#Stats1 ul{margin:0;border:0;padding:0;height:32px;background:url(//goo.gl/ZHG881) no-repeat 0 -34px} #Stats1 li{margin:10px 0;border:0;padding:0 0 0 40px;list-style-type:none} #totalComments{height:32px;background:url(//goo.gl/ZHG881) no-repeat} #totalCount{height:32px;background:url(//goo.gl/ZHG881) no-repeat 0 -68px}

Thứ Năm, 31 tháng 1, 2013

CAM LÒNG Ở NÚI SAO ?


Nhiều khi mình muốn trốn đời luôn, nhưng khổ cái không đi tu được. Ai bảo đi tu là sướng chứ mình thấy đi tu khổ hơn ngoài đời nhiều, thôi không lên núi được thì xuống núi, xuống núi vưỡn hơn, muốn làm gì thì làm, ở trên núi, sợ nhất tiếng chuông. Chuông chùa thì phải tụng kinh, chuông cha lập tức làm thinh lên đền. Thế là  quanh quẩn làm sao sư bèn  xuống núi.
Lững thững gặp khối sự hay, tuy nhiều khi muốn ngồi khuất một mình, nhưng  sáng sớm mở mắt thấy chuyện nọ chuyện kia lại "bước chân đi cấm kỳ trở lại".
Hôm qua, liếc mắt đọc mấy cái tít trên một tờ nhật báo, định buột miệng than, xong lại thôi, than mãi à, ngày nào cũng than à, nghĩ bụng, bây giờ không cần suy nghĩ, chỉ lấy bút gom các cái tít to trên báo vào là thành một bài rất đáng hãi :
Sự lạc hậu được mặc định, vác hàng lậu từ Trung quốc về Việt Nam, lương thấp sao giữ được nhân tài, lãnh đạo nhiều hơn nhân viên, bắt hai nghi phạm giết đại gia ngành chè, một phạm nhân tử vong bất thường, tiêu huỷ hơn một tấn thịt gà thối, sản xuất gia vị không bảo đảm vệ sinh, lâm tặc đánh kiểm lâm trọng thương, lừa đảo qua mạng, hàng nhái ngập Móng Cái, một km đường cao tốc tốn 28,2 triệu USD, lừa “chạy” trường giá 250 triệu, những quyết sách giáo dục thiếu thuyết phục, khổ vì quy định lỗi thời, án lòng vòng số phận bị đùa cợt, làm rõ vì sao trẻ em thiếu đói….
Ấy là chỉ ở nguyên trên trang 01 của  2 tờ báo thôi, và ấy là chỉ nguyên ghi mỗi cái tít thôi. Tóm lại, toàn là những chuyện buồn, chuyện lo.
Sang tới báo hôm nay, lại liếc sơ. Thấy hơi hơi vui vì  vài tít có chữ Cần, chữ Cứu, chữ Bắt thiếu uý công an, nhưng vội lưu ý đến Thư ngỏ gửi bộ trưởng LĐ-TB-XH (tại đây) , bởi , thời nay nhiều thư ngỏ gửi rất “tâm trạng” nhưng hình như không được giải quyết  chắc vì không dán tem. Muốn xem thư ngỏ này có tâm trạng gì, xem rồi thật thương vì thư viết quá dài, kết luận  cũng chỉ  nào là “xin nhà nước”, “ hãy tiết kiệm”, “hãy tạo điều kiện”.
Nhẹ tênh !
Tấm ảnh đen trắng kèm bài thì mờ mịt, mới nhìn hết hồn tưởng con cháu mình ở vùng cao gầy đến  như bộ xương người thế này a , hóa ra không phải, là cái váy vàng xếp li, hai cánh tay cháu còn bưng nổi bát canh lều bều. Đây là bức ấy chụp màu ở trên mạng :
Chú thích trên báo Thanh Niên: Em bé vùng cao và suất cơm thiếu chất mà nhà báo Trần Đăng Tuấn bắt gặp. Ảnh Trần Đăng Tuấn.
Các cháu ơi, cố lên, ở Bắc Triều Tiên họ đói hơn mình nữa cơ, (tại đây)
( Nguồn HNC ,  blog)
hãy cố chờ cái bác bộ trưởng trả lời chú Trần Đăng Tuấn, chủ lá thư ngỏ này nhá. Chú Tuấn và mọi người thương các cháu lắm nhưng  chú đang còn phải “xin”, phải “hãy” các cháu ạ. Còn bao giờ “cho”, “ làm” của bác bộ trưởng thành sự thật thì bác đây không biết.
Cám ơn chú Tuấn đã vui lòng tả chân cảnh các bé mầm non đến bữa thì cô giáo phải “véo” từ các nắm cơm của các em khác dồn lại cho bé ăn. Có bé ăn bí ăn củ, có bé …chẳng có gì ăn.
Thôi thì rõ ràng hơn hết là  cứ đăng  ảnh màu lên thế này,  xem có thương không.( Ảnh trích từ bài : CHÚNG NÓ ĂN UỐNG NHƯ THẾ NÀY ĐÂY, THƯA THỦ TƯỚNG, blog MTH)

Nhưng nói thương bằng miệng không, đâu có được.
Mà muốn cho các cháu được có cơm có thịt thì phải làm sao ?
Trước hết,
Phải "xin", phải "hãy", và phải chờ cách cho  ở quyết định của những cấp quan chức ở giữa.
Đấy, nhìn lũ trẻ con ốm đói thế này, ai yên lòng mà …lên núi cho cam.

BÀN VỀ NHẠC SẾN

NHT. Khi cần biết ý kiến một người bạn nhờ tìm người hòa âm phối khí cho vài bài hát để thực hiện một CD, tôi hỏi : Thích nhạc sang hay nhạc sến ? Người bạn ngớ ra, hỏi lại thế nào là sang, thế nào là sến. Tôi cũng chẳng biết giải thích sao cho bạn  hiểu, bởi vì câu trả lời cho vấn đề này phải tùy thuộc vào kiến thức âm nhạc, thói quen nghe nhạc, đôi tai của của người hỏi, lại phải nói theo khía cạnh nào, phương diện nào nữa. Trước đây, trên tạp chí  nào đó, người ta có những bàn cãi về sang - sến rồi, hồi đó tôi có nhận xét là những giải thích ấy mang tính mơ hồ, chủ quan, cảm thụ cá nhân, tuy nhiên cũng có một vài ý tưởng hay. Thế nhưng để bảo phân tích cách dễ hiểu cho bạn, thì không biết phải nói thế nào đây. Vì bạn chuẩn bị làm album tân nhạc, nhưng đam mê của bạn lại là ...Cải lương. 
Vậy để đua theo trào lưu tân thời, văn minh Internet, tôi đây liền lướt web tìm câu trả lời. 
OK, có ngay. Ngắm thằng cu này cho vui. Đố biết nó đang hát nhạc sang hay nhạc sến mà mê tơi truyền cảm thế ? Theo tôi, cứ nhắm tít mắt hát quên chết như cu tí này là hát ...hay .



Bàn về nhạc sến
Tôi không phải là fan của nhạc sến, nhưng thỉnh thoảng vẫn nghe nhạc sến. Thật ra, tôi thấy rất khó phân biệt đâu là nhạc sến, và đâu là nhạc sang, bởi vì lằn ranh quá mong manh, nhất là trong bối cảnh âm nhạc Việt Nam. Hôm nay thấy trên báo Sức khỏe và Đời sống , cơ quan ngôn luận của Bộ Y tế, có bài “Nhạc sến biến dị” của Vương Tâm bàn về nhạc sến thời trước 1975 ở trong Nam. Chúng ta phải ngạc nhiên một tờ báo y tế của Bộ Y tế lại quan tâm đến … nhạc sến! Cũng là một bài báo lạ.
Nhưng trước hết, chúng ta cần phải biết “sến” là gì và nhạc sến là loại nhạc nào? Trong bài viết, tác giả không trả lời hai câu hỏi đó. Thay vào đó, tôi để ý đến đoạn như “Riêng dòng nhạc Sến, những điệu thức Bolero, Ballade... gắn với nội dung lời ca bi lụy, thất tình, đau khổ về số phận trớ trêu của kiếp nghèo, tập trung vào những chia ly và mất mát trong tình yêu. Lời hát não nề, than vãn cầu mong được bù đắp. Nhạc thì được phát triển giàu chất tự sự lê thê, buồn bã khai thác âm hưởng cổ nhạc theo hướng yếm thế, ru ngủ lòng người tạo nên cảm giác chán chường bế tắc.”
Tôi thấy một đoạn văn ngắn này có nhiều vấn đề cần phải xem xét lại. Trước hết, tôi không hiểu “điệu thức” là gì. Còn nhạc thì làm sao giàu chất tự sự được? Có lẽ tác giả muốn nói đến ca từ giàu chất tự sự chăng?
Điều làm tôi ngạc nhiên là tác giả cho rằng nhạc sến khai thác cổ nhạc! Nên nhớ rằng cổ nhạc như vọng cổ viết theo điệu ngũ cung (hò, xự, xang, xê, cống -- tương đương với ngũ hành là kim, mộc, thủy, thổ, hỏa), không phải như loại “tân nhạc” với thể điệu boléro có 7 nốt (do, re, mi, fa, sol, la, si). Mấy năm sau này tôi thấy có nhạc sĩ (như Minh Vy chẳng hạn) có công soạn tân nhạc nhưng mang âm điệu ngũ cung (như ca khúc Vọng cổ buồn chẳng hạn), và theo tôi đó là một nỗ lực rất đáng khen và khuyến khích.
Còn tác giả viết nhạc sến là những bài có điệu boléro, ballade, … chính là lấy từ chữ của một bài viết trên (Thanh Niên) vào năm 2005. Trong bài báo trên tờ Thanh niên, tác giả Hà Đình Nguyên viết: “Chưa có một quy định "chuẩn" nào để phân biệt bản nhạc này thuộc loại "sến", bản kia không "sến" nhưng không biết do đâu mà hầu như tất cả các bản nhạc được sáng tác trước 1975 - nhất là những bản có điệu boléro, rumba, ballade... đều bị quy là nhạc sến (tiếng "sến" được hiểu theo nghĩa dè bỉu, mỉa mai, khinh thị...).”
Nếu những cho rằng chia li và mất mát trong tình yêu là “sến”, thì tôi không biết tác giả có xem nhật kí của Bác sĩ Đặng Thùy Trâm là sến không? Tôi e rằng định nghĩa “sến” của tác giả chưa ổn mấy. Thật vậy, nếu định nghĩa theo nội dung (như đau khổ về số phận,trớ trêu của kiếp nghèo, những chia ly và mất mát trong tình yêu) thì tôi nghĩ một số bài “nhạc đỏ” cũng có thể xem là … sến, vì cũng có những chia li, nhưng trắc trở trong tình yêu, thân phận trong những bài “nhạc cách mạng”.
Điều làm tôi cực kì ngạc nhiên là tác giả liệt kê ca khúc Giết người trong mộng của nhạc sĩ Phạm Duy vào hàng nhạc sến! Không hiểu tác giả bài viết có biết qua hay có nghe qua ca khúc này chưa mà nói đó là một bài nhạc sến. Xin nói cho tác giả biết rằng ca khúc này thật ra là Phạm Duy phổ từ thơ của Hàn Mặc Tử đấy. Trong bài Hành khất, thi sĩ Hàn Mặc Tử viết:
Làm sao giết được người trong mộng
Để trả thù duyên kiếp phụ phàng ?
và nhạc sĩ tài hoa Phạm Duy lấy hai câu này để viết thành một ca khúc rất hay theo nhịp 4/4. Bài đó rất thịnh hành thời trước 1975. Tôi chưa nghe ai nhận xét rằng đó là một bài nhạc sến cả.
Tưởng cần nhắc lại rằng trước đây cũng có một ông nhạc sĩ trong nước (là con của cụ Nguyễn Xiển) viết rằng ca khúc Mùa thu chết của Phạm Duy là xuyên tạc cách mạng tháng 8! Chưa hết, ông nhạc sĩ này còn viết rằng Phạm Duy từng là bộ trưởng văn hóa thời Nguyễn Văn Thiệu! Đúng là “hết ý”. Hình như mấy ông viết mà không chịu tìm hiểu hay làm nghiên cứu về chủ đề mình viết.
Đến đây thì chúng ta cần phải đặt câu hỏi “sến” là gì? Giáo sư Cao Xuân Hạo  giải thích nguồn gốc chữ sến như sau: "Theo tôi, gốc của từ ‘sến’ phải bắt đầu từ chữ ‘sen’ trong nghĩa con sen, là đứa ở, con ở. [...] Từ ‘sen’ đọc trại thành ‘sến’ bởi sự khinh bỉ, là tầng lớp thấp, văn hóa kém. Còn nếu ứng dụng vào văn chương, nghệ thuật thì ám chỉ khẩu vị thấp hèn, ít có giá trị. Bàn riêng về chữ ‘sến’ trong ‘nhạc sến’, tôi nghĩ nghĩa gốc cũng vậy, không thay đổi nhiều lắm". Có thể xem thêm bài của Hoàng Phủ Ngọc Phan để biết thêm “câu chuyện”.
Báo Thanh Niên viết tiếp: "[…] Thôi thì, hễ loại nhạc nào mà các chị gánh nước mướn, các anh đạp xích lô, thợ thuyền (gọi chung là giới bình dân) khoái hát thì... đó là “nhạc sến”! Thật vậy, chúng ta chưa có một định nghĩa hoàn chỉnh nào để phân định rạch ròi giữa nhạc sến và nhạc sang. Trước năm 1975, người ta ngầm hiểu với nhau rằng “nhạc sến” chỉ những ca khúc “bình dân”, với điệu nhạc như vừa nói trên (boléro, rhumba, ballade, có khi cả slow), lời nhạc đơn giản đi thẳng vào những câu chuyện tình cảm éo le, tình nhân xa nhau (em thì ở “hậu phương”, còn anh ra “tiền tuyến”), hay chuyện cha mẹ không đồng ý cho cưới vì anh nghèo mà em thì giàu sang, v.v…
Theo tôi, nhạc sến có 3 đặc điểm chính như sau: nhạc điệu đơn giản, cách hát thì sướt mướt, và lời giản dị. Đặc điểm thứ nhất thì quá rõ ràng, vì phần lớn những bài ca mà người ta cho là sến thường dễ chơi. Chỉ cần một cây guitar là đủ. Còn âm điệu thì chỉ cần một hợp âm cũng đủ, hay nhiều lắm là 3 hợp âm. Thử so sánh bài Người yêu cô đơn với bài Áo anh sứt chỉ đường tà thì thấy bài nào dễ chơi hơn!
Đặc điểm thứ 2 là cách hát thường ngọt ngào, sướt mướt, và đau khổ. Không có cách diễn này thì không phải là nhạc sến. Nghe Chế Linh, Thanh Tuyền, Phương Dung, HoàngOanh, Thanh Thúy, v.v… thì sẽ thấy đặc tính này. Riêng Thanh Thúy mà ca nhạc của Trúc Phương thì ôi thôi nói mùi mẩn làm sao (và sến nữa)!
Đặc điểm thứ 3 có lẽ là “lợi hại” nhất là lời ca đơn giản, đi đẳng vào vấn đề. Nhạc sến không có những câu triết lí cao siêu, mà toàn là những câu chữ ngay cả anh tài xế xích lô và chị bán hàng cá có thể hiểu được:
Tại anh đó nên duyên mình dở dang
em nào mộng mơ quyền quý cao sang
hay:

Một hôm tôi đên tìm em
để từ giã lên đường
Gửi lại phố phường
chuyện đôi mình thương mai xa cách ngàn phương
Cuộc đời sương gió,
chiến chinh nơi miền xa qua những vùng xa lạ quá
Quê hương bao la,
những chiều đóng quân ven rừng,
gặp hoa trắng ngày xưa thương em nói sao cho vừa
(bài Người em xóm đạo)
Làm sao bảo anh xích lô và chị bán bún mắm hiểu được nhưng câu như sau:
Ta thấy em trong tiền kiếp với mặt trời lẻ loi
hay
Ôm lòng đêm nhìn vầng trăng mới về
nhớ chân giang hồ
Ôi phù du
từng tuổi xuân đã già
một ngày kia đến bờ
đời người như gió qua
hay
Từ giã hoàng hôn trong mắt em
tôi đi tìm những phố không đèn
Thật ra, có mấy người gọi là (hay tự xưng là) “trí thức” hiểu được những câu trên? Tôi nghĩ không nhiều đâu. Có thể họ nghĩ rằng họ hiểu, nhưng trong thực tế thì họ không hiểu.Có phải viết ra những câu chữ làm người ta phải vò đầu bức tóc để suy nghĩ nó có nghĩa là gì là sang chăng? Tôi nghi ngờ lắm.
Người ta tưởng rằng phải dùng từ ngữ của Tây, của Tàu thì mới sang, còn nói thẳng như người Nam bộ là … sến. Đã có quá nhiều người nói những danh từ sang, những thuật ngữ khoa học, nhưng nếu hỏi thật thì có bao nhiêu người nói những thuật ngữ đó hiểu họ nói cái gì hay hiểu thuật ngữ đó có nghĩa là gì. Kinh nghiệm của tôi cho thấy con số hiểu không nhiều đâu. Nói đến đây tôi nhớ đến ngày xưa khi học toán, thầy cứ giảng “tuyến tính” và chúng tôi cứ cấm đầu cấm cổ nói “tuyến tính” mà chẳng hiểu nguồn gốc của thuật ngữ này. Đến khi sang đây, sách tiếng Anh viết rõ ràng là straightline (đường thẳng). Ôi, dễ hiểu làm sao! Đường thẳng thì nói huỵch tẹt ra là đường thẳng, mắc mớ gì mà nói tuyến tính để làm đau đầu học trò? Đọc sách Kinh Dịch của người Việt dịch tôi chẳng hiểu gì, nhưng đọc sách dịch của người Tây phương dịch thì rất dễ hiểu. Nhạc sến có ca từ đơn giản đi thẳng vào vấn đề, và theo tôi xu hướng đó không có gì là có hại cả.Vậy thì xin đừng trách sến nhé!
Trong bài báo trên Sức khỏe và Đời sống, tác giả nói đến ảnh hưởng tiêu cực của nhạc sến như sau: “Những nỗi đau yếm thế, cô đơn và than vãn trong nghèo túng là màu sắc điển hình cho dòng nhạc Sến đã làm ảnh hưởng tới tâm lý người nghe và làm thui chột những khát vọng lớn lao và hướng tới tương lai.” Nhưng rất tiếc tôi không thấy tác giả trưng bày bằng chứng cho câu phát biểu này. Theo tôi thì nhạc sến cũng có công làm giàu ngôn ngữ Việt đó chứ. Xin dẫn chứng một vài bài:
Con đường xưa em đi
vàng lên mái tóc thề
ngõ hồn dâng tái tê
anh làm thơ vu qui
khách qua đường lắng nghe
chuyện tình ta đã ghi
(bài Con đường xưa em đi)
hay
chiều nào nâng li bôi
tình vừa mới chấp nối
chia li mà không nói nhau một lời
để rồi bao năm sau
phong sương mòn vai áo
nhớ cố nhân muốn tìm tạ lòng nhau
(bài Chuyện đêm mưa)
cũng có những ca từ trữ tình ra phết đó chứ.
Đọan này của tác giả làm tôi sợ nhất: “Các nhà quản lý văn hóa của ta rất cân nhắc trong việc cấp phép cho các ca khúc này được phổ biến ở Việt Nam. Nhưng đây là chỉ cấm đối với các ca sĩ trong nước chứ các chương trình lậu ở hải ngoại hàng ngày vẫn được đưa về.” Nghe cứ như là thời bao cấp. Câu phát biểu còn hàm ý kiểm soát và quản lí tư tưởng văn nghệ của người dân. Nếu tư tưởng là tự do hoạt động cao quí nhất của con người thì khống chế và kiểm soát tư tưởng là một hành động bỉ ổi nhất, bởi vì hành động đó làm cho người ta trở thành nô lệ (do nô lệ là người mất tự do tư tưởng). Có lẽ tác giả nghĩ rằng phải kiểm soát định hướng sáng tác, cơ quan tuyên truyền bảo phải thích hoặc ghét cuốn sách nào, khúc nhạc nào, phim nào, thì người dân sẽ thích hoặc ghét những sách đó, khúc nhạc đó, phim đó. Tôi nghĩ rằng đây là một suy nghĩ sai. Trong thực tế, chúng ta thấy sau 1975, nhiều ca khúc sáng tác trước 1975 ở miền Nam bị cấm lưu hành, nhưng trong xã hội thì những ca khúc này vẫn sống và sống mạnh, thậm chí còn lan tràn ra tận ngoài Bắc. Thử vào các quán karaoke thì biết ngay. Theo tôi, không nên tìm cách pha trộn văn chương với tuyên truyền, hay biến nghệ thuật thành chính trị được. Ngày xưa, Mạnh Tử từng nói “quân chi thị thần như thổ giới, tắc thần thị quân như khấu thù” (Vua mà coi bề tôi như cỏ rác thì bề tôi coi vua như khấu thù). Bây giờ mình không có vua với thần dân, nhưng có mấy “ông văn hóa” và người dân, và tôi nghĩ câu nói vẫn còn tính thời sự của nó.
NVT

Thứ Tư, 30 tháng 1, 2013

TONY MELENDEZ và ...

 Never Be The Same
NHT. : KHÔNG LỜI

TIỄN PHẠM DUY NHỚ HỮU LOAN

NHT. Một trong những ca khúc nổi tiếng của Phạm Duy là bài " Áo anh sứt chỉ đường tà", phổ từ bài thơ "Màu tím hoa sim" của Hữu Loan. Thuở bé, nhà ở Đà Lạt, ở Đơn Dương, ở Lạc Xuân, tôi đã từng tha thẩn chơi  trên đồi thông, đồi sim, hái sim ăn, thích hoa sim, thích màu tím và lớn lên thì thích bài hát này, tuy hơi dài nhưng được nghe biết chuyện đời và tâm sự thật của nhà thơ, thấy bài hát cũng dễ thuộc. Theo tôi, giá trị của một ca khúc, dù nhỏ bé đến đâu, cũng không phải ở tính hàn lâm, mà là ở cái hồn của nó còn  sống mãi trong lòng người yêu thơ, yêu nhạc, cho dù người trong chuyện đã khuất, cho dù tác giả đã qua đời. Hồn của Màu tím hoa sim như vậy. Biệt Phạm Duy lại nhớ Hữu Loan.




Lời tự thuật 
của tác giả bài thơ "Màu Tím Hoa Sim"
Hữu Loan: Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có cơ may cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa, chỉ được cha dạy cho dăm chữ bữa có bữa không ở nhà. Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người. Lên trung học, theo ban thành chung tôi cũng học tại Thanh Hóa, không có tiền ra Huế hoặc Hà Nội học. Đến năm 1938 - lúc đó tôi cũng đã 22 tuổi - Tôi ra Hà Nội thi tú tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi không có ý định dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng biết thi tú tài thời Pháp rất khó khăn. Số người đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5-6 chục năm sau những người cùng thời còn nhớ tên những người đậu khóa ấy, trong đó có Nguyễn Đình Thi , Hồ Trọng Gin, Trịnh văn Xuấn , Đỗ Thiện và …tôi - Nguyễn Hữu Loan.

Với mảnh tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa để dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý, mời về nhà dạy cho hai cậu con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái thị Ngọc Chất ,bà là vợ của của ông Lê Đỗ Kỳ , tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên. Ở Thanh Hóa, Bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới.
Bà tham Kỳ là một người hiền lành, tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi chẳng khác như người nhà. Nhớ ngày đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con gái - lúc đó mới 8 tuổi- mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí: "Em chào thầy ạ!" Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằn sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời. Thế là tôi dạy em đọc, dạy viết. Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu đấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng thì cứ y như một "bà cụ non". Đặc biệt em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm chổ tôi ngồi ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng nước em vừa hái ở vườn, những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà mang ra giếng giặt .....
Có lần tôi kể chuyện " bà cụ non" ít nói cho hai người anh của em Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em giận! Suốt một tuần liền, em nằm lì trong buồng trong, không chịu học hành... Một hôm bà tham Kỳ dẫn tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể chuyện em nghe, rồi tôi đọc thơ... Trưa hôm ấy, em ngồi dậy ăn một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn buồng. Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả nhà không ai đồng ý: "Mới ốm dậy còn yếu lắm, không đi được đâu" Em không chịu nhất định đòi đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà tham Kỳ đưa em lên núi chơi .....

Xe kéo chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc, tôi đuổi theo muốn đứt hơi. Lên đến đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em.Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói gì. Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân trời, không biết lúc đó em nghĩ gì. Bất chợt em hỏi tôi:
-Thầy có thích ăn sim không ?
Tôi nhìn xuống sườn đồi: tím ngắt một màu sim. Em đứng lên đi xuốn sườn đồi, còn tôi vì mệt quá nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ....Khi tôi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những quả sim đen láy chín mọng.
-Thầy ăn đi.
Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng trầm trồ: -Ngọt quá.

Như đã nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, quả sim đối với tôi chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú thật tôi chưa bao giờ ăn những quả sim ngọt đến thế!
Cứ thế, chúng tôi ăn hết qủa này đến qủa khác. Tôi nhìn em, em cười. Hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi em cũng đỏ tím, hai bên má thì....tím đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo!
Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của ông bà tham Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi... lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng ,em vẫn đứng đó nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và lầm lũi đi...Tôi quay đầu nhìn lại... em vẫn đứng yên đó ... Tôi lại đi và nhìn lại đến khi không còn nhìn thấy em nữa...
Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi vẫn được tin tức từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại, khi em mới 15 tuổi đã có nhiều chàng trai đên ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ ...
Chín năm sau, tôi trở lại nhà...Về Nông Cống tìm em. Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em , hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi. Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp....
Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sợ vì hai gia đình không môn đăng hộ đối một chút nào. Mãi sau này mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm " soạn kịch bản".
Một tuần sau đó chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới thì em gạt đi, không đòi may áo cưới trong ngày hợp hôn, bảo rằng là: " yêu nhau, thương nhau cốt là cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả". Tôi cao ráo, học giỏi, Làm thơ hay...lại đẹp trai nên em thường gọi đùa là anh chồng độc đáo. Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long,huyện Nông Công, tỉnh Thanh Hóa của gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng. Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết!
Hai tuần phép của tôi trôi qua thật nhanh, tôi phải tức tốc lên đường hành quân, theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ. Hôm tiễn tôi lên đường, em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng. Chỉ có giờ em không còn cô bé Ninh nữa mà là người bạn đời yêu quý của tôi. Tôi bước đi, rồi quay đầu nhìn lại.....Nếu như chín năm về trước, nhìn lại chỉ thấy một nỗi buồn man mác thì lần này, tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống.
Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời! Em chết thật thảm thương: Hôm đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồn (thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn trôi đi nên trượt chân chết đuối! Con nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn lòng tri kỷ, để lại tôi tôi nỗi đau không gì bù đắp nỗi. Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm sâu thẳm trong trái tim tôi.
Tôi phải giấu kín nỗi đau trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Tôi như một cái xác không hồn....Dường như càng kềm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May sao, sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm sự gì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong lòng tôi được bung ra. Khi ấy chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An, tôi ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra ghi chép. Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra:
Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội 
Những em nàng có em chưa biết nói "Khi tóc nàng đang xanh ..." ...Tôi về không gặp nàng...
Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương, viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh Hóa... Anh bạn này đã chép lại và truyền tay nhau trong suốt những năm chiến tranh. Đó là bài thơ Màu Tím Hoa Sim.

Đến đây, chắc bạn biết tôi là Hữu Loan, Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 2-4-1916 hiện tại đang "ở nhà trông vườn" ở làng Nguyên Hoàn - nơi tôi gọi là chổ "quê đẻ của tôi đấy" thuộc xã Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hóa.
Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay nơi em bị nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên tôi viết mới nổi những câu : 
Chiều hành quân, qua những đồi sim
 / Những đồi sim, những đồi hoa sim / 
Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
 / Màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt / 
Và chiều hoang tím có chiều hoang biết / 
Chiều hoang tim tím thêm màu da diết.
Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời, chán kháng chiến, bỏ đồng đội, từ giã văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi" hay cãi, thích chống đối, không thể làm gì trái với suy nghĩ của tôi". Bọn họ chê tôi ủy mị, hoạch hoẹ đủ điều, không chấp nhận đơn từ bỏ kháng chiến của tôi. Mặc kệ! Tôi thương tôi, tôi nhớ hoa sim của tôi quá! Với lại tôi cũng chán ngấy bọn họ quá rồi!
Đó là thời năm 1955 - 1956, khi phong trào văn nghệ sĩ bùng lên với sự xuất hiện của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm chống chính sách độc tài, đồng thời chống những kẻ bồi bút đan tâm lừa thầy phản bạn, dốc tâm ca ngợi cái này cái nọ để kiếm chút cơm thừa canh cạn. Làm thơ thì phải có cái tâm thật thiêng liêng thì thơ mới hay. Thơ hay thì sống mãi. Làm thơ mà không có tình, có tâm thì chả ra gì! Làm thơ lúc bấy giờ là phải ca tụng, trong khi đó tôi lại đề cao tình yêu, tôi khóc người vợ tử tế của mình, người bạn đời hiếm có của mình. Lúc đó tôi khóc như vậy họ cho là khóc cái tình cảm riêng....Y như trong thơ nói ấy, tôi lấy vợ rồi ra mặt trận, mới lấy nhau chưa được hơn một tháng, ở nhà vợ tôi đi giặt rồi chết đuối ở sông ... Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ cho tôi là phản động. Tôi phản động ở chổ nào? Cái đau khổ của con người, tại sao lại không được khóc?
Bọn họ xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối với người vợ mà tôi hằng yêu quý, cho nên vào năm 1956, tôi bỏ đảng, bỏ cơ quan, về nhà để đi cày. Họ không cho bỏ, bắt tôi phải làm đơn xin. Tôi không xin, tôi muốn bỏ là bỏ, không ai bắt được! Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày đi bừa, đi đốn củi, đi xe đá để bán. Bọn họ bắt giữ xe tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước, có hai cái càng ở phía sau để đủn hay kéo. Xe cút kít họ cũng không cho, tôi phải gánh bộ. Gánh bằng vai tôi, tôi cũng cứ gánh, không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ theo dõi, ngăn cản, đi đến đâu cũng có công an theo dõi, cho người hại tôi...
Nhưng lúc nào cũng có người cứu tôi! Có một cái lạ là thơ của tôi đã có lần cứu sống tôi! Lần đó tên công an mật nói thật với tôi là nó được giao lệnh giết tôi, nhưng nó sinh ở Yên Mô, thường đem bài Yên Mô của tôi nói về tỉnh Yên Bình quê nó ra đọc cho đỡ nhớ, vì vậy nó không nỡ giết tôi.
Ngoài Yên Mô, tôi cũng có một vài bài thơ khác được mến chuộng. Sau năm 1956 , khi tôi về rồi thấy cán bộ khổ quá, tôi đã làm bài Chiếc Chiếu, kể chuyện cán bộ khổ đến độ không có chiếc chiếu để nằm!
Định mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với một phụ nữ khác, sống cùng tôi cho đến tận bây giờ. Cô tên Phạm Thị Nhu, cũng là phụ nữ có tâm hồn sâu sắc. Cô vốn là một nạn nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ năm 1954, 1955.
Hữu Loan và bà Phạm Thị Nhu
Lúc đó tôi còn là chính trị viên của tiểu đoàn. Tôi thấy tận mắt những chuyện đấu tố. Là người có học , lại có tâm hồn nghệ sĩ nên tôi cảm thấy chán nản quá, không còn hăng hái nữa. Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô cùng. Trong một xã thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách xa nơi tôi ở 15 cây số, có một gia đình địa chủ rất giàu, nắm trong gần năm trăm mẫu tư điền.
Trước đây, ông địa chủ đó giàu lòng nhân đạo và rất yêu nước. Ông thấy bộ đội sư đoàn 304 của tôi thiếu ăn nên ông thường cho tá điền gánh gạo đến chổ đóng quân để ủng hộ. Tôi là trưởng phòng tuyên huấn và chính trị viên của tiểu đoàn nên phải thay mặt anh em ra cám ơn tấm lòng tốt của ông, đồng thời đề nghị lên sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen ngợi để vinh danh ông .
Thế rồi, một hôm, tôi nghe tin gia đình ông đã bị đấu tố. Hai vợ chồng ông bị đội Phóng tay phát động quần chúng đem ra cho dân xỉ vả, rồi chôn xuống đất, chỉ để hở hai cái đầu lên. Xong họ cho trâu kéo bừa đi qua đi lại hai cái đầu đó cho đến chết. Gia đình ông bà địa chủ bị xử tử hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đội Phóng tay phát động đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo cũ rách. Tàn nhẫn hơn nữa, chúng còn ra lệnh cấm không cho ai được liên hệ, nuôi nấng hoặc thuê cô ta làm công. Thời đó, cán bộ cấm đoán dân chúng cả việc lấy con cái địa chủ làm vợ làm chồng.
Biết chuyện thảm thương của gia đình ông bà địa chủ tôi hằng nhớ ơn, tôi trở về xã đó xem cô con gái họ sinh sống ra sao vì trước kia tôi cũng biết mặt cô ta. Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé cứ buổi chiều lại lén lút đứng núp bên ngoài cửa sổ nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn.
 
Lúc gần tới xã, tôi gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt mày lem luốc. Cô đang lom khom nhặt những củ khoai mà dân bỏ sót, nhét vào túi áo, chùi vội một củ rồi đưa lên miệng gặm, ăn khoai sống cho đỡ đói. Quá xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi đến gần và hỏi thăm và được cô kể lại rành rọt hôm bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc rưng rức và nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi; hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về ngủ trong chiếc miếu hoang, cô rất lo lắng, sợ bị làm bậy và không biết ngày mai còn sống hay bị chết đói.
Tôi suy nghĩ rất nhiều, bèn quyết định đem cô về làng tôi, và bất chấp lệnh cấm, lấy cô làm vợ. Sự quyết định của tôi không lầm. Quê tôi nghèo, lúc đó tôi còn ở trong bộ đội nên không có tiền, nhưng cô chịu thương chịu khó , bữa đói bữa no....Cho đến bây giờ cô đã cho tôi 10 người con - 6 trai , 4 gái - và cháu nội ngoại hơn 30 đứa!
Trong mấy chục năm dài, tôi về quê an phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, ngày ngày đào đá núi đem đi bán, túi dắt theo vài cuốn sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc cho giải sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm thơ, thế mà chúng vẫn trù dập, không chịu để tôi yên. Tới hồi mới mở cửa, tôi được ve vãn, mời gia nhập Hội Nhà Văn, tôi chẳng thèm gia nhập làm gì.
Năm 1988, tôi " tái xuất giang hồ" sau 30 năm tự chôn và bị chôn mình ở chốn quê nghèo đèo heo hút gió. Tôi lang bạt gần một năm trời theo chuyến đi xuyên Việt do hội văn nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ chức để đòi tự do sáng tác, tự do báo chí - xuất bản và đổi mới thực sự.
 
Vào tuổi gần đất xa trời, cuối năm 2004, công ty Viek VTB đột nhiên đề nghị mua bản quyển bài Màu Tím Hoa Sim của tôi với giá 100 triệu đồng. Họ bảo đó là một hình thức bảo tồn tài sản văn hóa. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu trừ thuế đi còn 90 triệu, chia "lộc" cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30 triệu đồng, phòng đau ốm lúc tuổi già, sau khi trích một ít để in tập thơ khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan.
 
