ta còn nhớ câu chuyện về tâm trạng hoảng loạn của các môn đệ Thầy Giêsu khi đối diện với sóng gió (Mc 4: 35-40). Càng hoảng loạn con thuyền càng chông chênh và họ càng mất định hướng. Điều đáng tiếc nhất là họ quên mất tầm vóc của Thầy Giêsu, Đấng đang hiện diện ngay bên cạnh họ. Họ mất niềm tin vào bản thân và mất niềm tin vào Đấng Làm Chủ đang nằm ngủ ngon lành. Xin được gợi ý một phương thức hóa giải chiêu này: Bình tĩnh! Vì Thầy luôn có đó. Sẽ ổn thôi.
Chiêu thứ bảy: áp dụng “kỹ thuật” võ Aikido. Nguyên tắc chính của môn võ Aikido là lợi dụng sức mạnh của đối phương để quật ngã đối phương. Tên Lừa Đảo xem ra cũng khá về kung-fu vì hắn vẫn tìm mọi cách biến điểm mạnh của ta thành điểm yếu để hạ gục ta. Nói theo dân gian thì là “mượn gió bẻ măng.” Ta có thể lấy một số ví dụ thực tế như sau. Ví dụ thứ nhất: Nếu thế mạnh của tôi là óc tổ chức, thích làm việc rõ ràng ngăn nắp, thì mặt trái của tôi sẽ là óc cầu toàn, luôn muốn mọi sự phải diễn ra đúng kế hoạch một cách hoàn hảo. Ta thừa biết rằng cuộc đời này không bao giờ hoàn hảo, nếu không muốn nói rằng khá nhiều thay đổi. Ở đây, Tên Lừa Đảo sẽ tìm cách để khuấy động mặt trái này làm cho tôi mất bình an, bất mãn, bực tức, tự trách, ân hận, chán nản, mất tự tin, tiếc nuối, đổ thừa, đòi hỏi quá cao,… khi sự việc không xảy ra như tôi dự tính. Ví dụ thứ hai: Nếu thế mạnh của tôi là sống có tình cảm, tình nghĩa thì mặt trái của tôi có thể là dễ xúc động mạnh và nhất là dễ luẩn quẩn trong cảm xúc tiêu cực. Một người khi bị tấn công về phương diện cảm xúc sẽ dễ hao tốn năng lượng, mất sức đề kháng. Lúc ấy sẽ dễ rơi vào tình trạng mất quân bình dẫn đến cố chấp, tủi thân, giận dỗi, uất ức, bất cần, thất vọng, muốn buông xuôi bỏ cuộc. Người ấy có khuynh hướng quên đi vai trò của lí trí trong việc giúp đánh giá tình hình một cách thực tế khách quan và lâu dài. Nói cách khác, tầm nhìn của người đang ở trong tình trạng quá xúc động là khá ngắn. Ví dụ thứ ba: Bố của Việt chia sẻ kinh nghiệm của những năm đi ‘giúp kẻ liệt’ (nghĩa là đến thăm người đau bệnh, thường là giai đoạn cuối đời và không tự mình làm được các việc cơ bản, để động viên tinh thần họ, cầu nguyện chung với họ, đọc sách thiêng liêng cho họ nghe,…). Bố nói có những lúc ma quỷ rất ranh mãnh, cám dỗ ‘kẻ liệt’ phản ứng nóng giận, thậm chí chửi bới, làm cho người đến giúp bực tức không muốn tiếp tục nữa. Lúc ấy, cần phải “dùng nhu chế cương”. Nếu mình cứng lên thì có thể sẽ trúng tà kế và thất bại. Lúc ấy phải tỉnh táo và khôn ngoan đủ bằng cách trở nên thật “mềm”, dẹp bỏ tự ái để tiếp tục yêu thương thì mới hoàn thành được sứ mạng.
Cách đối xử của Satan ở đây rõ ràng là khác hẳn với cách của Chúa, Đấng luôn tìm cách biến đổi điểm yếu, ngay cả tội lỗi, của ta thành điểm mạnh mang lại lợi ích cho ta. Vậy xin gợi ý một cách hóa giải chiêu này của Satan như sau: bám vào Chúa và đặt trọn tất cả những gì mình đang mang, kể cả những khiếm khuyết tội lỗi, vào trong tình yêu vô điều kiện của Chúa. Xin Chúa giúp ta nhớ rằng Chúa, luôn đón nhận ta như ta là, và xin Người giúp ta bắt chước Người mà biết cách đối xử nhân đạo với bản thân.
Chiêu thứ tám: lợi dụng “cơ chế tự vệ” bên trong để tấn công mình và người khác. Chúng ta đều biết rằng ai cũng có một “bản năng sinh tồn” để giúp họ phản ứng trước những hoàn cảnh khác nhau của cuộc sống mà tồn tại. Xét trên phương diện tinh thần, tâm lý và tâm linh, “bản năng sinh tồn” này được chuyển thành dạng “cơ chế tự vệ”. Một biểu hiện của “cơ chế tự vệ” này là khuynh hướng phóng chiếu lên người khác những điều mà ta cảm thấy bất ổn bên trong. Khi ta phóng chiếu là ta đang muốn tạo cảm giác an toàn trong lòng mình bằng cách “tấn công” lên người khác. Tại sao? Vì “tấn công” người khác tạo cho ta cảm giác đang “có sức mạnh” và đang “làm chủ tình thế”. Tên Lừa Đảo lợi dụng những điều này một cách triệt để.
Bây giờ, ta lấy thử một ví dụ cụ thể của việc “tự vệ” bằng cách “phóng chiếu” nhé. Mời bạn cùng phân tích về “óc xét đoán”. Khác với việc phán đoán các dữ liệu mang tính khoa học để xây dựng, xét đoán ở đây mang tính tiêu cực và phá hủy. Vì thế, nó có màu sắc lên án, phê phán, chỉ trích vội vã. Nói cách khác, ta tấn công người khác bằng ý nghĩ và lời nói. Vấn đề đáng nói ở đây là: khi ta tấn công tha nhân thì thực ra ta đang tự làm tổn thương mình. Để ý một chút, ta sẽ nhận ra rằng lúc lên án một người anh em cũng là lúc tinh thần ta bắt đầu bớt đi sự ổn định. Xét đoán dẫn đến bất an. Xét đoán là cám dỗ một dạng gây hại cho cả đôi bên một cách phổ biến và dễ làm. Ngược lại, khi ta đón nhận người anh em mình với lòng bao dung, tha thứ, cảm thông, yêu thương thì ta lại cảm thấy bình an hơn, tự do hơn, thoải mái hơn và thanh cao hơn.
Như đã nói, xét đoán tạo ra cảm giác mạnh mẽ và an toàn, nhưng đó chỉ là giả tạo và đầy nguy hiểm. Thêm nữa, xét đoán thường mang tính chủ quan một chiều đưa ta đến nhiều nguy cơ sai lầm. Chẳng lạ gì khi xét đoán thường gắn liền với các lý luận tự phụ như: tôi mới là người hiểu rõ vấn đề, tôi tốt hơn người khác,…  Nhưng nếu xét kỹ trên thực tế, không biết được bao nhiêu lần ta thật sự hiểu đúng vấn đề của người khác? Những gì ta cho là mình hiểu nhiều có khi lại khá giới hạn và khập khiễng. Có lẽ không ít lần ta đã “hiểu oan” cho anh chị em.
 Không phải ngẫu nhiên mà chúng ta chọn khía cạnh “xét đoán” để phân tích với nhau. Ta chọn nó vì đây là vấn đề nghiêm túc trong cuộc sống. Chính Chúa Giêsu dạy: “Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán, vì anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy; và anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong cho anh em đấu ấy. Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà cái xà trong con mắt của mình thì lại không để ý tới?” (Mt 7:1-3, Lc 6:37) Thánh Phaolô khuyên “đừng vội xét xử điều gì trước kỳ hạn, trước ngày Chúa đến. Chính Người sẽ đưa ra ánh sáng những gì ẩn khuất trong bóng tối, và phơi bày những ý định trong thâm tâm con người.” (1Cor 4:5) Tắt một lời, quyền xét đoán thâm tâm người khác thuộc về Thiên Chúa, Đấng “thấu suốt mọi bí ẩn” (Mt 6, 1Sam 16:7) Khi ta bị cám dỗ “xét đoán” người khác là ta đang bị cám dỗ có tham vọng thay thế vị trí của Thiên Chúa. Nói mạnh hơn, nó là một dạng của kiêu ngạo và chống lại vai trò tối thượng của Thiên Chúa. Tên Lừa Đảo cũng muốn ta dính vào tội lỗi mà chính hắn đã phạm ngày xưa.
Chiêu thứ chín: “điệu hổ ly sơn”. Satan cũng xem ra cũng cũng thuộc ca dao của ông bà mình:
Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.
Ông bà mình khuyên phải đoàn kết, sống gắn bó với tha nhân thì mới có sức mạnh. Tên Lừa Đảo cũng áp dụng nhưng theo hướng ngược lại: tách cá nhân ra khỏi cộng đoàn để dễ tấn công. Hắn sẽ cố gắng tạo cho ta những lý lẽ sau đây: đây là vấn đề của riêng tôi, chẳng ai có thể chia sẻ với tôi được, tôi không nên làm phiền người khác, một mình tôi mới giải quyết được…. Chừng nào tay ta không nắm lấy anh em, chừng ấy ta dễ bị khuynh đảo. Gia đình, bạn bè, cộng đoàn tích cực,… là những nơi tiếp thêm sức mạnh để ta đứng vững trong cuộc hành trình. Vậy cách hóa giải chiêu này của Satan là: tìm “đồng minh”. Ta luôn có “đồng minh”!
Vì “đồng minh” thường làm giảm thế lực của hắn nên hắn cũng tìm cách phân tán “đồng minh” của ta bằng nhiều cách khác nhau. Nếu ta có đồng minh thì hắn cũng có bè phái (Lc 11:26; Kh 13:1ff). Cuộc chiến bởi thế mà thêm nhiều thú vị gay cấn. Ở đây, ta cần tỉnh táo lưu ý đến những cách mà hắn muốn chia rẽ ta với những đồng minh tốt. Hãy cảnh giác để khỏi trúng kế độc.
Chiêu thứ mười: đánh vào cảm giác để gây hoang mang đức tin. Còn sống trên trần gian, con người còn gắn bó với cảm giác hoặc cảm xúc vì là xương là thịt. Việc cảm giác chi phối lên tâm trí và hành xử của con người là điều hiển nhiên. Đặc biệt, trong thế giới hiện đại hôm nay, con người bị cuốn vào vòng xoáy của cảm giác. Việc hành xử dựa trên cảm giác là rất phổ biến, nhiều khi lệ thuộc vào cảm giác ở mức độ quá mức cần thiết. Chúng ta thử nhìn nhanh qua một vài phương diện sau để thấy vấn đề rõ hơn. Về phương diện vật chất, người thời đại tìm đủ các cách để đạt được sự thỏa mãn và khoái cảm cho cơ thể. Về phương diện tương quan, ngày nay người ta chia tay với nhau khá dễ dàng khi “cảm thấy không thích” nữa. Chán là bỏ. Bực là cắt. Dường như chẳng còn nhiều kiên nhẫn để đối thoại, càng bớt lắng nghe để hàn gắn,….
Tên Lừa Đảo đương nhiên không bỏ qua khía cạnh tâm linh. Như chúng ta biết, đức tin là một chiều kích đặc biệt vượt trên và vượt xa vấn đề cảm giác rất nhiều. Tin gắn với yêu (tin-yêu) và cả hai về bản chất đều là những lựa chọn quyết liệt chứ không chỉ đơn thuần là cảm giác hay cảm xúc. Đức tin và tình yêu đích thực không hời hợt, dễ dãi như nhiều người thường quan niệm “thấy thì tin”. Không, đức tin và tình yêu trưởng thành mang kiểu mẫu của chính Thầy Giêsu: “Phúc cho ai không thấy mà vẫn tin.” (Ga 20:29) Nếu tin-yêu chỉ là cảm xúc vui vẻ thì liệu rằng Giêsu trên thập giá đau đớn tủi nhục ấy có còn yêu nổi những kẻ đang giết mình không? Nếu tin-yêu chỉ là hứng khởi nồng nàn thì nhiều cha mẹ liệu có thể vượt qua bao nhiêu gian nan thách đố trong cuộc sống gia đình mà trung tín đến hôm nay không? Chắc chắn là không! Tắt một lời, đức tin không hạn hẹp và thất thường như cảm giác/xúc. Thậm chí, đi sâu hơn một chút vào đức tin, ta có thể nói rằng: đức tin trưởng thành không cần đến cảm xúc. Một ví dụ cụ thể là Mẹ Maria đứng dưới chân thập giá chứng kiến cảnh con yêu dấu đang chết đau đớn tủi nhục. Lúc ấy là lúc chết lặng vô cảm giác và cũng là lúc đức tin mạnh mẽ nhất. Nói đến đây, có lẽ ta cũng nên nghiệm lại một chút xem có khi nào bị cám dỗ đánh giá đức tin của mình dựa trên cảm giác chưa. Có khi nào ta nghi ngờ, chán nản, thất vọng về niềm tin của mình vì lý do “chẳng cảm thấy gì” không? Nếu có, ta nên cẩn thận để khỏi tự gây đau khổ. Không cảm thấy nồng nàn mà vẫn tin, vẫn yêu là một chuyện hoàn toàn bình thường, thậm chí cần thiết và tốt lành. Nhiều vị thánh lớn trong Hội Thánh cũng trải qua nhiều năm “không cảm thấy gì” nhưng vẫn tin, vẫn yêu đấy thôi.