Sau vụ này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy bài thơ khác , nhưng tôi từ chối, thơ tôi làm ra không phải để bán.
(Nguồn: www.danchimviet.com/articles/2004/1/Li-t-thut-ca-tac-gi-1-bai-th-ni-ting-Mau-Tim-Hoa-Sim/Page1.html)

Màu Tím Hoa Sim
Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng đang xanh
Tôi người vệ quốc quân xa gia đình
Yêu nàng như yêu người người em gái.
Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
Đôi giày đinh bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
Bên anh chồng độc đáo
Tôi ở đơn vị về cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Lỡ khi mình không về thì thương người vợ chờ bé bỏng chiều quê..
Nhưng không chết người trai khói lửa
Mà chết người gái nhỏ hậu phương.
Tôi về không gặp nàng
Má ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
Thành bình hương tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
Không được nghe nhau nói
Không được nhìn nhau một lần
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
Áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa một mình đèn khuya bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo ngày xưa...
Một chiều rừng mưa
Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc
Biết tin em gái mất
Trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu vàng cỏ vàng chân mộ chí
Chiều hành quân qua những đồi sim
Những đồi sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
Tím chiều hoang biền biệt
Nhìn áo rách vai tôi hát trong màu hoa
(áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu...)
HỮU LOAN

Thứ Ba, 29 tháng 1, 2013

PHẠM THIÊN THƯ NHỚ PHẠM DUY


TP - Ngày 28-1, chúng tôi tới nhà Phạm Thiên Thư thì ông vừa đi viếng Phạm Duy về. Ông cho biết, rất đông người hâm mộ và bạn bè tới viếng nhạc sĩ tại tư gia số 349/126 Lê Đại Hành, P15, Q11, TPHCM dù lễ động quan tới 3-2 mới diễn ra.
 Phạm Thiên Thư bên tấm hình Phạm Duy treo trong nhà. 
Ảnh: T.N.A .
Phạm Duy phổ nhạc tới vài chục bài thơ của Phạm Thiên Thư, người hát chủ yếu là Thái Thanh: Ngày xưa Hoàng Thị, Động Hoa Vàng, Đi lễ chùa này… “Thế hệ của ông ấy chỉ còn lại Trần Văn Khê”- Phạm Thiên Thư thua Phạm Duy 20 tuổi, giữa họ có mối tri kỷ của một nhạc sĩ và một nhà thơ.
Nhớ lại ngày đầu gặp gỡ nhạc sĩ tài danh, Phạm Thiên Thư kể: “Tôi tổ chức học hội Hồ Quý Ly, kêu gọi lòng yêu nước, bị chính quyền cũ gây khó dễ nên tôi vào chùa làm thơ, một số bài được lan truyền. Phạm Duy khi ấy rất nổi tiếng, đến chùa thăm tôi là một cư sĩ tuổi đôi mươi chẳng tiếng tăm gì”.
Cuộc gặp gỡ có cả nhà văn Nguyễn Đức Quỳnh. Ông Quỳnh gợi ý: “Nhạc ông Duy toàn chất đời, nay gặp cư sĩ làm thơ về đạo, vậy hai ông nên kết hợp”. Phạm Duy đề nghị Phạm Thiên Thư viết 10 bài thơ. Thi sĩ kể: “Tôi lao vào viết trong 3 ngày. Ông Duy phổ nhạc một tuần thì xong”.
Các bài hát được thu âm và tạo ra một làn sóng hát nhạc đạo Phật trong các ca sĩ. Ngay sau đó nhà xuất bản in tập nhạc với số lượng lớn. “Nhuận bút cho tôi và Phạm Duy là 150.000 đồng, tôi nhận 50 ngàn đồng về mua sách và tặng cho những bằng hữu nghèo khó”.
Nhà thơ cho biết, số tiền 50 ngàn đồng tương đương 3 lượng vàng hồi ấy. “Chưa bao giờ tôi nhận một số tiền lớn như thế”.
Tình bạn của họ rất tự nhiên. “Một hôm tôi rủ Phạm Duy ra ngoại thành uống cà phê. Chúng tôi ngồi trên tàu hỏa xuống Thủ Đức. Phạm Duy rất khoái, ngồi chồm hổm trên ghế băng.Tôi mua lạc rang cho ông ấy ăn.
Phạm Duy nói: Lâu lắm mới được sống dân dã thế này, không gì thích bằng. Vừa dứt lời người ta nhận ra nhạc sĩ, kéo tới kín cả toa tàu, thế là ông Duy lại phải ngồi thẳng thớm và không dám ăn lạc rang nữa”.
Họ ra ngoại thành uống cà phê. “Phạm Duy nói ông ấy có vợ con rồi, nhiều người hâm mộ, nhưng luôn cảm thấy cô đơn. Bài hát viết nhiều, nổi tiếng đấy, nhưng lại chưa đạt được những gì mình muốn. Phạm Duy là người luôn cầu tiến”.
Phạm Thiên Thư là cư sĩ, có vài chút tình thoảng đưa. Phạm Duy khi ấy có nhiều người thích. Phạm Duy nói với Phạm Thiên Thư: “Họ hâm mộ tôi nhiều hơn là yêu tôi”.
Tháng 4 năm 1975, Phạm Duy đến gặp bạn: “Ông có muốn ra nước ngoài không, ngày mai có máy bay đưa đi”. “Tôi là người Việt Nam, không bao giờ đi đâu cả”.
Những năm 1990 Phạm Duy về thăm quê hương. Khi đó Phạm Thiên Thư đang trồng cây thuốc chữa bệnh ở trên rừng. Thi sĩ nói: “Tôi có thể làm cho ông một cái lán ở trong rừng với tôi” nhưng Phạm Duy không phải người thích ẩn dật.
Phạm Duy vẫn viết không ngừng và trăn trở về tác phẩm như những năm xưa. Phạm Thiên Thư nói: “Người ta ở đời thường muốn sống theo kiểu tiên hoặc kiểu thần. Sống kiểu tiên là ngao du, thỏa chí mình, không quan tâm đến sự đánh giá của thiên hạ. Sống kiểu thần thì muốn xông pha làm nên công trạng hiển hách. Phạm Duy là mẫu người thứ hai. Ông ấy không bao giờ bằng lòng với mình, suốt đời đau đáu. Và bao năm gặp lại ông ấy vẫn bảo: Càng ngày tôi càng thấy cô đơn hơn ông Thư ạ”.
Khoảng cách 20 tuổi không phải khoảng cách của hai thế hệ mà lại là sự cộng hưởng của hai tâm hồn tri kỷ dù quan niệm sống khác hẳn nhau.
Chẳng hạn năm 1975 Phạm Thiên Thư ở lại quê hương làm nghề cắt tóc trong hợp tác để sinh sống, Phạm Duy một lần nữa rời xa bạn bè thân thiết để ra đi với những dự định sáng tác.
Có lần Phạm Duy nói với người viết bài này rằng ông không chia sáng tác của mình ra các giai đoạn trong nước và hải ngoại, bởi ông chỉ có một con đường sáng tác duy nhất, có một thứ duy nhất đó là “âm nhạc Phạm Duy”. “Dù ở đâu, tôi cũng trung thành với bản thân”.
“Phạm Duy là người nổi tiếng nhưng ông sống dung dị, mối quan hệ trải rộng từ người nổi tiếng đến những người bình dân” - Phạm Thiên Thư nhận xét.
“Phạm Duy là nghệ sĩ cô đơn luôn cố gắng để khỏa lấp sự cô đơn nhưng không thể. Dường như cô đơn là phẩm chất của những nghệ sĩ lớn”- Phạm Thiên Thư bình luận.
Trần Nguyễn Anh
(Tiền Phong online)

Thứ Hai, 28 tháng 1, 2013

NHẠC SĨ PHẠM DUY

(Nguồn)

Âm nhạc của Phạm Duy làm cho người Việt gần nhau hơn
NGUYỄN VĂN TUẤN
Mới nhận được tin từ anh ĐH, phóng viên báo Thanh Niên, cho biết Nhạc sĩ Phạm Duy vừa qua đời vào lúc 14:30 tại phòng cấp cứu Bệnh viện 115. Ông thọ 93 tuổi. Thế là người nhạc sĩ thiên tài đã ra đi về cõi vĩnh hằng, tiếp theo những người bạn của ông như Văn Cao, Hữu Loan, Trịnh Công Sơn, Hoàng Cầm, v.v. Mới hôm nào mình chúc ông thọ 100 tuổi(tại đây), thế mà bây giờ thì, nói theo chính lời nhạc của ông, nghìn trùng xa cách, người đã đi rồi. Dù Phạm Duy đã tắt thở, nhưng âm nhạc của ông thì chưa tắt và sẽ không tắt, và do đó, ông chưa chết. Qua âm nhạc, Phạm Duy đã đóng góp một phần tích cực trong việc làm cho người Việt xích lại gần nhau hơn.
Tên người nhạc sĩ đại tài và những lời ca của ông đã đi vào tâm trí tôi từ hồi nào chẳng hay. Nhớ cách đây trên dưới 10 năm, phóng viên Trần Nguyên (lúc đó còn làm cho tạp chí Khám Phá) trong một lần phỏng vấn, hỏi tôi thích bài nhạc hay câu nhạc nào nhất, tôi nói ngay đó là bài Tình ca của Nhạc sĩ Phạm Duy, trong đó có câu Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, Tôi yêu bác nông phu đội sương nắng bên bờ ruộng sâu, và Tôi yêu đất nước tôi, nằm phơi phới bên bờ biển xanh. Viết ra một cách tự nhiên, không cần suy nghĩ gì cả. Thế mới biết có những câu hát đã đi vào máu xương mình hồi nào mà không hay.
Viết về Phạm Duy và nhạc của ông thì chắc phải cần đến nhiều luận án và nhiều sách. Trong 40 năm qua đã có nhiều tác giả, Việt Nam và nước ngoài, viết về sự nghiệp và những dòng nhạc của ông. Trung tâm nhạc Thuý Nga đã thực hiện hẳn hai chương trình nhạc chủ đề Phạm Duy, cũng là một cách vinh danh người nhạc sĩ số 1 của Việt Nam. Ở trong nước cũng đã có hàng loạt chương trình văn nghệ giới thiệu những tác phẩm của ông. Trong tương lai, chắc chắn sẽ có nhiều chuyên gia tiếp tục khai thác kho tàng nhạc của ông và cuộc đời đầy theo vận nước nổi trôi của ông.
Viết về Phạm Duy và nhạc của ông thì chắc phải cần đến nhiều luận án và nhiều sách. Trong 40 năm qua đã có nhiều tác giả, Việt Nam và nước ngoài, viết về sự nghiệp và những dòng nhạc của ông. Trung tâm nhạc Thuý Nga đã thực hiện hẳn hai chương trình nhạc chủ đề Phạm Duy, cũng là một cách vinh danh người nhạc sĩ số 1 của Việt Nam. Ở trong nước cũng đã có hàng loạt chương trình văn nghệ giới thiệu những tác phẩm của ông. Trong tương lai, chắc chắn sẽ có nhiều chuyên gia tiếp tục khai thác kho tàng nhạc của ông và cuộc đời đầy theo vận nước nổi trôi của ông.
Riêng tôi cũng có vài kỉ niệm nhỏ với ông. Năm 1997, trong một chuyến công tác bên Mĩ, một người bạn (anh NH) rủ tôi đến thăm ông ở Midway City, nơi mà ông gọi là “Thị trấn giữa đàng”. Lúc đó ông đang soạn trường ca minh hoạ Kiều. Ông nói một cách hào hứng về tác phẩm này, và hi vọng rằng ông sẽ phổ biến ở Việt Nam. Năm 2005, ông quyết định về sống bên Việt Nam. Thực ra, ông đã có ý định về sống bên nhà rất lâu rồi, chứ không phải chờ năm 2005 mới đi đến quyết định đó. Ông vẫn cho rằng ông phải ở Việt Nam mới có cảm hứng để sáng tác nhạc Việt Nam. Mười năm sau, trong một chuyến công tác bên nhà, tình cờ nói chuyện với một anh bạn là giám đốc bệnh viện tôi mới biết Nhạc sĩ Phạm Duy đang nằm điều trị trong bệnh viện của anh! Thế là chúng tôi kéo nhau đi thăm ông. Mười năm sau mà ông vẫn còn nhớ tôi. Hôm đó, ông rất vui vẻ khi có nhiều người đến viếng thăm. Ông còn chỉ một người đến thăm nói đùa rằng bà này là người tình của tôi! Ngay hôm đó, ông cũng có một người bác sĩ cá nhân chăm sóc cho ông khi về nhà.
Có thể nói không ngoa rằng tôi lớn lên cùng những ca khúc của Phạm Duy. Tôi đã "làm quen" với ông từ thời niên thiếu. Thời đó, những lúc đi picnic, chúng tôi thường có tập nhạc bìa màu xám, trong đó có nhiều bài dân ca hay mang âm hưởng dân ca. Một trong những bài tôi thích là Ngày trở về, vì trong ca khúc có đoạn nói về một người chiến sĩ bị thương về sống đời hoà bình. Đó là tình cảnh của Ba tôi, một người đã bỏ lại một cánh tay trong thời kháng chiến. Lớn lên thì bị cuốn hút theo những Bao giờ biết tương tư, Chỉ chừng đó thôi, Phượng yêu, Hạ hồng, Này cô em Bắc kì nho nhỏ, Nghìn trùng xa cách, Con đường tình ta đi, Nha trang ngày về, Paris có gì lạ không em, Đưa em tìm động hoa vàng,Nước mắt mùa thu, Giết người trong mộng, v.v. Lớn lên và biết chuyện "thời sự", tôi đam mê những bài Nhân danh, Bi hài kịch, Đi vào quê hương, Người lính trẻ, Bà mẹ phù sa, Áo anh sứt chỉ đường tà, Kỉ vật cho em, v.v. Đến thời trung niên tôi tìm về những ca khúc trong Đạo ca, và những bài bất hủ như Tình ca, Tình hoài hương, Bà mẹ quê, Bà mẹ Gio Linh. Ra hải ngoại thì nghe Tị nạn ca, Hoàng Cầm ca. "Ấn tượng" nhất là bài ông phổ thơ của Nguyễn Chí Thiện, trong đó có câu từ vượn lên người mất mấy triệu năm, nhưng từ người thành vượn chỉ vài ngày (tức cảnh tù nhân cải tạo).
Ngoài những bài mang tính thời sự, ông còn có nhiều bài tình tự quê hương mà ít người biết đến. Có bài Chiều về trên sông do Quỳnh Giao ca, tôi rất thích vì bài hát viết về cảnh sông nước miền Nam. Một bài khác cũng ít người biết là bài Tiếng hò miền Nam nhưng hình như chưa được phổ biến ở Việt Nam: Nhà Bè nước chẩy chia hai / Ai về Gia Định Đồng Nai thì về / Ai li hò lờ ! Ai li hò lờ ! / Ai nghe chăng tiếng hò bao la / Những tiếng lòng di cư vẫy vùng theo gió /  Ai nghe chăng tiếng người công phu / Biết tìm tự do tránh xa ngục tù. Nhạc của ông đủ thể loại cho mọi độ tuổi. Nhưng số lượng chẳng là gì; phải đọc những gì ông viết về nhạc và những câu chuyện đằng sau mỗi bài ca nổi tiếng mới cảm nhận cái tài của ông nhạc sĩ. Tôi có hẳn một thư viện nhạc của ông. Có thể nói không một ngày nào tôi không nghe nhạc của Phạm Duy. Không thể nào kể hết những ảnh hưởng của âm nhạc Phạm Duy đến đời sống tinh thần của cá nhân tôi. Bởi vậy, nghe tin ông qua đời tôi thấy như mình mất một điểm tựa.
Với tôi, Phạm Duy là một trong những nhạc sĩ số 1 của tân nhạc Việt Nam, một thiên tài về âm nhạc. Ông sáng tác hơn 1000 bài hát, một gia tài nghệ thuật đồ sộ ít ai sánh kịp. Không chỉ số lượng, mà còn phẩm chất âm nhạc của ông đáng để người đời sau chiêm nghiệm. Không như những nhạc sĩ khác, Phạm Duy sáng tác đủ thể loại: từ tình ca, thiếu nhi ca, đạo ca, tục ca, ngục ca, Hoàng Cầm ca, Bích Khê ca, Hàn Mặc Tử ca, đến những trường khúc để đời như Con Đường Cái Quan và Kiều. Hình như chưa có một nhạc sĩ Việt Nam nào có sức sáng tác “khủng” như ông. Cũng chưa có một nhạc sĩ nào có thể chuyển hoá hàng trăm bài thơ thành những ca khúc bất hủ. Thật vậy, có những bài thơ chẳng ai biết đến nhưng đến khi qua tay của phù thuỷ âm nhạc thì trở nên nổi tiếng và để đời, như Thuyền viễn xứKỉ vật cho em. Khả năng phổ thơ thành nhạc của Phạm Duy chỉ có thể nói là thần tài.
Tuy nhiên, không phải ai cũng ngưỡng mộ ông; có vài đồng nghiệp ông chẳng ưa gì ông. Những đồng nghiệp này viện dẫn việc ông dinh tê hay thời tị nạn bên Mĩ để làm lu mờ sự nghiệp âm nhạc của ông (một kiểu nguỵ biện bằng cách tấn công cá nhân và đời tư cá nhân). Nhớ có lần đọc bài của Nguyễn Lưu cáo buộc Nhạc sĩ Phạm Duy rằng bài Mùa thu chết là có hàm ý nói xấu Cách mạng tháng Tám. Đọc bài vu cáo này mà tôi cười ngất, vì cái kiểu vu khống rất bi hài và thô. Lại có một "nghệ sĩ nhân dân", một quan chức trong Hội Âm nhạc, và Nhạc sĩ Phạm Tuyên (con của cụ Phạm Quỳnh) lên báo có những nhận xét mang nhiều màu sắc chính trị. Họ so sánh dựa vào thành tích cách mạng ("Ông [tức Phạm Duy] không thể so sánh ông với bất cứ một nhạc sỹ nào đã tham gia cách mạng ... Ngay vấn đề đem âm nhạc phục vụ cho sự nghiệp cách mạng thì làm thế nào mà so sánh nổi với Văn Cao hay bất cứ một nhạc sỹ nào tham gia cách mạng") nhưng trớ trêu thay chính Văn Cao, người bị đày tơi bời đến cuối đời, cũng rất nể phục Phạm Duy. Họ hỏi "Khi chúng tôi đi đánh Mỹ giải phóng dân tộc thì ông làm gì?" Lại có những lời phát biểu rất phù hợp với tính đố kị, như "Nhưng gần đây, báo chí lại rộ lên về những chương trình của Phạm Duy." Nhưng công chúng, chứ không phải những quan chức văn nghệ, mới là người phán xét tốt nhất, và chúng ta đã thấy công chúng Việt Nam đối xử với Phạm Duy như thế nào. Một trăm năm sau có ai còn nhớ đến tác phẩm tuyên truyền của các vị quan văn nghệ trên, nhưng chắc chắn người ta sẽ không ngừng ca những bài của Phạm Duy (và của Văn Cao và Trịnh Công Sơn).
Nhưng cái tài và âm nhạc của Phạm Duy còn cảm hoá cả những người không hẳn cùng chính kiến với ông. Cách đây vài năm, trong một lần nói chuyện với một giáo sư y khoa ở Hà Nội, người từng là đồng chí của ông trong thời kháng chiến nhưng không hài lòng về việc Phạm Duy “dinh tê”, vị giáo sư này đưa ra một nhận xét đơn giản: đó là một thiên tài. Vị giáo sư đó còn nói thêm rằng âm nhạc của Phạm Duy là một tài sản của văn hoá Việt Nam. Những người không hâm mộ cá nhân Phạm Duy cũng vẫn công nhận ông là một nhạc sĩ thuộc hạng số 1, và đã có những đóng góp mang tính thiết lập nền tảng cho tân nhạc Việt Nam.
Tôi nghĩ vị giáo sư trên nói không quá đáng chút nào. Nhạc Phạm Duy đi cùng năm tháng với vận nước. Trong một lần trả lời phỏng vấn đài RFA, ông nói rằng “Tôi đưa ra một câu nói thôi: ‘Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi’ đất nước bơ vơ, nó rối bù đi thì tôi phải khóc thôi. Lúc nào mà đoàn kết thì tôi cười theo. Khóc cười theo mệnh nước. Cái xã hội mình nó rối tung lên như vậy thì làm sao mà mình …. thành thử tôi nghĩ rằng vấn đề là … Các anh yêu tôi thì nói là tôi có sự nghiệp hơi đầy đủ, hơi lớn một tí đấy, nhưng mà riêng tôi thì tôi thấy cho đến giờ phút này thì tôi hoàn toàn thất bại. Bởi vì đất nước đã thống nhất rồi mà lòng người thì không thống nhất, thành thử đại khái nếu mà tôi có chết đi thì tôi hãy còn gần như là tôi không được thỏa mãn.” Bởi thế, trong những năm cuối đời, ông hay quan tâm đến vấn đề hoà hợp hoà giải dân tộc, bởi ông từng nói rằng đất nước đã thống nhất nhưng lòng người thì chưa.
Chuyện hoà hợp hoà giải dân tộc cũng là vấn đề thời sự hiện nay. Theo ông, âm nhạc là một phương tiện để làm cho người Việt xích lại gần nhau sau thời chiến, và ông đã thể hiện điều đó. Thế nhưng trớ trêu thay sau 1975 thì nhạc của ông bị cấm đoán, thậm chí nhiều sách nhạc còn bị đem đi đốt. Mãi đến nay, dù ông đã về quê và tham gia biểu diễn nghệ thuật trong nước, mà số tác phẩm của ông được bổ biến một cách nhỏ giọt. Có một bài mà tôi nghĩ rất đáng làm ca khúc của dân tộc, đó là bài Việt Nam – Việt Nam với những lời ca kiêu hùng nhưng cũng dễ làm người Việt xúc động:
Việt Nam Việt Nam nghe từ vào đời
Việt Nam hai câu nói trên vành môi
Việt Nam nước tôi 
Việt Nam Việt Nam tên gọi là người
Việt Nam hai câu nói sau cùng khi lìa đời
Việt Nam đây miền xanh tươi
Việt Nam đem vào sông núi
Tự do công bình bác ái muôn đời
Việt Nam không đòi xương máu
Việt Nam kêu gọi thương nhau
Việt Nam đi xây đắp yên vui dài lâu
Việt Nam trên đường tương lai,
Lửa thiêng soi toàn thế giới
Việt Nam ta nguyện tranh đấu cho đời
Tình yêu đây là khí giới,
Tình thương đem về muôn nơi
Việt Nam đây tiếng nói đi xây tình người
Việt Nam Việt Nam
Việt Nam quê hương đất nước sáng ngời
Việt Nam Việt Nam muôn đời 
  Bất cứ người Việt có chính kiến gì hay ở chiến tuyến nào cũng có thể xích lại gần nhau hơn khi cất tiếng ca lên bài hát đó. Khi được Mặc Lâm của RFA hỏi về bài này, ông giải thích: “Anh nhớ lại từng chữ từng câu trong bài ‘Việt Nam! Việt Nam!’. Tại sao đầu đề lại hai chữ ‘Việt Nam! Việt Nam!’? Bởi vì nước Việt Nam mình bị chia làm hai, thành hai thứ ‘Việt Nam – Việt Nam’. Bây giờ chỉ có một Việt Nam thôi thì tốt hơn. Trong khi đó tôi xưng tụng một nước Việt Nam như vậy, trong đó thì ‘tình yêu đây là khí giới’ mà, hai bên vẫn còn nghi kỵ nhau, vẫn chưa bắt tay nhau. Thành thử vấn đề là lòng người chưa thống nhất mà đất nước thống nhất rồi.”
Phạm Duy cũng quan tâm đến vai trò của nghệ thuật và tôn giáo trong quá trình hoà giải dân tộc. Trong một lần trả lời phỏng vấn trên Thuý Nga Paris by Night, ông phát biểu rằng chỉ có tôn giáo và nghệ thuật mới cứu vãn dân tộc ra khỏi tình trạng bế tắc hiện nay. Nói như anh bạn tôi, Hoàng Nguyên Nhuận, rằng “Tôn giáo và nghệ thuật không cướp chính quyền lịch sử. Tôn giáo và nghệ thuật chỉ hóa giải những cuồng vọng lịch sử, tạo những nhịp cầu chuyển hoá cho hận thù thành yêu thương, ngộ nhận thành thông cảm, tác hại thành xây dựng, xa cách thành cận kề. […] Nhưng tôn giáo cũng có thể là cái thắng của lịch sử, cũng như nghệ thuật vẫn có thể là yếu tố thức tỉnh những mê mờ cuồng vọng của ý thức hệ bất cứ màu sắc nào. Phải chăng với ý nghĩa đó mà Phạm Duy đã nghĩ rằng tôn giáo và nghệ thuật phải giữ vai trò tích cực trong việc tái dựng quê hương đổ nát cùng quẩn?” Những ca khúc tự tình dân tộc, ngợi ca quê hương, Đạo ca của Phạm Duy đã thật sự giúp người Việt Nam gần nhau hơn, và đó cũng chính là một cách hoà giải hoà hợp dân tộc.
Vĩnh biệt người nhạc sĩ tài hoa đã làm cho cuộc sống của tôi (và nhiều triệu người Việt Nam) phong phú hơn. Xin có lời thành thật chia buồn cùng gia đình của Nhạc sĩ.
N.V.T
Nhạc sĩ Phạm Duy thời tham gia kháng chiến