Chiêu thứ mười một: có bé xé ra to. Cám dỗ này không ai không từng trải qua. Có những khi vấn đề chỉ bằng con chuột chũi thì ta lại phóng nó to lên bằng quả núi. Lắm lúc chuyện chỉ bé bằng hạt cơm thì lại bị thổi phồng lên bằng cái mâm. Thay vì giải quyết nó trong vòng 5 phút thì lại cố chấp lê thê thành 5 ngày, 5 tháng, thậm chí 5 năm hoặc lâu hơn. Có bé xé ra to là một việc phổ biến. Mời bạn phân tích chiêu tiếp theo vì nó có thể minh họa rõ hơn cho chiêu mười một này.
Chiêu thứ mười hai: ám ảnh bởi quá khứ đau thương. Người lớn tuổi và từng trải qua nhiều biến cố trong cuộc sống dễ bị tấn công theo chiêu này. Tên Lừa Đảo khó áp dụng chiêu này với trẻ thơ hoặc những người có tinh thần trẻ thơ vì họ có “tật mau quên”!
Ám ảnh với quá khứ đau thương là cứ nhớ, cứ sống hoài chuyện đã qua. Có những chuyện xảy ra từ đời nào và chẳng còn ý nghĩa gì cho cuộc sống hiện tại nhưng vẫn cứ được tua đi tua lại trong lòng như thể mới xảy ra cách đây 5 phút. Ở đây, Tên Lừa Đảo lợi dụng mặt tối của trí nhớ để giam hãm ta. Khi hắn lèo lái, quá khứ tiêu cực có khuynh ướng phát sinh những tiếc nuối, hờn giận, cố chấp, oán trách, bực bội, bất an, hận thù… Nếu ta chấp nhận cám dỗ này, ta sẽ tự khoá mình vào trong những năng lượng tiêu cực, luẩn quẩn dẫn đến tự tê liệt. Satan không thích thấy ta được tự do bằng việc tha thứ, yêu thương, khoan nhân, đại lượng… Bởi nếu ta như thế, ta sẽ giống Thiên Chúa.
Đối với người Công giáo, có một điểm rất tích cực khi đến với bí tích Hoà Giải vì nơi bí tích này họ lãnh nhận lời tha thứ một cách rõ ràng. Một khi lời tha thứ được công bố, những tội đã xưng không bao giờ được nhắc lại. Lời tha thứ ấy giải phóng họ khỏi ám ảnh quá khứ, giúp họ ‘đoạn tuyệt’ với quá khứ để tự tin bước vào tương lai của ân sủng. Cuốn sổ của quá khứ đen tối bị đốt bỏ hoàn toàn và một trang đời mới được mở ra cho tình yêu.
Tiện đây, mời bạn cùng khám phá một nghịch lý thú vị của vấn đề “quá khứ đau thương”. Nếu ta đã trải qua một biến cố khó khăn, ta có một điểm yếu và một điểm mạnh. Điểm yếu, như phân tích ở trên, là ta có nguy cơ bị cám dỗ rơi vào ám ảnh dĩ vãng. Điểm mạnh là: ta đã có kinh nghiệm về sự hiện diện và ‘giải cứu’ của Chúa, có thể là ở…phút 89. Nhờ kinh nghiệm ấy mà ta thêm vững tin, giàu hy vọng. Điều mạnh này rất có lợi cho hành trình tương lai.
Chiêu thứ mười ba: đẩy ta vào tuyệt vọng. Ngày hôm nay thần học nói đến một thứ “tội trọng” là thái độ tuyệt vọng. Tên Lừa Đảo gắng hết sức để kéo tinh thần ta về hướng tuyệt vọng. Tuyệt vọng ở đây mang nhiều mức độ và thể hiện trên nhiều phương diện. Khi bị lôi kéo về hướng tuyệt vọng, ta bị cám dỗ từ chối lối hành xử của Thiên Chúa, Đấng luôn luôn “cho thêm một cơ hội”. Tên Lừa Đảo không bao giờ muốn thấy bản thân ta hay người khác nghĩ đến cụm từ “thêm một cơ hội” vì đó là chiều hướng của tương lai, của lạc quan, của giải thoát. Chiều hướng này đối ngược với chủ trương của hắn.
Làm sao để hóa giải? Xin được gợi ý hình ảnh của hai môn đệ Thầy Giêsu: Phêrô và Giuđa. Cả hai đều phản bội Thầy nhưng chỉ có Phêrô hiểu Thầy chính xác: Thầy luôn luôn “cho thêm một cơ hội”. Vì thế, Phêrô đã chọn hướng hy vọng của Thiên Chúa trong khi Giuđa chọn theo hướng tuyệt vọng của Satan.
Chiêu thứ mười bốn: thua keo này bày keo khác (Lc 11:26). Tên Lừa Đảo là kẻ không biết mệt mỏi trong khi sức người thì có hạn. Bởi thế, ta cần những đồng minh ánh sáng hỗ trợ trong cuộc vận lộn với hắn. Bạn mến, ta luôn luôn có đồng minh, và Đồng Minh tuyệt vời nhất của ta là Thiên Chúa, Cha toàn năng và yêu thương.
Chúc bạn tỉnh táo trước những quái chiêu khác của Satan. Trong mọi hoàn cảnh, chúng ta luôn có Chúa Thánh Linh hiện diện. Nguyện cho ta luôn bám chặt vào Người. Khi ấy, Tên Lừa Đảo, mặc dù rất bực mình, cũng sẽ đành quay mặt bước đi trong tức tối. Kệ hắn! Hắn tự gây ra thôi. Nếu thương hắn, cầu nguyện cho hắn bớt đi bóng tối hận thù vậy! Nhất là, cầu nguyện cho ta không đi vào con đường của hắn.
Joseph Việt, O.Carm.
Nguồn : (tại đây)

Thứ Năm, 20 tháng 3, 2014

NGƯỜI HAY VẸT

Con vẹt ???????

Kỳ tài, kỳ tài ! Phải post 2 lần, lần sau zoom rõ to, ngắm cho kỹ mới có thể quả quyết đây là một tác phẩm BODYPAINTING chứ không phải là CON VẸT .
Mình rất phục họa sĩ bodypainting tạo ra tác phẩm này, nét bút điệu nghệ cùng khả năng sắp xếp của tác giả thật kỳ tài !
Mỗi khi chiêm ngưỡng một vẻ đẹp nào thì mình thầm nghĩ : 
Cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho con người có đôi mắt sáng tạo tuyệt vời.
Trên hết là Đấng Tạo Hóa.
Người đã cho chúng con được ân huệ làm con cái Người, được thừa hưởng "gien sáng tác" của Người. 
Bắt chước Cha, chúng con phát triển khả năng thiên phú để phục vụ Thiên Chúa là Cha và tha nhân đồng lọai cũng là con cái Cha.
Cảm tạ Cha.

Thứ Tư, 19 tháng 3, 2014

THƯƠNG QUÁ VIỆT NAM !


CÔ GIÁO, HỌC SINH CHUI VÀO TÚI NI-LÔNG QUA SUỐI ĐẾN TRƯỜNG

THÁNH GIUSE THINH LẶNG

THÁNH GIA NAZARETH (Danh họa ZURBARAN-1659)