Nhạc sĩ Phạm Duy và Nhà thơ Hữu Loan (Phạm Duy phổ bài thơ Màu tím hoa sim thành bài nhạc Áo anh sứt chỉ đường tà bất hủ).
 
Nhạc sĩ Phạm Duy và Nhà thơ Hoàng Cầm (hai người là bạn thân thời kháng chiến). Phạm Duy từng nói ông học lòng yêu nước từ Hoàng Cầm. Phạm Duy phổ 10 bài thơ của Hoàng Cầm, trong đó có bài Tình cầm mà tôi rất thích.  Bài Tình cầm có những câu tôi nằm lòng (khi nghe Duy Quang ca lần đầu): Nếu anh còn trẻ như năm cũ / Quyết đón em về sống với anh /  Những khi chiều vàng phơ phất đến / Anh đàn em hát níu xuân xanh.

Nhạc sĩ Phạm Duy trên giường bệnh những ngày cuối đời (nguồn: phamhongphuoc.net)
Sau đây là vài bài viết về Phạm Duy do tôi tuyển chọn trong ngày 28/1/2013:
Đây là bài viết của anh bạn tôi (Dr Nikonian). Anh gọi Phạm Duy là người-hoạ-hình-đất-nước. Hay!
(tại đây)
  Người họa hình đất nước
Nhìn dưới góc độ âm nhạc, cuộc di dân của hơn 1 triệu đồng bào người Bắc vào Nam năm 1954 quả là vĩ đại và đầy cứu rỗi. Nhất là khi thương xót nhìn lại sự khốn cùng, nhàu nát của những cây đại thụ như Văn Cao, Hữu Loan, Hoàng Cầm, Lê Đạt,…
Trong bối cảnh khắc nghiệt và lạnh lẽo thời ấy, những đấng bậc tài hoa đó đã chẳng thể nào phát tiết được toàn bộ tinh anh như đồng bạn may mắn của họ đã vào được miền Nam nắng ấm. Ít nhất, cuộc di dân năm 1954 đã mang lại con đường sống và sáng tạo cho rất nhiều bậc kỳ tài miền Bắc, trong đó có Phạm Duy, người vừa tạ thế hôm nay.
Khác với loại âm nhạc khiên cưỡng, đến với người nghe bằng áp đặt hay tuyên truyền, tình yêu đối với âm nhạc của Phạm Duy là tự nguyện, nhưng không và bất cần mọi ý luận cao xa nào về nhạc thuật. Như với tôi, một chú nhỏ hồi đó đã cùng hát “Việt Nam kêu gọi thương nhau, Việt Nam đi xây đắp tương lai dài lâu” trong những buổi sinh hoạt Hướng Đạo, trong những ngày đi cứu trợ nạn nhân chiến cuộc… Hành khúc đẹp đẽ và bi tráng ấy, không có máu lệ của chiến tranh, không có chỗ cho lòng căm thù hay cổ súy nồi da xáo thịt. Và nghe đâu, đã có dự tính được làm quốc ca của Việt Nam Cộng Hòa thay cho “Tiếng gọi thanh niên” của Lưu Hữu Phước.
Lựa chọn ấy, 10.000 năm sau vẫn đúng, tôi tin là thế!
Âm nhạc ấy, cũng đến với tuổi thơ của tôi một cách nhẹ nhõm, không cần ai giải thích, lý luận, tuyên truyền. Âm nhạc của Phạm Duy, cũng sống cái đời sống của gia đình tôi hồi đó.. Khi cha mẹ tôi thỉnh thoảng lại ngân nga: “quê hương tôi, có con sông đào xinh xắn, nước tuôn trên đồng vuông vắn…” Ca khúc này, hình như là nhạc hiệu của chương trình “Người cày có ruộng” trên radio thời đó. Cũng như “Tôi yêu tiếng nước tôi, từ khi mới ra đời”, đã từng là nhạc hiệu của Đài Phát thanh Sài gòn, thủ đô Việt Nam Cộng Hòa lúc ấy.
Ký ức tôi, đã thấm đẫm những giai điệu thiết tha đó từ chiếc radio cũ kỹ của gia đình. Âm nhạc ấy, đã là một phần đời sống của gia đình tôi, cũng như với rất nhiều gia đình miền Nam khác. Từ âm nhạc ấy, từ những lời ru của mẹ tôi “từ lúc nằm nôi”, tôi biết yêu nước Việt chỉ bằng trái tim con trẻ, và phi bè phái.
Bao nhiêu năm bị cấm đoán, phải chui rúc trùm mền áp tai vào radio để nghe lén mỗi đêm, âm nhạc ấy không chết. Ít nhất, nó vẫn còn sống mãi trong tôi trong một chiều dừng chân ở Đoan Hùng, Phú Thọ. Tôi đã đi, đã đến vùng trung du ấy, và đã nghe lại “Nương chiều” của ông:
“Chiều ơi, chiều về rợp bóng nương khoai
Trâu bò về dục mõ xa xôi
Chiều ơi Chiều ơi
Áo chàm về quảy lúa trên vai
In hình vào sương núi chơi vơi,
ơi chiều”…
Và đã chảy nước mắt vì thương xót quê hương nghèo khó của mình vô hạn!
Chỉ phút chốc thôi, mà cả ký ức tuổi thơ hiện về…
Với rất nhiều người Sài Gòn, âm nhạc Phạm Duy là nỗi nostalgia hay hoài niệm về một quá khứ rất đẹp đã mất. Có kẻ đang yêu nào thời ấy mà đã không từng một lần lẩm bẩm một ca khúc thời danh về một “con đường Duy Tân, cây dài bóng mát”, thương nhớ quay quắt những “chủ nhật uyên ương, hẹn hò đây đó; Uống ly chanh đường, uống môi em ngọt”
Nhiều lắm những tình ca của Phạm Duy, viết trong bối cảnh của Sài Gòn hoa mộng thuở ấy, đã nằm sâu trong ký ức máu thịt của rất nhiều người Sài Gòn, trong đó có tôi.
Tưởng rằng đã quên, nhưng khi tóc đã hoa râm, kẻ chơi piano tài tử rất đỗi vụng về, khi ngồi lên đàn khẽ bấm những giai điệu ấy mới thấy hết sự trác tuyệt của nó. Nó là hòa âm cực kỳ sang trọng, tiết tấu tao nhã và đầy chất hàn lâm của âm nhạc cổ điển. Nó là sự sáng tạo vô đối các điệu thức ngũ cung hay các giai điệu đong đưa của đồng bào Tây nguyên. Người ta có thể không thấy, không hiểu điều đó khi ê a “phố núi cao, phố núi đầy sương, phố núi không xa, trời thấp thật gần…”, vì nó đã tự nhiên, nhẹ nhõm như mọi tình ca của mọi thời đại. Nhưng khi “thấy” nó một cách hình học trên bàn phím piano, biến tấu đầy sáng tạo từ các điệu thức dân gian đó mới hiện rõ, long lanh hết vẻ đẹp vô song của nó…
Người Kinh, hay người Thượng, đã yêu mến và nhìn nhận những giai điệu ấy. Vì ai cũng thấy mình trong đó!
Thật bất lực khi viết về một di sản âm nhạc lớn lao kinh khủng như vậy. Tôi đồ rằng, âm nhạc đó, xứng đáng với một khoa học mới, khoa Phạm Duy học. Khoa học này, là một mỏ vàng cho vô số luận án tiến sĩ âm nhạc để nghiên cứu về ca từ, nhạc thuật, hòa âm…
Âm nhạc ấy đã sống mãi với người nghe của nó mà không cần bất cứ thứ license thô thiển nào. Thật lạ lùng khi thấy những kẻ hậu sinh bất tài, lâu lâu lại quăng ra dăm quyết định cho phép ca khúc này, ca khúc nọ của Phạm Duy. Như thể không có giấy phép ấy, thì kẻ hậu sinh là tôi không thể, không được phép yêu mến âm nhạc ấy. Như thể nếu không được phép, thì âm nhạc ấy không hay, không đưa được dân tộc tính trong âm nhạc đến hai thái cực là tính đại chúng và tầm nhân loại.
Âm nhạc nào dung hòa được hai điều tưởng như xa nhưng rất gần gũi ấy, âm nhạc ấy xứng đáng được gọi là một mặc khải vĩ đại (mượn từ của Beethoven). Vì âm nhạc ấy mang khuôn mặt Con Người, bất kể không gian, thời gian, nơi chốn. Như “The rain on the leaf” (Giọt mưa trên lá) đã từng vang lên bằng Anh ngữ trong campus Đại học Mỹ. Như “Việt Nam, Việt Nam” đã bật ra từ lồng ngực của những người Sài Gòn trong những ngày biểu tình chống Trung Quốc.
Nhưng dẫu sao, “giấy phép” cũng cần! Nó là cơ hội để những kẻ bất tài đầy mặc cảm chứng tỏ sự bao dung và thái độ bề trên của mình, như cách ông “Nghệ sĩ nhân dân” Trọng Bằng mắng mỏ:
“Bàn đến Phạm Duy những người chân chính ở Việt Nam đã biết cả rồi, biết Phạm Duy như thế nào trong quá khứ, Phạm Duy có cái gì tốt, cái gì chưa tốt, bản chất của Phạm Duy và giá trị thật âm nhạc của anh người nghe đều hiểu cả. Sự trở về của Phạm Duy là sự ưu ái của Đảng và Nhà nước, sự rộng lượng của nhân dân ta, nên đừng đặt mình ở vị trí cao, cứ nên im lặng mà làm việc thôi. Có những tác phẩm anh sáng tác đầu kháng chiển rất tốt, bây giờ Cục biểu diễn người ta khuyến khích cho phép anh trở về biểu diễn, thì cứ thế mà cống hiến thôi. Dư luận chúng ta hơi dễ dãi và nhẹ dạ. Nhưng vấn đề là Phạm Duy phải tỉnh táo. Vì ông hoàn toàn hiểu ông là ai, quá khứ đối với dân tộc của Phạm Duy là một tội lỗi. Ông không thể so sánh ông với bất cứ một nhạc sỹ nào đã tham gia cách mạng, vì thế ông không thể nào so sánh với nhạc sỹ Văn Cao. Không thể ví được. Văn Cao là một con người có trình độ, là một nhà nghiên cứu dân tộc, ông Văn Cao là một người toàn diện, và ông Văn Cao còn biết tôn trọng những người nhạc sỹ đàn em đi vào con đường âm nhạc bác học, một người rất khiêm nhường biết mình, biết ta. Giả sử có một nhạc sỹ X, Y, Z nào đó hỏi: Khi chúng tôi đi đánh Mỹ giải phóng dân tộc thì ông làm gì? Chắc chắn rằng nếu là người hiểu biết đều hiểu rõ khi đó ông là tác giả của các bài hát chống lại cách mạng, chống lại nhân dân, chống lại công cuộc giải phóng dân tộc…”.
Mà thôi, hôm nay Con Người ra đi, âm nhạc thì ở lại!
Hậu thế sẽ gọi Phạm Duy, người vừa nằm xuống hôm nay, là ai?
Tác giả của những ca khúc đầy tình tự quê hương
Người đưa ngũ cung và dân nhạc vào tình ca.
Kẻ đã viết những dòng nhạt nhẽo, tục tằn… bậc nhất thiên hạ.
Người có đời sống phóng túng, cũng vào bậc nhất thiên hạ.
….
Tôi gọi Ông là: Người-Họa-Hình-Đất-Nước!
Vì cái lòng thương yêu đất nước trong tôi, phần nhiều đã được nuôi dưỡng từ những bức tranh thủy mặc bằng âm nhạc ấy!
Bài dưới đây phỏng vấn nhạc sĩ Phạm Duy vào những ngày cuối đời. Hoá ra, ông cũng có cùng ý với tôi: ông không chết!  (tại đây)
"Ca sĩ còn hát nhạc của tôi nghĩa là tôi còn sống"
Nhạc sĩ Phạm Duy, người vừa đi về miền miên viễn, từng chia sẻ như vậy với VietNamNet nhân dịp chương trình “Điều còn mãi 2012” của báo trình diễn nhạc phẩm “Tình ca” của ông vào đúng ngày Quốc khánh.
Vào thời điểm ấy, sức khỏe ông đã xuống rất nhanh, khiến ông phải ngồi xe lăn, ăn uống khó khăn. Ông gần như thức trắng đêm và chỉ ngủ được vài tiếng vào ban ngày. Ngày bình thường của ông trôi qua trong căn nhà im vắng ở lưng chừng một con hẻm đường Lê Đại Hành. Căn nhà ấy thường chỉ đông vui vào cuối tuần khi con cháu, dâu rể về thăm hỏi, ăn uống.
Ấy vậy mà, khi thần sắc đã trở nên mệt mỏi vì tuổi già, ông vẫn miệt mài sáng tác, và khoe với người viết ông vừa hoàn thành 10 ca khúc phổ thơ của thi sĩ Bích Khê. “Nếu được theo đúng thuyết nhà Phật, người ta ăn ở đức độ thì sẽ được tái sinh. Và nếu có sự tái sinh thì tôi sẽ không thích tái sinh nữa đâu. Bởi vì mệt quá rồi. Các nhạc sĩ ở đây sướng lắm, không ai mệt như tôi cả, không ai đi nhiều, hát nhiều và sáng tác nhiều như tôi cả. Khổ tâm lắm”, ông nói với phóng viên VietNamNet.
- Thưa ông, vậy hẳn là ông đã viết di chúc. Cháu xin mạn phép được tò mò, điều gì làm ông tâm tư nhất trong bản di chúc ạ?
Sự thực thì càng nhiều con bao nhiêu, người ta càng lo bấy nhiêu. Sự nghiệp của tôi để lại cũng nhiều. Tôi không chia cho ai cả. Tôi giao cho người con thứ hai của tôi, là đứa có hiếu nhất. Nó có bổn phận là chia cho các anh em. Như vậy thì đỡ rắc rối.
- Vậy còn đám tang, ông có tâm nguyện gì về đám tang của mình?
Tôi sợ nhất là vấn đề đó. Đám tang của tôi rùm beng là tôi ghét lắm. Tôi muốn đốt cùng với xác mẹ. Cùng lắm đưa đi một cái chùa nào đó, (trong) một hai bình tro gì đó. Kinh nghiệm như nhà lưu niệm của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đến thì thấy vắng tanh như chùa bà đanh. Ca sĩ còn hát nhạc của tôi, nghĩa là tôi còn sống.
- Ở tuổi xưa nay hiếm thế này, ông có còn cảm thấy mình mắc nợ gì với cuộc đời không?
Nợ thì nhiều. Tôi tự thấy mình đã sống bừa bãi. Cách nay 10 năm thì tôi ổn định một tí. Còn trước kia tôi liều lắm, tôi làm những chuyện mà người ta không dám làm. Tôi lao vào những trò chơi làm ảnh hưởng đến tiếng tăm của mình. Tôi hối hận lắm nhưng đành chịu thôi. Tôi mong người ta đừng nghĩ nhiều về những hành động đó, mà nhìn vào những bản nhạc của tôi. Còn nói về người ngoan thì tôi không phải là người ngoan.
- Cuộc đời đưa ông dường như luôn đứng trước những sự kiện phải chọn lựa giằng xé giữa hai thái cực, vậy có khi nào ông phải trả giá?
Trả giá ghê lắm chứ, nếu tôi đừng bỏ nước ra đi thì chắc tôi vẫn còn 3 căn nhà trị giá 3 triệu USD. Còn 8 đứa con như vậy, gọi là để lại một gia tài thực sự thì ít nhất cũng phải 3 cái nhà chứ. Đó là một cái nhỏ thôi đấy. Còn những cái khác nữa. Trường hợp yêu người này mà không yêu người nọ cũng là một vấn đề nữa. Rắc rối lắm (cười).
 Và hôm nay, sau nhiều năm ở hải ngoại, ông đã trở về và đã an nghỉ trên đất mẹ, khép lại trăm năm nhỏ bé và bộn bề như lời ông đã viết trong “Hẹn em năm 2000”. Ông nói ông không phải là người theo lý tưởng sống để mà đi. Thế nên, những năm xứ người là những năm ông đau đáu ngày về.
“Tôi là người Việt Nam thì tôi phải sống chết với nước Việt Nam chứ. Khi qua hải ngoại được vài năm, tôi đã viết bài “Rồi đây anh sẽ đưa em về nhà”. Nhưng lúc đó tôi không thể về nhà được ngay, đợi đến ba mươi mấy năm thì mới về được. Cả một đời người rồi còn gì”, ông nói.
Minh Chánh
Một bài viết về mẹ qua âm nhạc Phạm Duy.   (tại đây)
(tại đây)
(tại đây nữa)
(tại đây nữa)
Mẹ trong tâm thức Việt
SGTT Xuân - Sự nghiệp âm nhạc của Phạm Duy diệu vợi, bởi luôn ẩn chứa hình bóng của những người phụ nữ. Thế nhưng, không chỉ là yêu đương, những câu chuyện về Mẹ luôn là một trong những đỉnh cao âm nhạc của ông.
Mẹ của Phạm Duy có muôn mặt, muôn trạng thái. Nhưng luôn có chung một điều khắc khoải, đó là chờ đợi và lặng lẽ.
Mỗi một nhạc sĩ luôn có cho mình một vài hình ảnh xuất sắc của mẹ. Y Vân có Lòng mẹ, Trịnh Công Sơn có Người mẹ Ô Lý, Nhị Hà có Mẹ tôi… Nhưng với Phạm Duy, mẹ là một câu chuyện kể dọc theo đường đất nước. Mẹ có thể rất trẻ hoặc đã già nua, có thể là một biểu tượng sáng loà hay là điều bí mật mang theo suốt cả đời người. Là điều nhỏ nhất và cũng có thể là cả tổ quốc. Mẹ như cỏ dại và như đất trời. Là Đức Maria, Quán Thế Âm, và là bất kỳ người đàn bà vô danh nào đó trên cõi Việt.
Nghe những giai điệu về mẹ của Phạm Duy, có lúc mà đau quặn lòng. Những bài hát về mẹ của ông có một quyền năng kỳ lạ đánh thức tim người, nhắc khẽ tâm thức Việt Nam, thân phận Việt Nam.
Mẹ trong âm nhạc của Phạm Duy khác thường. Với nhiều nhạc sĩ khác, âm nhạc có mẹ là tạo hình để thương cảm, để chia sẻ. Còn khi đến mẹ của Phạm Duy, người nghe tự thấy mình nhỏ bé, tự thấy mình còn phải mang một niềm ơn.
Và với Phạm Duy, hàng loạt những ca khúc lừng danh về mẹ vẫn chưa đủ trong sự vinh danh mà ông mong muốn. Phạm Duy cũng là nhạc sĩ duy nhất có tập trường ca về mẹ, với 22 chương, hơn 2.000 ca từ. Trường ca Mẹ Việt Nam được coi như một tuyệt tác, tạm tổng kết mọi giá trị mà ông muốn diễn đạt về hình ảnh của mẹ Việt.
Nói về trường ca Mẹ Việt Nam, hay là nói về hình ảnh người mẹ (1992), nhà văn Đặng Tiến viết rằng: "Đó là tổng hợp tất cả tình cảm của Phạm Duy đối với quê hương và những trầm luân của mệnh nước nổi trôi qua hình ảnh người mẹ, đồng thời cũng diễn tả trọn vẹn ơn sâu nghĩa nặng của cuộc đời đối với chúng ta. Gọi là mẹ Việt Nam vì một cách nói, chứ mẹ là nguồn vốn không có quốc tịch. Mẹ là sông – ta có chữ "sông cái" là sông mẹ – mẹ là Biển Hồ lai láng, mẹ là trùng dương.
Nghe lại Mẹ Việt Nam, trở lại mẹ hiền, là về lại yêu thương, về lại cội nguồn, về lại bản thân".
Còn với nhà phê bình âm nhạc người Canada – Georges Etienne Gauthier thì "Mẹ Việt Nam vẫn là bản liên hợp đẹp đẽ và lớn lao nhất của Phạm Duy từ trước đến nay. Hiếm khi trong tác phẩm của ông mà kỹ thuật và xúc cảm, lý trí và tình cảm lại hoà hợp trong một vẻ vĩ đại và toàn hảo vững vàng được như trong bản Mẹ Việt Nam" (bài nhận định viết năm 1972).
Nói về mẹ, để thấy riêng chủ đề này, Phạm Duy đã hoàn thành cả một công trình, gom góp mọi cảm giác trên cuộc đời mà ông đi qua để giữ lại cho hậu thế.
Phạm Duy vượt lên vai trò của một nghệ sĩ bình thường khi ông ngẩn ngơ và dự báo những điều sẽ tới. Có thể đó là một nỗi buồn của thế kỷ mai sau:
"Mẹ bây giờ lạc loài trên thế giới
Việt Nam là gì, giảng nghĩa cho coi
Mẹ quên tiếng nói, tên họ đổi thay
Cuối thế kỷ này, Mẹ sẽ hai mươi..."
Phụ nữ Việt Nam lấy chồng nước ngoài mỗi ngày một nhiều hơn, những người Việt phải xa xứ và phôi pha dần những điều quen thuộc của giống nòi. Trong căn phòng nhỏ, có một người nhạc sĩ già cặm cụi viết lời hát của mình vào không trung với nỗi niềm tuyệt vọng. Nhưng đâu đó, ông vẫn gieo hy vọng:
"Nhờ trong quá khứ, có mẹ lên ngôi
Thắm thiết tình người, gửi tới nhân loại..."
Mẹ đang đi vào cuộc đời đang tới
Mẹ đang đi vào thế kỷ ngày mai"
(Mẹ năm 2000)
Năm 2006, trong một lần trò chuyện, nhạc sĩ Lê Hựu Hà nói rằng dù là sống với dòng nhạc trẻ, nhưng ông vẫn chịu ảnh hưởng rất nhiều từ cảm từ và tinh thần âm nhạc của nhạc sĩ Phạm Duy. "Nghe nhạc Phạm Duy, mình thấy thương người Việt hơn, thương nước Việt hơn", Lê Hựu Hà nói.
Nhưng không phải ai cũng có thể hát được Phạm Duy với một tâm thức Việt, ngay cả với ca sĩ chuyên nghiệp cũng vậy. Ca sĩ Thái Thanh nói bà sợ phải trình bày ca khúc Bà mẹ Gio Linh, vì lần nào hát bà cũng khóc.
Trong một lần trả lời phỏng vấn đài RFI vào năm 2001, Phạm Duy nói rằng ông nằm trằn trọc trên chiếc giường tre ở chiến khu và viết một mạch bài hát này. Ông kể rằng khi viết xong, đọc lại, ông đã khóc: "Viết xong tôi khóc. Tôi nhớ hoài, tôi khóc như một đứa con nít".
Nghe những giai điệu về Mẹ của Phạm Duy, có lúc mà đau quặn lòng. Những bài hát về Mẹ của ông có một quyền năng kỳ lạ đánh thức tim người, nhắc khẽ tâm thức Việt Nam, thân phận Việt Nam.
Bài hát Bà mẹ Gio Linh hay Giọt mưa trên lá, với những hình ảnh được kể lại đều đặn, như những nhịp đóng vào trái tim, khiến ai mang một tâm thức Việt đều cảm thấy nhói đau và lặng người. Cái tài của Phạm Duy không chỉ là âm nhạc, ông vẽ lại lịch sử những bà mẹ Việt Nam, như đã nói, là sự khắc khoải, lặng lẽ và chờ đợi.
Quả có một cái gì đó là sự chờ đợi ở hình ảnh những bà mẹ Việt Nam trong âm nhạc Phạm Duy. Nhưng chờ đợi điều gì thì không rõ nét, vô vọng lẫn hy vọng... và đó luôn là điểm xoáy vào trái tim của người nghe, thổn thức đến tận cùng.
Mẹ đi đâu, bao nhiêu năm nữa, tâm tính mẹ Việt vẫn là vậy, là chắt chiu và chờ đợi, lặng lẽ. Ngay từ ngày đầu mà ông đã nhìn thấy: "Bà mẹ quê, ngày tháng không mơ ước gì, nhỏ giọt mồ hôi vì đời trẻ vui..." (Bà mẹ quê).
Và ngay trong mùa xuân, mọi vật ngơi nghỉ, mẹ vẫn chắt chiu trong cõi riêng đời mình, mơ đến những điều bình thường mà vĩ đại: "Trời không mưa gió, mẹ bế con thơ, con bú say sưa..." (Xuân thì).
Trong nhạc tập của người Việt, âm nhạc của Phạm Duy như những điều đơn giản, dễ dàng đi nhẹ vào lòng người, nhưng thấm sâu hơn cả những bài luân lý ngày thường. Để kết, xin được mượn lời nhà văn Đặng Tiến, rằng: "Vài ba câu hát ấy đã vận dụng, chuyển hoá không biết bao nhiêu là cổ tích, ca dao, văn thơ cổ điển, phong tục tập quán Việt Nam. Nhạc Phạm Duy gây chấn động trong ta và sau đó còn lưu lại nhiều tiếng ngân dài như những "giọt mưa trên lá’’ làm sống lại những chồi dân tộc, những mầm nhân đạo có sẵn trong ta. Càng xa nước, ta lại cần nguồn, cần nghĩa mẹ, như nước trong nguồn chảy ra. Mát ngọt, trong trẻo và vô tận".
TUẤN KHANH