Đọc Phúc Âm để tìm hiểu thánh Giuse, tôi thấy một bầu khí âm thầm bao phủ Ngài.  Có một chọn lựa khiêm nhường trong bầu khí đó.  Khiêm nhường ấy đầy khó nghèo và khôn ngoan.
 Ngắm nhìn các ảnh tượng thánh Giuse, tôi thấy lòng sùng kính các nơi dành cho thánh Giuse thực rất phong phú và đa dạng.
 Nhưng năng lui tới thánh Giuse trong đời sống hằng ngày, nhất là qua các giờ phút cầu nguyện, gẫm suy, tôi thấy thánh Giuse rất gần gũi, rất sống động, nhất là rất dễ thương.  Có một điểm dễ thương nơi Ngài đã gây ấn tượng sâu sắc nơi tôi, đó là sự thinh lặng của Ngài.
 Sự thinh lặng của Ngài là trường dạy tôi về tu đức, mục vụ và truyền giáo.  Tôi gọi đây là sự thinh lặng thánh.  Bởi vì không phải thinh lặng nào cũng tốt cả.  Ai cũng biết có vô số thứ thinh lặng tiêu cực. Như thinh lặng vì kiêu căng.  Thinh lặng vì lập dị.  Thinh lặng vì dốt nát.  Thinh lặng vì sợ sệt.  Thinh lặng vì bất cần.  Thinh lặng vì dửng dưng.  Thinh lặng vì hờn giận.  Thinh lặng vì ích kỷ vv... Trái lại, sự thinh lặng của thánh Giuse là một hoạt động thường xuyên tích cực.
 Trước hết sự thinh lặng của thánh Giuse tích cực ở chỗ Ngài luôn vâng phục đức tin.
 Ngài tin con trẻ mà thiên thần báo mộng sẽ sinh ra bởi Đức Maria, đúng thực là “Đấng Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1, 23).  Cho dù gặp muôn vàn thử thách, Ngài vẫn vững tin: Đấng Thiên Chúa ở cùng chúng ta đó chính là Con Thiên Chúa giáng trần.  Con trẻ đó chính là Đấng cứu thế.
 Ngài tin Thiên Chúa thương yêu Ngài một cách hết sức đặc biệt.  Ngài biết tình thương đặc biệt Chúa dành cho Ngài là hoàn toàn nhưng không, chứ không phải do công phúc nào của Ngài.
 Ngài tin vào sứ vụ Chúa trao phó cho Ngài là vô cùng lớn lao.  Sứ vụ đó là bảo vệ Đức Mẹ Maria và Chúa Giêsu.  Ngài biết Chúa Giêsu sẽ làm chuyện lớn, nhưng bề ngoài chưa thấy có gì là lớn.  Thực nhiệm mầu.  Ngài chỉ biết tin.  Ngài chưa hiểu hết.  Nhưng không thắc mắc.  Một sự kín đáo trong niềm tin đầy khiêm tốn, với nhận thức sâu sắc về tình trạng khó nghèo, bất xứng của mình, đó là một sự thinh lặng đáng kính phục.
 Bảo vệ Đức Mẹ và Chúa Giêsu trong hoàn cảnh thời đó nơi đó đầy khó khăn là một trách nhiệm rất nặng nề, đòi nhiều khôn ngoan sáng suốt và đức tin vững vàng.  Ngài đã tin vững vàng và khôn ngoan sáng suốt trong thinh lặng.  Thinh lặng đó không phải vì sợ.  Nhưng vì vâng phục đức tin.
 Tin Mừng là một mầu nhiệm “vốn được giữ kín từ ngàn xưa” (Rm 16, 25) sẽ được biểu lộ, sẽ được thông báo cách nào, lúc nào, bởi ai, cho ai, thì phải tuỳ ở Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan thượng trí mà thôi.  Chúa muốn như vậy (Rm 16, 27).
 Tôi thiết nghĩ thánh Giuse đã có đức tin như thế, và đã vâng phục đức tin đó.  Vì thế mà Ngài khiêm tốn thinh lặng, Ngài tin rằng: Sứ mạng Chúa trao cho Ngài không phải là loan báo, mà là bảo vệ và giữ kín.
 Ngoài ra, sự thinh lặng của thánh Giuse là rất tích cực ở chỗ Ngài được âm thầm đào tạo để có một sự tự do mới.
 Đọc Sách Thánh và chuyện các thánh, tôi thấy Thiên Chúa có một lối đào tạo độc đáo đối với các người của Ngài.  Khi Thiên Chúa tính chuyện trao cho ai một sứ mệnh khó khăn, Ngài thường đưa họ vào sa mạc.  Hoặc sa mạc địa lý là nơi vốn thanh vắng.  Hoặc sa mạc tâm hồn là nơi phải thinh lặng.
-        Ông Môisen vào sa mạc Madian.
-        Thánh Gioan tiền hô vào sa mạc Giuđê.
-        Thánh Phaolô vào sa mạc Syria.
-        Thánh Benedictô lên núi Subiacô.
-        Thánh Phanxicô khó khăn vào hang Assisi.
-        Chính Chúa Giêsu vào sa mạc 40 đêm ngày.
Đối với thánh Giuse, sa mạc là tâm hồn thinh lặng của Ngài.  Trong sự thinh lặng của sa mạc tâm hồn, Chúa đào tạo cho Ngài có một sự tự do mới.  Đó là một sự tự do biết chọn Chúa là tất cả, chọn ý Chúa là trên hết.  Một sự tự do sẵn sàng dứt bỏ ý riêng, để mau lẹ thực thi ý Chúa.
 Đọc Phúc Âm, tôi gặp thấy một cách nói hay được dùng, khi thuật lại việc phục vụ của thánh Giuse, để vâng phục ý Chúa.  Cách nói đó là sẵn sàng và mau lẹ.  Ngài sẵn sàng đón Maria về nhà mình (Mt 1,24).  Ngài mau lẹ đang đêm, đưa Hài Nhi và Mẹ Ngài trốn sang Ai Cập (Mt 2,14).  Ngài liền vội vã chỗi dậy đem Hài Nhi và Mẹ Ngài về đất Israel (Mt 2,21).  Những thái độ đó, được sự thinh lặng đào tạo, chứng tỏ thánh Giuse có một tâm hồn rất tự do.  Không phải tự do đối với của cải và ý riêng, mà là tự do cho Chúa và cho những việc Chúa muốn.
 Tôi có cảm tưởng là Chúa đôi khi cũng muốn bản thân tôi và những người thuộc về Ngài, phải bắt chước thánh Giuse xưa, có lúc phải vào sa mạc mà tế lễ Chúa.  Tế lễ trong sa mạc là tế lễ trong tình trạng rất thiếu thốn: Không có nhà thờ, bàn thờ, đồ thờ.  Không có những trang trọng vật chất.  Không có cả những nhân đức cần có.  Chỉ còn tập trung vào một mình Chúa đầy tình yêu thương xót.  Chỉ còn chính bản thân mình là của lễ mà thôi.  Thiếu tất cả, nhưng được tất cả.  Chỉ còn thinh lặng tôn thờ và vâng phục với lửa thiêng của Chúa Thánh Thần trong tâm hồn mình như tia hy vọng.  Sẽ rất nghèo, nhưng cũng rất vui mừng.  Vì thấy mình được thông công vào việc Chúa cứu độ.
 3. Sau cùng, tôi thấy thinh lặng của thánh Giuse là rất tích cực trong sự hiện diện phong phú của Ngài giữa đời.
 Kinh nghiệm cho thấy: Nhiều khi sự hiện diện thinh lặng vẫn có sức gây được cảm tưởng tốt về Tin Mừng, hơn một sự hiện diện nhiều lời.  Nhất là khi sự hiện diện đó có Chúa ở cùng.  Tôi có cảm tưởng là thời nay tại Việt Nam này, dân chúng vẫn trân trọng và khát khao những người, tuy không nói, nhưng toả ra được ánh sáng tâm linh, lửa thiêng tâm hồn, hương thơm từ những giá trị nội tâm.  Họ thinh lặng nhưng có chiều sâu tâm hồn, biết phân định, biết phấn đấu, biết sắp xếp, biết thanh luyện, biết ý tứ, biết tế nhị.
 Điều đó không có nghĩa là thinh lặng luôn luôn có giá trị hơn nói.  Tôi thiết nghĩ chọn thinh lặng hay chọn nói là một chọn lựa tùy ơn gọi.  Các ơn gọi và các ơn thánh rất khác nhau.  Con đường tốt hơn ta nên chọn là con đường mà sứ vụ Chúa trao cho ta, con đường mà hoàn cảnh chỉ cho ta, con đường mà ta thấy thích hợp cho tính tình và khả năng của ta, con đường mà ta cho rằng có thể thực hiện tốt hơn việc mến Chúa yêu người trong những hoàn cảnh cụ thể, đúng với yêu cầu của thời điểm.
 Xin thánh Giuse cho tôi và mọi người chúng ta
-  biết thinh lặng hơn để nghe ý Chúa,
-  biết thinh lặng hơn để suy niệm các mầu nhiệm Mân Côi,
-  biết thinh lặng hơn để đón nhận ơn cứu độ,
-  biết thinh lặng hơn để cộng tác vào chương trình cứu độ,
-  biết thinh lặng hơn để khám phá ra những kỳ diệu Chúa Thánh Thần đang làm trong các linh hồn,
-  biết thinh lặng hơn, để đón nhận những bất ngờ Chúa gởi đến với đức tin sáng suốt.
 Hình như nhiều linh hồn đang được ơn ấy . Họ là những người đơn sơ tỉnh thức và thinh lặng như thánh Giuse.  Họ đang thinh lặng gieo rắc hạt giống Tin Mừng giữa xã hội Việt Nam hôm nay.