Bài của Trần Mạnh Hảo, có nhiều tư liệu đáng để biết. (tại đây)
Phạm Duy còn đó nỗi buồn
Trần Mạnh Hảo
Phạm Duy “còn đó…muôn đời”
“Thơ hay có thể bị vua bắt
Trăng nhé nghìn đêm bạc tiếng gà”
(Trích bài thơ “LÝ BẠCH” của Trần Mạnh Hảo)
Chúng tôi (TMH) xin mượn tên cuốn sách: “Phạm Duy” còn đó nỗi buồn” của họa sĩ, nhà văn Tạ Tỵ làm tiêu đề cho bài viết về nhạc sĩ Phạm Duy của mình.
Phạm Duy - (từng là ca sĩ, nhạc sĩ nổi tiếng nhất của nền tân nhạc Việt Nam, từng là giáo sư dạy trường Quốc gia âm nhạc Sài Gòn, một nhà nghiên cứu âm nhạc xuất sắc, một nhà văn, nhà báo có phong cách riêng khi viết báo, viết hồi ký) - kể từ bài hát đầu tiên phổ thơ Nguyễn Bính, bài “Cô hái mơ” viết năm 1942 đến nay, đã có hàng mấy trăm bài hát (có người còn cho ông đã viết đến con số trên dưới 1000 bài?) làm xúc động lòng người Việt Nam suốt hơn 70 năm nay. Phạm Duy không chỉ là một hiện tượng âm nhạc vắt qua hai thế kỷ; hơn nữa, ông còn là một hiện tượng xã hội, một hiện tượng văn hóa, một hiện tượng lịch sử, cần phải có nhiều nhà Phạm Duy học mai sau nghiên cứu về ông.
Thuở nhỏ, thời kháng chiến chống Pháp, kẻ viết bài này từng nghe bà mẹ mình - một người hát thánh ca trong ban Ca vịnh nhà thờ - từng dùng nhạc Phạm Duy ru con. Những lời ca, giai điệu Phạm Duy đã thấm vào hồn tôi từ thơ bé qua tiếng hát ru của mẹ như bài “Nương chiều”:
Chiều ơi, lúc chiều về rợp bóng nương khoai, trâu bò về giục mõ xa xôi, ơi chiều…Chiều ơi, áo chàm về quảy lúa trên vai, in hình vào sườn núi chơi với, ới chiều…”
Bài “Nhạc tuổi xanh”:
…“Rừng ta ta cứ đi, nhà ta ta cứ xây, ruộng ta ta cứ cày…Diệt xong quân Pháp kia cười vang ta hát câu tự do…”
Thỉnh thoảng, khi buồn vui, mẹ tôi lại khe khẽ hát mấy bài Phạm Duy viết trong kháng chiến chống Pháp, ví như : “Cây đàn bỏ quên”, “Khối tình Trương Chi”, “Bên cầu biên giới”, “Tiếng đàn tôi”, “ Mười hai lời ru”…
Những bài hát của Phạm Duy, của Văn Cao (trước 1945) của mẹ tôi được chép trên giấy học trò; có khi là những bản chép nguyên cả khuôn nhạc in bột trên giấy bản nhầu nát; có khi, bố tôi (một người hát nhạc nhà thờ trong ban Ca vịnh biết chơi đàn và biết xướng âm bản nhạc) phải dùng hộp bao diêm làm dụng cụ kẻ nhạc, đặng chép lại bản nhạc cho rõ ràng giúp mẹ tôi…
Cải cách ruộng đất, gia đình tôi bị quy lên địa chủ, các bản nhạc chép tay kia của Phạm Duy, Văn Cao… đều bị mất. Nhưng mẹ tôi thi thoảng buồn, lại ngồi một mình khe khẽ hát nhạc Phạm Duy, Văn Cao, Đỗ Nhuận... Những bản nhạc tuyệt vời của Phạm Duy, Văn Cao, Đặng Thế Phong, Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh, Lê Yên, Văn Chung, Doãn Mẫn, Canh Thân, Đoàn Chuẩn, Việt Lang, Hoàng Qúy, Tô Vũ, Hoàng Giác…bị quy là nhạc vàng, nhạc phản động, đồi trụy, bị cấm.
Tôi thường sang nhà người bà con hàng xóm, cùng với ông em họ (lớn tuổi hơn tôi) tên là chú Bá, ghé tai vào cái radio hiệu Siêng Mao nghe đài Sài Gòn phát nhạc vàng thời tiền chiến, mặt lấm la lấm lét như hai tên ăn trộm…Một hôm chú Bá vừa đi đường vừa nghêu ngao bài “Nhớ Chiến khu” của Đỗ Nhuận (thực ra bài này chính là bài nhạc cách mạng, nhưng âm giai buồn buồn da diết giọng nhạc vàng của “Suối mơ”, “Bến Xuân”…) nên Bá bị công an xã bắt, quy lên hát nhạc vàng của bọn Mỹ Diệm phát ra từ cái radio phản động…Chiếc radio Siêng Mao của Bá bị công an xã tịch thu…
Từ đó, suốt tuổi thơ, tôi không còn được nghe những giai điệu tiền chiến bất hủ kia nữa. Cho mãi tới sau này, khi ở trong rừng miền Nam, trở thành một nhà báo và mua được cái radio bé tí, tôi lại tiếp tục được nghe (lén) nhạc Phạm Duy, Trịnh Công Sơn, Phạm Đình Chương, Cung Tiến…dưới hầm hào bom đạn…
Ngày 30/4/1975, từ rừng Lộc Ninh về Sài Gòn, chưa kịp hoàn hồn, tôi đã bị Sài Gòn đánh chiếm bằng văn hóa, bằng văn học, bằng sách vở, âm nhạc. Phạm Duy và Trịnh Công Sơn đã tái chiếm tâm hồn tôi; và hình như tôi, đã tự nguyện quy hàng thứ âm nhạc, thứ văn học, văn hóa mà chế độ mới đang kết án, cho là văn hóa phản động, đồi trụy. Các loại sách dịch gần như vô tận của Sài Gòn còn sót lại sau đại họa đốt sách của chế độ mới đã xâm lược đầu óc tôi, giải phóng tôi thoát khỏi ngục tù của dốt nát, của u mê, của cuồng tín ngớ ngẩn một thời, “bắt” tôi vào trường tự nguyện “học tập cải tạo” đến giờ chưa chịu thả ra…
May mắn thay, đầu tháng 5/1975, anh Trịnh Công Sơn đã cho tôi và Trần Nhật Thu mượn cái máy nghe nhạc cũ kỹ mà anh không còn dùng tới. Suốt mấy tháng trời, các kiệt tác âm nhạc của bên thua trận như Phạm Duy, Trịnh Công Sơn, các bài hát tuyệt vời của Phạm Đình Chương, Cung Tiến, Văn Phụng, Hoàng Trọng, Phạm Thế Mỹ, Tuấn Khanh, Hoàng Thi Thơ, Lam Phương, Trần Thiện Thanh, Y Vân, Ngô Thụy Miên, Từ Công Phụng, Vũ Thành An, Lê Uyên Phương, Trần Trịnh, Phạm Mạnh Cương, Trường Sa, Anh Bằng, Khánh Băng, Nguyễn Ánh 9, Nguyễn Trung Cang, Lê Trọng Nguyễn, Hoàng Nguyên, Văn Giảng, Đan Thọ, Vũ Đức Sao Biển, Nguyễn Văn Đông, Nguyễn Đức Quang…qua tiếng hát của các danh ca : Thái Thanh, Lệ Thu, Khánh Ly, Hà Thanh, Thanh Lan, Duy Trác, Sĩ Phú, Anh Khoa, Elvis Phương… đã bắt sống tâm hồn tôi làm tù binh, cùng với thơ Nguyên Sa, thơ Nhã Ca, văn Võ Phiến, Mai Thảo, Phan Nhật Nam, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam…nhốt thế giới tinh thần tôi vào trang sách, vào khuôn nhạc khóa sol năm dòng kẻ của họ và “lưu đày” tâm hồn tôi lại mãi với những bài ca đích thực con người…
Tôi yêu các nhạc sĩ có một bài hát bất hủ để đời, ví như: “Xuân và tuổi trẻ” (La Hối phổ thơ Thế Lữ), “Cô láng giềng” của Hoàng Qúy, “Em đến thăm anh một chiều mưa” của Tô Vũ, “Biệt ly” của Doãn Mẫn, “Giáo đường im bóng” của Nguyễn Thiện Tơ, “Hướng về Hà Nội” của Hoàng Dương, “Nắng chiều” của Lê Trọng Nguyễn, “Ai lên xứ hoa đào” của Hoàng Nguyên, “Trăng mờ bên suối” của Lê Mộng Hoàng, “Chiều tím” của Đan Thọ, “Ai về sông Tương” của Văn Giảng, “Thu ca” của Phạm Mạnh Cương, “Sang ngang” của Đỗ Lễ, “Thương nhau ngày mưa” của Nguyễn Trung Cang, “Thu hát cho người” của Vũ Đức Sao Biển, “Tôi đưa em sang sông” của Nhật Ngân và Y Vũ…
Huống hồ, với thiên tài Phạm Duy đã có hàng mấy chục bài hát bất hủ để đời, trong đó có đến vài chục bài thuộc hàng kiệt tác, thì tôi càng kính phục ông hơn, yêu mến ông biết là chừng nào. Chính vì vậy, ngay từ khi chưa biết chữ, nghe mẹ tôi hát nhạc Phạm Duy, đôi tai tôi đã bị ông này lấy mất, để rồi ông thả tâm hồn tôi suốt hơn sáu mươi năm nay lang thang cùng nỗi “khóc cười theo vận nước nổi trôi” của Phạm tiên sinh.
Chúng tôi xin phép kể ra các ca khúc tuyệt vời và rất hay của nhạc sĩ Phạm Duy mà cá nhân tôi yêu thích, đã góp phần làm thay đổi cuộc đời tôi:
“Nương chiều”, “Tình ca”, "Nhạc tuổi xanh", “Bên cầu biên giới”, “Ngậm ngùi”, “Áo anh sứt chỉ đường tà”, Ngày trở về, Mùa thu chết, Thuyền viễn xứ, Bà mẹ Gio Linh, Về miền Trung, Bà mẹ quê, Cây đàn bỏ quên, Nghìn trùng xa cách, Việt nam Việt nam, Bên ni bên nớ, Còn chút gì để nhớ, Nha trang ngày về, Đưa em tìm động hoa vàng, Kỷ niệm, Ngày xưa Hoàng thị, Giọt mưa trên lá, Tình hoài hương, Tiếng đàn tôi, Đố ai, Tiếng sáo thiên thai, Nụ tầm xuân, Rồi đây anh sẽ đưa em về nhà, Cành hoa trắng, Cô gái Bắc kỳ nho nhỏ, Thương tình ca, Thà như giọt mưa, Cỏ hồng, Người về, Đường em đi, Chuyện tình buồn, Nhớ người thương binh, Con đường tình ta đi, Ông trăng xuống chơi, Chiến sĩ vô danh, Tuổi ngọc, Phượng yêu, Còn gì nữa đâu, Thương ai nhớ ai, Gọi em là đóa hoa sầu, Em đi lễ chùa này, Ngày đó chúng mình, Tìm nhau, Kiếp nào có yêu nhau, Yêu là chết ở trong lòng, Khối tình Trương Chi, Tóc mai sợi vắn sợi dài, Nước mắt mùa thu, Chiều về trên sông, Tôi đang mơ giấc mộng dài, Hẹn hò, Nước mắt rơi, Kỷ vật cho em, Tiễn em, Trả lại em yêu, Chủ nhật buồn, Vết thù trên lưng ngựa hoang, Ta yêu em lầm lỡ, Giết người trong mộng, Bao giờ biết tương tư, Em hiền như Masoeur, Đừng nhìn nhau nữa em ơi, Nước non ngàn dặm ra đi, Ai đi trên dặm đường trường, Gió đưa cành trúc la đà, Con đường cái quan ….
Những kiệt tác ca, tuyệt tình ca trên gồm đủ thể loại ca nhạc như cách mạng ca, sơn hà ca, quê hương ca, tình ái ca, tâm tư ca, trường ca, rong ca, đạo ca, thiền ca, tâm ca, tâm phẫn ca, tục ca, vỉa hè ca, thiên địa ca, vô thường ca, hư vô ca, nhật nguyệt ca, vũ trụ ca, sầu mộng ca, hoan lạc ca, Phật ca, Chúa ca, quỷ ca, Càn khôn ca, Ta bà ca, Lão Trang ca, Thần tiên ca, sinh diệt ca, liêu trai ca, mộ địa ca, hú hồn ca, yêu tinh ca, du mục ca, tang bồng ca, ma xó ca, ngật ngưỡng ca, túy lúy ca, siêu hình ca, vô ngôn ca…
Phạm Duy còn có đóng góp lớn là món NGOẠI CA, tức công việc chuyển ngữ cho các kiệt tác âm nhạc nước ngoài vào thị hiếu âm nhạc Việt Nam mà khi hát lên, nhiều người vẫn cho là ca khúc Phạm Duy…
Những tuyệt tác ngoại quốc được Phạm Duy chuyển ngữ và chỉnh sửa, phỏng lời, hoặc nắn lại nốt nhạc cho hợp tai người Việt Nam gồm : Ave Maria, Mối tình xa xưa, Dòng sông xanh, Khúc hát thanh xuân, Chiều tà, Dạ khúc, Trở về mái nhà xưa, Mơ màng, Ánh đèn màu, Vũ nữ thân gầy, Tình vui, Chuyện tình, Em đẹp nhất đêm nay, Cánh buồm xa xưa, Giàn thiên lý đã xa, Vai áo màu xanh, Hận tình trong mưa, Nắng thu, Bài ca ngợi tình yêu, Emmanuelle, Himalaya, Hờn ghen, Khi xưa ta bé, Không cần nói anh yêu, Khúc hát thanh xuân, Lại gần hôn em, Nắng xuân, Ngày tân hôn, Người yêu nếu ra đi, Biết ra sao ngày sau, Tình yêu ôi tình yêu, Vĩnh biệt người tình, Vĩnh biệt tình ta….
Thật không thể nào tin được, một ông Phạm Duy bằng xương bằng thịt lại có thể viết được ngần ấy bài tuyệt tình ca hay đến thế, mê hoặc hồn người Việt Nam đến thế. Có cảm giác chỉ một mình Phạm Duy đã là cả một thời đại tân nhạc Việt Nam. Có cảm giác trong người ông Phạm Duy còn giấu ẩn cả trăm nghìn người khác; hoặc trong thân xác ông còn giấu cả trăm nghìn bộ óc khác, trăm nghìn trái tim khác; trong hồn ông còn giấu trăm nghìn hồn khác; trong đôi tai ông còn giấu trăm nghìn đôi tai khác. Cho nên ông mới đủ sức làm ra một gia tài âm nhạc vô cùng đồ sộ, với một chất lượng không thể nào tưởng tượng ra được, rằng đây là sản phẩm của chỉ một con người?
Khi nghe tin nhạc sĩ Phạm Duy bước vào tuổi 93 đang lâm trọng bệnh, tôi ngồi trong nhà, một mình tha thẩn ngoài sân nghe lại một cách hệ thống mấy chục album nhạc Phạm Duy trên Internet suốt cả nửa tháng trời mà lấy làm vô cùng thán phục ông. Hình như ông Phạm Duy chính là lò sản xuất ma xó vào loại lớn nhất thế giới? Trong mỗi bài hát, chừng như Phạm Duy đều gài vào năm dòng kẻ nhạc khóa sol của ông một con ma xó, hầu hớp hồn người nghe?
Tôi đồ rằng tâm hồn ông Phạm Duy có chứa một cái dạ dày (tất nhiên là dạ dày tinh thần) to bằng cả bầu trời? Quái kiệt giời sai xuống trần gian có tên là Phạm Duy có cái dạ dày tâm hồn biết tiêu hóa muôn muôn sự vật, từ sự vật thể chất đến sự vật tinh thần, rồi biến chúng thành giai điệu, thành lời ca. Không có cái gì chúng ta nhìn thấy, cảm thấy, mơ thấy, sờ thấy, ngửi thấy, nghe thấy, mơ thấy mà không có trong âm nhạc Phạm Duy. Từ góc sân nhà nơi ta lẫm chẫm tập đi, tập nhìn, tập nghe, tập khóc, tập cười, tập bú mớm, tập ăn, tập uống, tập làm người, thảy thảy đều có trong âm nhạc Phạm Duy.
Con sâu cái kiến, con giun, con dế, con chuồn chuồn, con chim, con cá, con kênh, con sông, con bê, con nghé, con mèo, con chó, con lợn , con gà, con voi, con vịt, con đom đóm, con người…đều hốt nhiên tìm đến năm dòng kẻ nhạc, năm đại lộ Phạm Duy mà leo, mà bò, đi lại, chạy, chảy, bay, bơi trong âm nhạc Phạm Duy…Cái cây, cái cối, cái chày, cái thằng con nít, cái nồi, cái niêu, cái chum, cái vại, cái nhà, cái xe, cái mâm, cái chết, cái sống, cái hư vô, cái thực tại, cái vô thường, cái hữu hạn, cái vô vi, cái sinh diệt, cái ác, cái thiện, cái tốt, cái xấu, cái sai, cái đúng, cái đẹp, cái thoáng chốc, cái muôn đời, cái đểu, cái chân, cái mê, cái tỉnh, cái giả, cái buồn, cái vui, cái bất tử, cái siêu hình, cái yoni (cái l…) cái Linga (cái c…), cái vợ, cái con, cái váy, cái khăn, cái nón, cái mồm, cái tay, cái chân, cái tóc, cái lông, cái dại, cái khôn, cái mùi, cái mát, cái tai, cái âm dương, cái phồn thực, cái mất, cái còn…đều được cái dạ dày âm nhạc khủng long của Phạm Duy tiêu hóa mà biến thành muôn vàn âm giai, muôn vàn làn điệu, muôn vàn lời ca ma ám, ám lấy hồn người?
Phạm Duy, ông có phải là thượng đế của âm giai, phù thủy của khóa sol, ma xó của bảy thanh âm: đồ rê mi pha sol la xi, thần linh của tiết tấu, quỷ sứ của nhịp điệu, con ma của ngôn từ…hay không mà hàng trăm bản nhạc của ông không hề bị hội chứng đều đều, lặp lại (monotone) trêu chọc, phá đám?
Phạm Duy, có phải ngay từ trong bụng mẹ, máu Sông Hồng đã ngấm vào máu ông, hồn cốt Thăng Long trong ca dao, dân ca, Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm khúc, thơ Hồ Xuân Hương, thơ Nguyễn Trãi, thơ thiền Lý Trần cùng với heo may Hồ Gươm, mưa phùn Hồ Tây, gió bấc Kinh Bắc, hương cốm mùa thu chim ngói Mễ Trì, thoang thoảng hương hoa các làng hoa Ngọc hà, Nghi tàm, Nhật tân, Quảng bá ngát hơi xuân…đã làm nên máu thịt hồn ông? Nên đất ấy, hồ ấy, thu ấy, khí thiêng ấy, chim ấy, thơ văn ấy, gió bấc ấy, hương hoa ấy, làn điệu chèo ấy, quan họ ấy… đã mượn hồn ông mà hát lên cõi u u đất trời, hát lên nỗi lòng con người buồn vui khóc cười xứ Bắc?
Từ tấm bé, qua gia đình, cha mẹ, qua khí trời bàng bạc thu Hà thành, qua sách vở nhà trường, qua nỗi mơ hồ thiên địa, Phạm Duy đã tắm mình trong tâm hồn dân tộc. Từ năm 1947, ông đã có một định hướng nghệ thuật hết sức đúng đắn : để cả cuộc đời nghiên cứu dân ca, ca dao, tiếp thu tinh hoa âm nhạc dân tộc, phát triển và nâng cao chúng để kết hợp với nhạc Tây phương vừa du nhập vào nước ta qua nhạc nhà thờ, qua các bản giao hưởng cổ điển trong đĩa nhạc, các ca khúc Pháp, Ý… tân thời hát trong tiệm nhảy, quán café được thanh niên trí thức Hà thành học đòi bắt chước…
Có thể nói, Phạm Duy là nhạc sĩ đầu tiên đã nghiên cứu âm nhạc dân tộc một cách hệ thống, rốt ráo, đã học tập, tiếp thu tinh hoa cha ông trong nhạc ngũ cung, nâng cao lên để kết hợp với trào lưu “âm nhạc cải cách” (musicque renovée) thời 1938-1945 mà thành phong cách phi phong cách (một phong cách đa phong cách không dừng lại ở một air nhạc nào) có tên là phong cách Phạm Duy, khiến người nghe nhạc ông không hề cảm thấy sự nhàm chán …
Phạm Duy, ông không phải là tháp Bayon bốn mặt của đền đài Angkor Thom, Angkor Wat xứ Chùa Tháp. Nhưng ông chính là tháp Bayon muôn mặt của dòng tân nhạc Việt Nam suốt 70 năm qua. Gương mặt tâm hồn ông, gương mặt âm nhạc ông quả là muôn mặt: mặt dịu hiền, mặt thiết tha êm đềm êm ái, mặt tinh khiết, mặt tươi như mặt thiếu phụ đêm xuân yêu chồng, mặt cau có đau khổ như mặt gã trai thất tình, mặt quằn quại, mặt vò xé tang thương, mặt mê ly khoái lạc, mặt dúm dó nhàu nát, mặt thất thần, mặt điêu linh, mặt lênh đênh phiêu bạt, mặt thất sắc vô hồn, mặt hoen rỉ tối tăm, mặt hư vô hư ảnh, mặt nết đa đoan trang, mặt đĩ thõa, mặt giập nát, mặt sáng bừng như trăng, mặt hoa da phấn, mặt ngây ngô, mặt tiếu lâm, mặt hồng diện đa dâm thủy, mặt nạ người, mặt yêu tinh, mặt nạ dòng vớ được giai tơ, mặt hoài nghi khôn xiết, mặt thăm thẳm vực sâu, mặt buồn đêm ngơ ngác…Tất cả muôn mặt đó họp chợ lại thành gương mặt Phạm Duy - một mình làm cả một nền âm nhạc…He he he he…
Đi tận cùng tâm hồn dân tộc, Phạm Duy đã gặp tinh hoa thế giới và trở thành hiện đại bằng sự sáng tạo mang chất thiên tài của mình.
Xin quý bạn đọc nghe vài người khác nói về nhạc sĩ Phạm Duy:
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý: “Trong ‘gia tài’ của Phạm Duy, có những tác phẩm mà qua lăng kính của mình ông đã nói lên những triết lý sâu sắc. Chẳng hạn như ‘Nghìn trùng xa cách, người đã đi rồi. Còn gì đâu nữa mà khóc với cười’… Công tâm mà nói, trong kho tàng âm nhạc Việt Nam, Phạm Duy là một nhạc sĩ có nhiều tác phẩm để đời và mãi mãi còn trong lòng người Việt Nam qua nhiều thế hệ”. (Trong bài viết Phạm Duy, người bạn, người anh, người thầy của tôi).
Nhạc sĩ Lê Uyên Phương: “Như tiếng chuông vọng đến từ hư vô. Như những tia chớp sáng ngời trong đêm tối. Như những tia nắng ấm đầu tiên của một ngày trong mùa Đông giá lạnh. Như những tia nắng chiều rực rỡ của một ngày đầy vui buồn của kiếp sống. Âm nhạc Phạm Duy đã đến trong mỗi cuộc đời Việt Nam như không khí trong bầu khí quyển của ca dao, tục ngữ, của truyện Kiều, của Cung Oán Ngâm Khúc, của Chinh Phụ Ngâm, của ngôn ngữ, của âm thanh, của cảm xúc Việt Nam. Trong đáy lòng của mỗi người Việt Nam, từ đã từng là một thiếu niên trong thời kháng chiến hay đến hôm nay là một thanh niên ở cuối thế kỷ 20, đều mang một dấu vết nào đó còn sót lại của bầu dưỡng khí đã nuôi lớn tâm hồn họ trong gần nửa thế kỷ này” (Trích bài viết Phạm Duy, nắng chiều rực rỡ)
Thi sĩ Nguyên Sa: ‘Hôm nay, có những người thích Rong Ca, có những người mê Bầy Chim Bỏ Xứ, có những người ngất ngây với Hoàng Cầm Ca, có những tín đồ của Thiền Ca. Có những người yêu Phạm Duy của new age, của nhạc giao hưởng, của mini opera và của thánh ca hơn Phạm Duy của Tình ca, Phạm Duy của dân ca, Phạm Duy của Kháng chiến ca, Phạm Duy của thơ phổ nhạc. Và ngược lại, có những người, với họ, chỉ có Phạm Duy của Tình ca mới là Phạm Duy. Chỉ có Phạm Duy Kháng Chiến Ca. Chỉ có Phạm Duy thơ phổ nhạc. Chỉ có Phạm Duy, chỉ có Phạm Duỵ... Nhưng đó, bạn thích Phạm Duy nào, tùy bạn. Cũng vậy thôi, viên kim cương có một ngàn mặt. Khác biệt với tấm gương chỉ có một mặt. Cho nên phải chọn lựa, phải bàn cãi, phải bất đồng, phải suối ngàn đầu, sông trăm nhánh chảy về vĩnh viễn một đại dương”.
 Nhạc sĩ Phạm Duy với Hộ khẩu & Chứng minh nhân dân
Nhạc sĩ Phạm Duy, tên thật là Phạm Duy Cẩn, sinh ngày 5/10/1921 tại Hà Nội trong một gia đình văn nghiệp. Cha là Phạm Duy Tốn thường được xem như nhà văn xã hội đầu tiên của nền Văn học Mới hồi đầu thế kỷ 20. Anh là Phạm Duy Khiêm, giáo sư thạc sĩ, cựu Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Pháp, văn sĩ Pháp văn, tác giả những cuốn Légendes des terres sereines, Nam et Sylvie, De Hanoi à Lacourtine...
Cuộc đời của ông ngoài việc ca hát, sáng tác nhạc còn có giai đoạn thi vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông dương, học thầy Tô Ngọc Vân, và cùng chung lớp với Bùi Xuân Phái, Võ Lăng... Năm 1942 ông có sáng tác đầu tay Cô hái mơ. Năm 1944, ông thành ca sĩ hát tân nhạc trong gánh hát cải lương Đức Huy – Charlot Miều.
Bạn muốn biết thêm về tiểu sử nhạc sĩ Phạm Duy, chỉ cần vào trang tìm kiếm www.google.com đánh hai từ Phạm Duy là từ điển mạng (Wikipedia) sẽ cung cấp đủ cho bạn. Cũng như vậy, bạn vào trang tìm kiếm trên, đánh từ khóa: Album nhạc Phạm Duy là có thể nghe được ngót trăm Album nhạc của ông người trời họ Phạm…