ĐGM Bùi Tuần

Thứ Hai, 17 tháng 3, 2014

MỘT LINH MỤC DỄ MẾN


Mỗi sáng sớm, cùng mọi người đến ngôi nhà nguyện nhỏ bé thân thương này, mình đều gặp gỡ vị  linh mục già chủ tế Thánh lễ, với mái tóc bạc phơ, dáng đi nhẹ nhàng chậm rãi, ung dung và lịch duyệt.
Cha dâng lễ sáng tại đây hình như cũng hơn 3 năm nay thì phải. Nghe một người quen của cha nói rằng được dâng lễ hằng ngày đối với cha là niềm vui, niềm hạnh phúc. 
Có lẽ chân cha yếu nên khi đến kinh Tin Kính thì cha ngồi vào ghế. Khi giảng, cha đứng tại chỗ làm lễ chứ không đi ra tòa giảng.
Cha có mặt trước lễ rất sớm, bao giờ mình lò mò vào tới cửa thì đã nhìn thấy cha ngồi ở băng ghế dài kế cuối. Sau lễ, cha luôn luôn trở về chỗ đó để chờ giáo dân tới xưng tội.
Người xưng tội sẽ quỳ ở ghế sau, xưng vọng lên qua vai phải của  cha, còn cha  ngồi yên trong tư thế như vậy để giải tội. Mình thì quỳ bên cạnh cha, quay mặt nhìn cha mà xưng tội. Tư thế quỳ trên nền lối đi trong nhà thờ kể là đau đầu gối nhưng phải chấp nhận như một hình thức đền tội cần hy sinh bỏ mình, nhưng thế lại nghe rõ cha dặn việc đền tội, vì cha nói nhỏ lắm, chắc cha sợ người khác nghe thấy tội mình xưng thú, họ chết giấc. He he !
Cũng hơn tuần nay không thấy cha tới dâng lễ , mãi đến ngày hôm kia, nghe chị Hiền làm giờ Thương Xót cầu nguyện rằng xin Chúa thương cho cha già của chúng con đi mổ mắt về được bình an, mới biết à thì ra cha phải đi bệnh viện giải phẫu mắt. Lời cầu nguyện của chị Hiền nói lên một tình cảm trìu mến dễ thương của  giáo hữu đối với  linh mục, nhất là đối với cha đây. 
Cha giảng giọng thong dong, êm ái, ngắn gọn mà chứa đựng những bài học đạo đức thực tế.
Mình rất ấn tượng ở tính cập nhật Internet của cha.
Sáng ngủ dậy, đi lễ là nghe cha già thông tin những gì đáng lưu tâm xảy ra trên mạng, ở Việt Nam, trên thế giới trong suốt thời gian tín hữu ngáy khò trên giường : Khói trắng Vatican, Đức Thánh cha Phanxico tham dự Đại hội giới trẻ tại Brazil, v.v. Kể cả chuyện các tài tử giai nhân, ca sĩ ... cũng được cha già dùng để làm đề tài nói về sự phù hoa của thế gian. Người nhớ từng tên họ, từng năm sinh năm mất, người ấy chết vì sao, cuộc đời phù phiếm, chóng qua thế nào .....
Cha già có một đầu óc tinh tường, sâu sắc và một lòng đạo đức nhẹ nhàng, ai cũng muốn thích nghe cha giảng. Gặp Nhạc sĩ bạn mình, LĐH. mới dọn về khu này, đi lễ.  Câu đầu tiên H. phát biểu là nghe cha già giảng rõ ra linh mục đạo đức. Một bài giảng của cha già giúp H. cảm hứng sáng tác mấy bản Thánh ca, H. nhỉ !
Sáng nay, lễ thứ hai đầu tuần gặp cha trở lại. 
Cha nói cám ơn Chúa, sau mổ mắt về, bác sĩ bắt kiêng cữ 10 ngày. Hôm  nay tôi rất vui mừng được gặp lại anh chị em. Dạ, con cũng rất vui mừng được gặp lại cha. Cha không đến nhà thờ này, con không biết phải đi đâu mà xưng tội.
 Cha già quả là dễ mến.Mình ước gì các cha trẻ cũng dễ mến như vậy.


Ảnh chụp ngày 19.3. cha già đã  thân thương tái ngộ cộng đoàn.Cha đang giải tội.