Ngày 14/8/1999 tại nhà riêng, thị trấn Midway City, miền Nam California, danh ca Thái Hằng, hiền thê của nhạc sĩ Phạm Duy đã từ trần, hưởng thọ 72 tuổi (1927-1999), bỏ lại trên trần gian một người chồng tưởng nghiêng trời lệch đất, tưởng như một con khủng long âm nhạc lừng lững trần ai, bỗng giờ đây bị nỗi cô đơn khủng khiếp đến rợn người úp chụp lên đầu như trời sập. Chính từ nỗi cô đơn đến tuyệt vọng vì sự ra đi của người bạn đời mà ý định “cóc chết ba năm quay đầu về núi”, tức về hẳn Việt Nam sống nơi Phạm Duy hình thành. Sau một lần về nước thử xem một ông già từng chống cộng, nay chỉ thích chống gậy (!) coi cộng sản có còn thích bắt nhốt mình hay nữa không như hồi năm 1975? Nói dại, nếu hồi ấy ông không lẹ chân di tản, lỡ kẹt lại, Phạm Duy có thể phải ở tù cho tới chết. Năm 2005 Phạm Duy về nước sống thật, quyết định ở luôn quê hương cho đến khi ông xanh gọi về với tổ tiên.
Lập tức Phạm Duy bị một số báo chí hải ngoại cực đoan (chống cộng bằng chính phương pháp chụp mũ chính trị kiểu cộng sản) ném đá tơi bời hoa lá. Họ dùng tất cả sự tục tằn, thô bỉ, thậm chí dùng cả cứt đái của toàn nhân loại đổ chụp lên đầu một ông già thân cô thế cô, một mình hồi hương về cố quốc để sống nốt những ngày tàn và để chết. Họ gọi ông bằng thằng, bằng mày, bằng chó ghẻ, bằng quân nọ, quân kia. Họ cho ông ăn tất cả món dơ bẩn nhất trần đời. Rằng, làm như tất cả tội lỗi của cộng sản đều do Phạm Duy gây ra. Rằng, làm như Phạm Duy chính là thằng già đã mang tà thuyết về làm hại dân tộc, đất nước vậy …
Phạm Duy vốn là một tay chơi, một bố già đanh đá có hạng, một người nếu cần cũng mồm loa mép giải như ai, cũng anh chị Cầu Muối như ai, cũng có thể chơi cả đòn đầu đường xó chợ dao búa (dao búa kiểu chữ nghĩa, dao búa tượng trưng) xem có chết ai nào, có mà còn khuya mới bắt nạt được bố nhá! Phạm Duy một mình lủi thủi, túc tắc “bút chiến” với cái đám vong thân chính trị ô hợp, một trăm ông chống cộng đều chống nhau kia bằng chiến trường Internet. Trong cuộc chiến muôn chống lại một này, chữ nghĩa trên màn hình vi tính của hai bên đều a-la-sô xung phong ồ ạt, để lại từng đống xác chữ chết như ngả rạ trên chiến trường ảo điện báo.
Phạm Duy dùng chiếc que bông phèng cà rỡn chọc vào tổ ong vò vẽ hải ngoại: này các con giời kia, các con đã mấy chục năm nghe nhạc chùa của bố không phải trả tiền, nay còn tính ăn thịt bố chỉ còn xương bọc da nữa hay sao? Rằng, bố làm nhạc khi toàn ngồi trên bệ xí nhà vệ sinh đấy, nhạc của bố đôi khi cũng bốc mùi tí ti, sao các con chỉ cảm thấy thơm điếc mũi thế hả? (Chuyện này thì thiên tài Alb. Einstein đã từng tuyên bố: tôi nghĩ ra thuyết tương đối khi ngồi trong toilet đấy!). Thế là đám kẻ thù của “thằng già lơ láo về hàng cộng sản” liền nhảy dựng lên kêu gọi, rằng ai có tro dùng tro, ai có trấu dùng trấu, ai có phân dùng phân, phen này quyết ném vào mặt thằng “dê già”, thằng “loạn luân” “ăn chè Nhà Bè” năm xưa toàn bộ tinh thần căm thù không đội trời chung của người quốc gia chân chính ha ha ha …
Họ thi nhau bịa chuyện bôi nhọ Phạm Duy, bới móc đời tư của ông rồi chửi rủa bằng những từ ngữ bẩn thỉu nhất, hè nhau quy chụp chính trị một ông già cô đơn muốn về quê cha đất tổ để chết. Riết rồi Phạm Duy cũng mệt, hơi đếch đâu mà cãi nhau với đám bùng nhùng ba bứa ấy? Nè, bố mượn phép thắng lợi tinh thần của chú AQ Lỗ Tấn mà tạm phán rằng: các “moa” chửi “toa” cũng như đang chửi bố các “moa” mà thôi…
Những người đồng hương tị nạn ném đá vào Phạm Duy qua biển Thái Bình Dương chung quy cũng chả làm cóc gì được ông, lại còn có khi bị khí chất đanh đá cá cày đáo để chua ngoa của “vũ khí mất gà” nơi ông chơi lại tóe khói chứ chẳng chơi. Nhưng khi những người anh em bên kia giới tuyến nơi cố quốc cũng nhạc sĩ như ai, cũng trí thức trí ngủ như ai thi nhau ném đá vào ông thì ông đành thở dài, im lặng chịu đau, giả mù, giả câm giả điếc để ngồi nghe nỗi đời nhiễu nhương ra đòn thù ghen ghét tài năng.
Ấy là vào năm 2005, sau khi về nước, Phạm Duy được công ty văn hóa tư nhân Phương Nam mua đứt bản quyền trọn đời âm nhạc, trả cho ông một số tiền thù lao kha khá là một căn nhà khang trang để ở và những đêm ca nhạc rầm rộ. Công ty Phương Nam độc quyền bán vé kinh doanh những đêm nhạc Phạm Duy, lời ăn lỗ chịu, tuyệt nhiên không có sự bù lỗ của nhà nước như khi các ông nhạc sĩ quốc doanh làm đêm nhạc dối già.
Công chúng náo nức đi nghe nhạc Phạm Duy đông chật các nhà hát, thậm chí không đủ vé bán, có người còn phải mua vé lậu, vé chui đắt gấp hai ba lần giá vé chính thức. Phạm Duy bị “vây giữa tình yêu” bởi lòng yêu mến của công chúng nơi cố quận với ông đã bị dồn nén mấy chục năm trời nay chợt bùng vỡ. Ông bị dìm đến có cơ ngạt thở trong những tràng pháo tay nổ rền như dàn sơn pháo đại hợp xướng Tân Tây lan chơi liên tù tì thời chiến tranh Việt Mỹ.
Thói đời, ma cũ bắt nạt ma mới, đám nhạc sĩ cây đa cây đề trong Hội nhạc sĩ Việt Nam thấy NGÀY TRỞ VỀ của Phạm Duy được công chúng đón rước rất huy hoàng, hoành tráng, có vẻ giống như dân Pháp xưa đón Nã Phá Luân chiến thắng từ châu Phi trở về… bèn nóng mặt, ghét cay ghét đắng mà hè nhau ném đá vào Phạm Duy, toàn những cục đá vu cáo chính trị to bằng nắm tay, có vẻ muốn khích nhà cầm quyền cấm tiệt nhạc Phạm Duy, hay giam lỏng ông cho nhạc cách mạng của các ông nhạc sĩ bất tài lên ngôi…
Mở màn chiến dịch ném đá Phạm Duy tại quốc nội, nhạc sĩ kiêm nhà báo Nguyễn Lưu (con trai nhân sĩ Nguyễn Xiển 1907-1997, từng là tổng thư ký đảng xã hội Việt Nam, phó chủ tịch ban thường vụ quốc hội Việt Nam) viết trên báo “Đầu tư” ngày 13-3-2006 bài: “Không thể tung hô” như sau:
Tôi muốn nói đến trường hợp của nhạc sĩ Phạm Duy, người mới được xưng tụng sau đêm nhạc "Ngày trở về" (diễn ra tại Nhà hát Hòa Bình, TP.HCM). Một người bạn, nhà văn Chu Lai đã tỏ ra tâm đắc với ý tưởng này và cho biết, Tạp chí Thế giới mới số mới nhất có đăng một bài viết, với nội dung gói gọn: "Một người từng bỏ kháng chiến theo thực dân Pháp, khi Pháp rút lại theo Ngô Đình Diệm và khi ngụy quyền sụp đổ lại chạy qua Mỹ. Và tại đó, đã viết hàng loạt bài kêu gọi chống Cộng, với giọng điệu “sặc mùi” hiếu chiến. Nay, thấy Việt Nam vươn lên mạnh mẽ, lại xin trở về! Hà cớ gì phải tung hô, xưng tụng đến như thế!".
Cũng trên bài báo này, nhạc sĩ Nguyễn Lưu quy chụp chính trị nhạc sĩ Phạm Duy bằng đòn vu khống chính trị bịa đặt trắng trợn như sau:
"Đỉnh cao" sự nghiệp chống Cộng của Phạm Duy là bài Mùa thu chết. Ở đó, tác giả đã công khai tư tưởng chống Cộng của mình. Ông ta đã từ bỏ tình yêu với Tổ quốc bằng một bút pháp thật sâu cay, đểu giả và ít ai quên cái mùa thu trong ca khúc ấy chính là Cách mạng mùa thu, là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. (Bài báo Không thể tung hô của tác giả Nguyễn Lưu đăng trên Báo Đầu tư ngày 13.3.2006)
Xin nhà báo nhạc sĩ Nguyễn Lưu coi lại xuất xứ bài hát này của nhạc sĩ Phạm Duy: “Mùa thu chết” rất nổi tiếng của nhạc sĩ Phạm Duy là phổ thơ của thi hào Pháp Apollinaire (1880-1918) . Bài thơ của Apollinaire chỉ có 5 câu, mang tựa đề L'Adieu (Vĩnh biệt), nguyên văn:
J'ai cueilli ce brin de bruyère
L'automne est morte souviens-t'en
Nous ne nous verrons plus sur terre
Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je t'attends
Tạm dịch:
Ta ngắt một cành thạch thảo 
Em hãy nhớ cho mùa thu đã chết rồi
Chúng ta không còn được nhìn nhau nữa trên đời
Mùi thời gian đẫm hương thạch thảo
Em hãy nhớ rằng ta vẫn chờ em
Căn cứ trên giấy trắng mực đen vừa dẫn trên, Nguyễn Lưu cần phải viết thêm một bài lên án chính tác giả bài thơ là thi hào Apollinaire - người đã mất từ năm 1918 – chính là người đã “chống cộng” vì dám bảo Mùa thu cách mạng tháng tám 1945 ĐÃ CHẾT, chứ nào phải Phạm Duy…Chưa từng thấy sự xuyên tạc văn bản nào trắng trợn và hèn hạ, dốt nát hơn sự xuyên tạc của ông Nguyễn Lưu với bài thơ phổ nhạc “Mùa thu chết” này…
Nguyễn Lưu còn kéo thêm các nhạc sĩ Nguyễn Đức Toàn, nhạc sĩ Tân Huyền vào băng nhóm ném đá Phạm Duy chỉ vì trò ghen tức, đố kị người tài năng hơn mình, khi thấy quần chúng bày tỏ lòng yêu thích nhạc Phạm Duy một cách cuồng nhiệt trong đêm nhạc “Ngày trở về” như đã nêu trên.
Ngay sau bài mở màn chiến dịch ném đá Phạm Duy của Hội nhạc sĩ Việt Nam do nhà báo nhạc sĩ Nguyễn Lưu làm tiên phong, đã đến lượt quân đỏ xuất tướng bằng bài viết “Nhạc Phạm Duy và những điều cần phải nói” của Khánh Thi trên tờ “An ninh thế giới” số tháng 4-2009 của Trung tướng công an Hữu Ước. Nhà báo Khánh Thy ghi lại sự phản ứng rất tức giận của ba nhạc sĩ cây đa cây đề trong nước, xin trích vài đoạn sau:
Nhạc sỹ - NSND Trọng Bằngnguyên tổng thư ký (tức chủ tịch) Hội nhạc sĩ Việt Nam
Tôi có đọc trên báo thấy có nhiều lời tâng bốc cũng hơi là lạ, không quen.
Dư luận chúng ta hơi dễ dãi và nhẹ dạ. Nhưng vấn đề là Phạm Duy phải tỉnh táo. Vì ông hoàn toàn hiểu ông là ai, quá khứ đối với dân tộc của Phạm Duy là một tội lỗi. Ông không thể so sánh ông với bất cứ một nhạc sỹ nào đã tham gia cách mạng, vì thế ông không thể nào so sánh với nhạc sỹ Văn Cao. Không thể ví được. Văn Cao là một con người có trình độ, là một nhà nghiên cứu dân tộc, ông Văn Cao là một người toàn diện, và ông Văn Cao còn biết tôn trọng những người nhạc sỹ đàn em đi vào con đường âm nhạc bác học, một người rất khiêm nhường biết mình, biết ta.
Giả sử có một nhạc sỹ X, Y, Z nào đó hỏi: Khi chúng tôi đi đánh Mỹ giải phóng dân tộc thì ông làm gì? Chắc chắn rằng nếu là người hiểu biết đều hiểu rõ khi đó ông là tác giả của các bài hát chống lại cách mạng, chống lại nhân dân, chống lại công cuộc giải phóng dân tộc.
NS Phạm Tuyên
Bởi lẽ tìm tòi trong âm nhạc của Phạm Duy cũng chỉ có hạn thôi, trong khi đó tìm tòi về mặt sáng tạo âm nhạc ở trong nước ta có rất nhiều tài năng, nhiều khả năng.
Ngay vấn đề đem âm nhạc phục vụ cho sự nghiệp cách mạng thì làm thế nào mà so sánh nổi với Văn Cao hay bất cứ một nhạc sỹ nào tham gia cách mạng. Sự đóng góp của nhạc sỹ Văn Cao rất phong phú, bây giờ được ghi nhận là người có đóng góp lớn cho đất nước và âm nhạc Việt Nam.
Tôi chỉ có một suy nghĩ nhỏ, chúng ta chúc cho ngày trở về của nhạc sỹ Phạm Duy là một sự trở về của lá rụng về cội. Còn đánh giá về con người, nhất là đánh giá về tác phẩm thì phải rất thận trọng, công bằng và đúng bản chất, một phần nào đó phải có giới hạn. Đừng chạy theo thị hiếu, theo cơ chế thị trường mà quá đề cao sự đóng góp của nhạc sỹ Phạm Duy, như vậy mới xứng đáng với lịch sử, với những người đã đổ máu xương cho đất nước, cho dân tộc được có ngày hôm nay.
NS Hồng Đăng
Nhưng gần đây, báo chí lại rộ lên về những chương trình của Phạm Duy. Tôi cũng nghe rất nhiều người phàn nàn là tác phẩm của Phạm Duy như thế mà báo chí tâng bốc, đề cao đến mức y như là nhân vật số một của âm nhạc Việt Nam hiện nay, và là người nhạc sỹ kỳ tài. Điều ấy là vô lý, như thế không đúng, huống gì lại xem như người có công lớn (?!).
So sánh một cách thẳng thắn, những bài hát của Phạm Duy có một vài bài công chúng thích và không phải bài nào công chúng cũng thích.
Trong lúc ấy chúng ta có những tên tuổi lừng lẫy từ Đỗ Nhuận, Văn Cao, Lê Yên, Nguyễn Đức Toàn, Huy Du, Hoàng Vân, Lưu Hữu Phước, Nguyễn Xuân Khoát, và còn rất nhiều người khác đã gắn bó với những ngày gian khổ, thiếu thốn cùng cực của đất nước chỉ để góp một chút gì của mình cho cuộc chiến tranh vệ quốc.
Từ ngày anh đi, anh Duy ạ, nền âm nhạc của chúng ta đã khác trước nhiều lắm. Từ một đội ngũ thưa thớt thời của anh, giờ đây không biết bao nhiêu tên tuổi nổi lên một cách xứng đáng, có hiểu biết, có tìm tòi, khác xa thời anh bỏ khu III, khu IV mà đi. Tất nhiên anh Phạm Duy có thể kiêu một tý cũng chẳng sao, (thói thường mà)! Nhưng những người hướng dẫn dư luận có lẽ nên nghĩ kỹ một tí, để khách quan hơn, công bằng hơn. Còn riêng một chi tiết nhỏ về chuyên môn: Các anh em nhạc sỹ sau này khai thác dân ca vào sáng tác mới giỏi hơn anh nhiều lắm.
Khánh Thy
Nguồn: An ninh thế giới
Thiết nghĩ, những phát biểu, những phản ứng đầy ghen tức, đố kỵ rất cảm tính, thiếu lý tính của ba nhạc sĩ trên sau đêm nhạc rất huy hoàng của nhạc sĩ Phạm Duy diễn ra trong nhà hát lớn Hà Nội cuối tháng 3/2009, sẽ mãi mãi là vết nhọ trên gương mặt âm nhạc của ba vị này, không cách gì gột sạch.
Điều tôi băn khoăn là sao nhạc sĩ Phạm Tuyên (con út cụ thượng Phạm Quỳnh, người từng bị Việt Minh thủ tiêu sau Cách mạng tháng tám 1945) một người điềm đạm, chín chắn, một trí thức con dòng cháu giống, danh gia vọng tộc, sao lại đi phát ngôn những lời ghen ăn tức ở, ganh tài lộ liễu hơi bị tầm thường với nhạc sĩ Phạm Duy thế? Xưa nay, tôi từng quý mến anh Phạm Tuyên (người đã phổ nhạc bài thơ thiếu nhi “Mèo đi guốc” của tôi, cũng như nhạc sĩ Nguyễn Lưu, người cũng đã từng phổ nhạc bài thơ Kôn Tum của tôi tức TMH)
Chính ra, nhạc sĩ Phạm Tuyên - người có nhiều nét tương đồng hoàn cảnh với nhạc sĩ Phạm Duy, hơn ai hết phải biết cảm thông với vị nhạc sĩ “ba chìm bảy nổi chín lênh đênh” do các trào lưu chính trị xô đẩy suốt mấy chục năm này, sao lại đi ném đá vào người có số phận éo le như mình thế? Phạm Tuyên đi theo cách mạng bằng mặc cảm tự ti đầy mình, nhục nhã vô hạn với một lý lịch xấu nhất nước: con đại phản động (Phạm Quỳnh) bị cách mạng xử bắn, đã phải nhún nhường làm thân phận con sâu cái kiến, đấm ngực ăn năn tội bằng các bài hát “yêu đảng vượt chỉ tiêu trên giao” suốt mấy chục năm mới được vào đảng…Nhưng thôi, chúng tôi không nói nữa, vì anh Phạm Tuyên còn cả nghĩ hơn tôi nhiều…
Văn hào nước Áo gốc Do Thái Stefan Zweig (1881-1942), người đã cùng với vợ là bà Lotte tháng 2 năm 1942 tại Rio de Janeiro, đã làm cuộc tự tử chính trị, bằng cách hai ông bà tự nguyện chết trên ghế điện trong tâm trạng cô đơn tuyệt vọng, để phản đối cuộc chiến tranh thế giới thứ hai vô nhân đạo do Hítle gây ra, đã từng có câu nói nổi tiếng: “Thân phận con người trong thế kỷ hai mươi là thân phận con người chính trị”.
Ở Việt Nam, ngót 70 năm qua, không chỉ nhạc sĩ Phạm Duy mà đến con kiến cũng phải mang thân phận chính trị. Từng con người Việt Nam mang thân phận bao cát treo lủng lẳng để các tay boxe chính trị thi nhau đấm như mưa trong các cuộc tập dượt đấu quyền anh cách mạng, quyền anh chiến tranh…
Phạm Duy mang thân phận bao cát treo lủng lẳng trước những cú đấm tập dượt trời giáng của các tay quyền anh chính trị từ cả hai phía đỏ và xanh, khiến ông bị xô dạt từ bờ chính trị này sang bờ chính trị khác mà không sao chủ động…
Các nhà “bới móc học” từng cho xem tấm ảnh Phạm Duy mặc bộ đồ bà ba đen của một chiêu hồi viên đứng trên nền nhạc “Giọt mưa trên lá” để công bố tin chấn động thế giới rằng, tay “tắc kè chính trị” này từng chống cộng khét tiếng đấy à nha…
Có thể trong cuộc đời riêng, vì hoàn cảnh sống đưa đẩy tới chân tường, bắt buộc Phạm Duy phải bị chính trị hóa, nhưng âm nhạc của ông, tuyệt đại đa số các bài hát hay nhất không hề bị chính trị hóa. Có thể ông đã phải mặc bộ đồ bà ba đen của viên chức trong bộ chiêu hồi, nhưng bài hát “Giọt mưa trên lá” của ông là một kiệt tác âm nhạc không hề phục vụ chính trị, rất khác các bài hát của mấy nhạc sĩ vừa ném đá ông trong chế độ miền Bắc, luôn luôn lấy âm nhạc phục vụ chính trị làm mục đích…
Âm nhạc Phạm Duy đạt được giá trị muôn đời vì đã vượt lên trên các đối kháng chính trị nhất thời. Ấy là cái khác nhau một trời một vực giữa Phạm Duy và Phạm Tuyên vậy.
Nếu cứ lấy lăng kính đạo đức, lăng kính chính trị để soi lên cuộc đời các ông to bà lớn của cả hai phía quân xanh quân đỏ, chúng ta đều chỉ nhìn thấy những âm bản thê thảm mà thôi. Lấy lăng kính chính trị, lăng kính đạo đức ra soi mói cuộc đời riêng của Phạm Duy, rồi phủ nhận sự đóng góp vô cùng to lớn cho dân tộc, cho Tổ Quốc Việt Nam bằng âm nhạc yêu nước, yêu con người, yêu nhân loại hết cỡ của ông, như hai phía của cực đoan chính trị vừa hùa nhau ném đá ông kể trên, thiết nghĩ là một việc làm thiếu lương thiện.
Trong bộ sách hồi ký đồ sộ của mình, Phạm Duy cũng thừa nhận ông có tài, có tật, ông cũng như ai tham sân si, cũng ăn chơi hút sách cờ bạc…trai gái; nhưng không có rượu chè bê tha à nha. Vụ “ăn chè nhà Bè” là vụ báo chí chơi xỏ ông, bịa đặt thêm mắm thêm muối để đưa tin rẻ tiền cốt bán báo. Chẳng nhẽ, ông không có quyền mời ca sĩ Khánh Ngọc (một bên là dâu, một bên là rể của đại gia đình họ Phạm) đi quán café để bàn chuyện chuyên môn giữa nhạc sĩ và ca sĩ hay sao?
Những người ném đá Phạm Duy thường cho ông là người mục hạ vô nhân, khinh người, khinh đồng nghiệp hơn mẻ. Trong hồi ký của mình, Phạm tiên sinh đã nhiều lần cám ơn các nhạc sĩ đã mở đầu nền tân nhạc Việt từ Nguyễn Văn Tuyên đến Đặng Thế Phong. Có cơ hội là ông tìm cách ca ngợi đồng nghiệp. Trong bài hát “Yêu tinh tình nữ” có câu hát nguyên văn như sau: “Yêu tinh tình nữ thường hát cho tôi nghe bài ca tiền chiến của Đặng Thế Phong hay Văn Cao tuyệt vời”.
Phạm Duy viết về Văn Cao trong hồi ký:
"Thấp bé hơn tôi, khép kín hơn tôi, nhưng Văn Cao tài hoa hơn tôi nhiều. Chắc chắn là đứng đắn hơn tôi. Lúc mới gặp nhau, anh ta chưa dám mày-tao với tôi, nhưng tôi thì có cái tật thích nói văng mạng (và văng tục) từ lâu, kết cục, cu cậu cũng theo tôi mà xổ chữ nho. Nhưng Văn Cao bản tính lầm lỳ, ít nói, khi nói thì bàn tay gầy gò luôn luôn múa trước mặt người nghe. Anh ta thích hút thuốc lào từ khi còn trẻ, có lần say thuốc ngă vào tay tôi. Về sau, anh còn nghiện rượu rất nặng."
Trong hồi ký Thời Cách mạng kháng chiến của Phạm Duy, ông viết:
Bài Trường ca Sông Lô của Văn Cao là một tác phẩm vĩ đại. Văn Cao luôn luôn là một người khai phá và là cha đẻ của loại Trường Ca” (Cali, 1989, tr.121)
Con tàu đất nước hôm nay dường như đang mất thắng, có cơ đâm vào chân tường diệt vong bởi nạn nội xâm và giặc ngoại xâm đe dọa, nơi đời sống tâm hồn dân tộc đang bị tha hóa cực độ, gần như các giá trị tinh thần tốt đẹp của dân tộc thời Thơ Mới, thời văn chương Tự lực văn đoàn đang có cơ sụp đổ, thì việc xuất hiện lại những bài hát đầy nhân bản của Phạm Duy trong nền nhạc Việt hôm nay, hình như đang cho chúng ta cái cơ hội mong manh để hi vọng.
Phạm Duy, tượng đài lớn nhất của nền tân nhạc Việt Nam đang cùng các tượng đài Văn Cao, Trịnh Công Sơn …sừng sững dưới vòm trời văn học nghệ thuật dân tộc, cùng các tượng đài thi ca xưa như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương…sẽ mãi mãi trường tồn tới muôn vàn mai hậu .,.
Sài Gòn ngày 07-01-2013
Trần Mạnh Hảo

Và sau cùng là bài của anh bạn tôi: Hoàng Nguyên Nhuận.
Về Một Tài Hoa Đa Đoan
Hoàng Nguyên Nhuận
Phạm Duy là một hiện thân của khổ đế lịch sử. Có thể nói Việt Nam thời chiến tranh có ba nhạc sĩ tài hoa. Văn Cao, Phạm Duy và Trịnh công Sơn.
Văn Cao và Trịnh công Sơn phải trả giá khá đắt để sống với những lựa chọn của mình. Văn Cao chua xót trước một thành công không trọn vẹn của dân tộc. Trịnh công Sơn thấy được những thất bại huy hoàng của lịch sử nên cố đứng lên trên những vinh quang chiến thắng không trọn vẹn đó, ngay từ đầu.
Theo ngôn ngữ chính trị thời thượng mà nói, nếu Văn Cao là một thành phần thứ nhất phiền muộn, Trịnh công Sơn là một thành phần thứ ba thủy chung thì Phạm Duy lại là một thành phần thứ hai lập nghiệp bằng thành phần thứ nhất và thành công bằng thành phần thứ hai.
Phạm Duy xác lập được chỗ đứng vững vàng của ông trong tâm hồn người Việt đó cũng là nhờ khuynh hướng lãng mạn rất trần lụy, và lòng ham muốn sống còn qua một cuộc chiến bị lũng đoạn nặng nề bằng những ý thức hệ ngoại lai.
Phạm Duy đã vấp phải một 'sai lầm' mà ông không bao giờ muốn thống hối. Sai lầm tham gia cách mạng mùa Thu. Phạm Duy trở thành tù nhân, trở thành con tin của chính mình.
Hiện hữu với Phạm Duy là đưa võng.
Hai bài viết ngắn sau đây chỉ cố gắng nói lên điều đó...