Thứ Bảy, 15 tháng 3, 2014

GIỖ GIÁP NĂM BÁC KHIÊM



Hôm nay, Bác Khiêm gái và các anh chị trong gia tộc Họ Phạm dâng Lễ Giỗ Giáp Năm Bác trai.
Hương, Mai, chị Tâm và cháu Tí đón khách ân cần, chu đáo, thấy thương quá ! Dũng và ai nhỉ! chụp ảnh, mồ hôi lấm tấm.
Vừa ngồi vào ghế thì được gọi tên nên một lúc sau mới nhận ra ngồi bên mé kia là Bác Khiêm gái , Nghị, Trinh, Diễm. Nơi đông người, không dám đưa mắt nhìn sang lần nữa.
Thật là cảm động khi mình tới đúng giờ, đi từ dưới lên trên, thoạt thấy ghế còn trống cả nửa hội trường. Vậy mà chỉ 5 phút sau, khi được MC Vũ Sinh Hiên mời lên chia sẻ, từ trên nhìn xuống, đã thấy đông đầy khán thính giả tham dự. Các cha ngồi đầy ở dưới cùng.
Ít phút chia sẻ trước lễ còn có  Ca trưởng Lãm, sáng tác và hát bài Vì ai ?, lời của Bác Khiêm, một anh gì hai hôm trước có đến nhà bác với lẵng hoa hồng vàng, cùng lúc mình đến. Lại có mục chia sẻ của thầy Nguyễn Khắc Dương, cựu giáo sư Đại học Dalat. 
Lễ Đồng Tế hôm nay có 17 cha, cha Giám Tỉnh DCCT. chủ tế. Mình nhận ra 5 cha quen : Cha Túy, cha Phụng, cha Triết, cha Nghĩa và cha GT. Dẫn chương trình thì quá thân. Hôm nay anh Hai bận vét đẹp như hồi ảnh du lịch Mỹ quốc. 
Trong bài giảng hôm nay, cha Thành nói , người có mặt cũng như người vắng mặt, ai cũng nhớ đến Cụ Khiêm với hình ảnh rất thân thương của giáo xứ ĐMHCG. Trước di ảnh Bác Khiêm, mọi chia sẻ đều được trải lòng chân thành, bởi Bác là một con người công chính khiêm nhu đạo đức, chắc chắn Bác vui.
NGUYỆN XIN BÁC ĐƯỢC AN VUI BÊN CHÚA TRÊN NƯỚC TRỜI.
XIN CẦU CHO BÁC GÁI VÀ CHÚNG CON.

GIẤC MƠ CUỐI ĐỜI 
Lời Thơ : Cố Học giả Công Giáo PHÊ RÔ DỤC ĐỨC PHẠM ĐÌNH KHIÊM




Kỷ niệm ngày Bác qua đời : 13.3.2013.
Lễ Giỗ Đầu : 15.3. 2014




MÁ THẬT TUYỆT VỜI 
Hôm nay 18/3, ngày này năm trước chúng mình đưa tang Ba...
Chị Hải Triều ơi, trong những ngày gợi nhớ này, Má và chúng em đã nhắc lại từng khoảnh khắc cuối cùng của Ba trong nước mắt... Là người sau hết lên tiếng, Má nhỏ nhẹ nói "bây giờ có nói bao nhiêu cũng không hết nhớ thương Ba, thì các con hãy sống đẹp lòng Chúa để ngày sau được sum họp với Ba trên trời...".
Chị Hải Triều ơi, lẽ ra tụi em phải an ủi Má, nhưng Má lại phải dỗ dành tụi em, những đứa hay 'khóc nhè' mỗi khi nhớ Ba... 
Má thật tuyệt vời phải hông chị Hải Triều ơi...  
 Cám ơn Chị đã lên chia sẻ tâm tình trong ngày giỗ Ba...
Cám ơn Chị đã làm Ba vui vì tấm chân tình và lòng tận tuỵ của Chị dành cho Ba Má với tụi em, Chị nhe.
 Nguyện xin Thánh Cả Giuse mà chúng ta mừng kính trọng thể vào ngày mai ban muôn vàn hồng ân cho Bác, cho Chị  và mọi người trong gia đình Chị nữa.
emH
--------------------------------------------------------------
H. rất thân mến,
chị đăng ảnh Má  để không lên nhà thăm Má được thì ngắm ảnh,  thêm  thương.
ht.
(Ảnh trong bài : http://thanhtoainguyen.orgfree.com/ )

Thứ Sáu, 14 tháng 3, 2014

CHỬI MẮNG VÀ LỜI DẠY CỦA ĐỨC PHẬT


Chửi mắng và lời dạy của đức phật 
Một lần, Phật đi giáo hóa vùng Bà La Môn, Các tu sĩ Bà La Môn thấy đệ tử của mình đi theo Phật nhiều quá, nên ra đón đường Phật chửi. Phật vẫn đi thong thả, họ đi theo… sau chửi. Thấy Phật thản nhiên làm thinh , họ tức giận, chặn Phật lại hỏi:
- Cù-đàm có điếc không?
- Ta không điếc.
- Ngài không điếc sao không nghe tôi chửi?
- Này Bà La Môn, nếu nhà ông có đám tiệc, thân nhân tới dự, mãn tiệc họ ra về, ông lấy quà tặng họ không nhận thì quà đấy về tay ai?
- Quà ấy về tôi chứ ai.
- Cũng vậy, ông chửi ta, ta không nhận thì thôi.
* Người kêu tên Phật mà chửi. Ngài không nhận. Còn chúng ta , những lời nói bóng, nói gió ở đâu đâu cũng lắng tai nghe, để buồn để giận. Như vậy mới thấy những lời cuồng dại của chúng sanh Ngài không chấp không buồn. Còn chúng ta do si mê, chỉ một lời nói nặng nói hơn, ôm ấp mãi trong lòng, vì vậy mà khổ đau triền miên. Chúng ta tu là tập theo gương Phật, mọi tật xấu của mình phải bỏ, những hành động lời nói không tốt của người, đừng quan tâm. như thế mới được an vui.
Trong kinh, Phật ví dụ người ác mắng chửi người thiện, người thiện không nhận lời mắng chửi đó thì người ác giống như người ngửa mặt lên trời phun nước bọt, nước bọt không tới trời mà rơi xuống ngay mặt người phun. Thế nên có thọ nhận mới dính mắc đau khổ, không thọ nhận thì an vui hạnh phúc. Từ đây về sau quí vị có nghe ai nói gì về mình, dù tốt hay xấu, chớ nên thọ nhận thì sẽ được an vui.
Tuy có chướng duyên bên ngoài mà chúng ta biết hóa giải, không thọ nhận, đó là tu. Không phải tu là cầu an suông, mà phải có người thử thách để có dịp coi lại mình đã làm chủ được mình chưa. Nếu còn buồn giận vì một vài lí do bất như ý bên ngoài. Đó là tu chưa tiến.
Đa số chúng ta có cái tật nghe người nói không tốt về mình qua miệng người thứ hai , thứ ba, thì tìm phăng cho ra manh mối để thọ nhận rồi nổi sân si phiền não, đó là kẻ khờ, không phải người trí.

​SỐNG ĐẸP FB.​

BA ĐIỀU GIÁ TRỊ


BA ĐIỀU GIÁ TRỊ TRONG CUỘC SỐNG : 

Ba điều trong đời một khi đã đi qua không thể lấy lại được:
- Thời gian
- Lời nói
- Cơ hội 

Ba điều trong đời không được đánh mất:
- Sự thanh thản
- Hy vọng
- Lòng trung thực 

Ba thứ có giá trị nhất trong đời:
- Tình yêu
- Lòng tự tin
- Bạn bè 

Ba thứ trong đời không bao giờ bền vững được:
- Giấc mơ
- Thành công
- Tài sản 

Ba điều làm nên giá trị một con người:
- Siêng năng
- Chân thành
- Thành đạt 

Ba điều trong đời làm hỏng một con người:
- Rượu
- Lòng tự cao
- Sự giận dữ.

( trích Sống đẹp FB.)

NHỮNG MÓN QUÀ VÔ GIÁ


  (Nguồn clips : Web Giáo xứ Đa Minh Ba Chuông)

NHỮNG MÓN QUÀ VÔ GIÁ 
Có những món quà bạn không cần phải mua nhưng lại vô cùng ý nghĩa và có giá trị lớn lao khi bạn trao tặng cho bạn bè, người thân và cho cả chính bạn...
Món quà của SỰ LẮNG NGHE.
Hãy thật sự lắng nghe, chia sẻ những nỗi đau, tâm sự vui buồn cùng người khác. Hãy lắng nghe không chỉ bằng đôi tai mà bằng tất cả tấm lòng.
Món quà của SỰ QUAN TÂM.
Hãy dành thời gian để quan tâm đến người thân, bạn bè đồng nghiệp, xem những vấn đề của họ như là của chính bạn. Hãy để mọi người cảm nhận tình cảm của bạn qua những hành động bạn thể hiện hàng ngày.
Món quà từ SỰ TRÌU MẾN:
Hãy thể hiện sự trìu mến với những người thân yêu bằng những lời nói ân cần và cử chỉ trìu mến, bạn sẽ thấy điều kỳ diệu.
Món quà từ NHỮNG NỤ CƯỜI.
Nụ cười là một ngôn ngữ không lời nhưng có khả năng lan tỏa sức mạnh đến người khác nhanh nhất. Một nụ cười làm niềm vui nhân đôi, làm nỗi buồn trở nên nhẹ bỗng. Hãy trao tặng nụ cười cho tất cả những người xung quanh.
Món quà từ SỰ GIÚP ĐỠ:
Mỗi ngày hãy chủ động làm một vài điều tử tế, bạn sẽ thấy cuộc sống thật vui vẻ và nhẹ nhàng.
Món quà của NHỮNG LỜI KHEN TẶNG.
Những câu nói giản đơn nhưng chân thành như “Hôm nay trông bạn thật rạng rỡ!”, “Bạn làm việc đó thật tốt”, hay “Bữa ăn hôm nay thật tuyệt vời!”… sẽ tạo thêm niềm vui và phấn chấn cho người khác.
Món quà của SỰ SÁNG TẠO.
Mỗi ngày hãy thực hiện một điều bất ngờ nho nhỏ cho bạn bè và gia đình. Chắc chắn bạn cũng sẽ nhận được những điều bất ngờ thú vị từ họ.
Món quà của SỰ TĨNH LẶNG.
Là những khoảnh khắc bạn thực sự chỉ muốn yên lặng một mình. Hãy trân trọng thời khắc quý báu này và trao món quà của sự tĩnh lặng cho người khác đúng lúc.
Món quà của SỰ TRI ÂN.
Những lời đơn giản nhất để bày tỏ lòng biết ơn đối với sự quan tâm, chia sẻ của người khác chính là “Chào bạn!” và “Cảm ơn” cùng nụ cười chân thành…
Món quà từ NHỮNG MẨU GIẤY VIẾT TAY:
Hãy viết ra từ những lời chân thật, dù rất ngắn, nó có sức mạnh phi thường đấy, dù nó là dòng chữ “cảm ơn bạn đã giúp đỡ tôi” hay “xin lỗi vì mình đã quá nóng với bạn”. Hay thậm chí một bài thơ hay một lời khuyên đẹp. Chính những điều nho nhỏ đó, có thể đi suốt cuộc đời ta.

Khi bạn trao tặng những món quà này cho bất kỳ ai cùng với một ánh mắt khích lệ chính là tấm chân tình của bạn, chắc chắn chúng sẽ trở thành những món quà vô giá, cho người nhận và cả cho người trao tặng!
Sưu tầm Internet

Chủ Nhật, 9 tháng 3, 2014

THÔNG BÁO KHÓA






THÔNG BÁO 
Trên đây lần lượt là 2 ảnh đại diện của một người tự nhận là "kẻ chửi mướn".Thời gian gần đây kẻ này đã xâm nhập vào mục Nhận xét dưới mỗi bài đăng của ht'blog bằng những lời lẽ hạ cấp để thóa mạ cay cú, vu khống người khác. Buộc lòng ht. tôi phải tạm khóa mục này .
Thành thật cáo lỗi cùng quý thân hữu và bạn đọc.
ht.