Âm Vực của Công Án 
hay
 Nghĩ về Thiền Ca của Phạm Duy (trích) 
Hoàng Nguyên Nhuận
Cuộc đời là một nỗi bất hạnh đột nhiên ngộ chứng. Kierkegaard gọi đó là một tâm thức ớn da gà - crainte et tremblement . Triết lý, tôn giáo thường là những cố gắng thuyết phục con người thích ứng với nỗi bất hạnh đó để thoát ra, để vươn tới.
Đạo Phật với nghiệp, đạo Nho với thân dân, đạo Lão với vô vi, đạo Chúa với thiên ý... Nghiệp giúp người chấp nhận đời, thân dân chỉ cách ở lại với đời, vô vi dẫn đường thoát đời, thiên ý chỉ đường về đất hứa ngoài cuộc đời này.
Mặt khác Marx bảo triết lý là một trò chơi phù phiếm vô bổ chỉ để kiến giải đời mà không thúc đẩy cải tạo đời, và tôn giáo chỉ là ma túy không chủ trị đau nhức mà chỉ làm nguôi quên nhức nhối chốc lát.
Thực tế thì không phải tôn giáo mà chính cuộc đời này mới là ma túy; sống khổ, yêu khổ, ghét khổ, tham khổ, hận khổ nhưng cứ bám riết. Bởi nhất thời chẳng còn đường nào khác hơn là tự tử và 'đấu tranh'.
Mà tự tử và đấu tranh không phải là điều mà ai cũng có thể làm vì tự tử đòi hỏi một quỷ biện toàn triệt, trong khi đấu tranh - xuất gia, làm cách mạng, đòi hỏi một thoát xác toàn diện, một dấn thân tuyệt đối.
Ngao ngán vì những chém giết điên cuồng của đại chiến thứ hai, Sartre và các nhà văn hóa hiện sinh đã nghĩ rằng đời là một ngớ ngẩn lố bịch - absurde.
Mười năm trước đó, Huizinga đã nhẹ nhàng hơn bảo rằng bản chất của hiện hữu không phải là lao tác - homo faber , là suy tư - homo sapiens ; bản chất của hiện hữu là hí lộng - homo ludens. Chẳng có gì thường hằng nghiêm túc theo nghĩa thông thường.
Nhưng không phải ngày một ngày hai mà người ta thấy được 'làm lắm cũng tắm ở truồng'. Hí lộng chỉ xuất hiện ở cuối đường trần thân bầm dập, nhức nhối.
Hí lộng cũng chính là một quan niệm về cuộc đời của Phật giáo. Quan niệm vô thường sắc không.
Bởi đầu đường trần thân bầm dập là ý thức khổ và cuối đường bầm dập trần thân là ý thức vô thường nên 'anh hùng mạt vận bán qui tăng' nếu có xảy ra cũng là chuyện đương nhiên.
Phạm Duy là một hiện thân của sự trở về đương nhiên đó với album mới mang tên Thiền Ca .
Anh hùng mạt vận?
Tôi không nghĩ Phạm Duy đã mạt vận theo nghĩa thông thường của nhân thế.
Bởi đã cái tuổi 'cổ lai hi' mà Phạm Duy vẫn 'ăn cho vừa, chơi cho thật, sống cho thẳng, chết cho ngay, yêu cho lâu, ghét cho mau, khóc cho đầy, cười cho rõ', mà Phạm Duy còn viết nhạc, còn hát nghêu ngao được, còn thất tình được như một kẻ mới 'hai mươi tuổi đời' thì quả thật Phạm Duy chẳng mạt vận chút nào.
Phạm Duy đang tồn tại như một lõi trầm hương, tuổi đời càng chồng chất thì càng cứng, càng thơm.
Phạm Duy chỉ quay về với đạo vì Phạm Duy thấy rằng /khổ lụy tận cùng là thoát đau thương/ (Thiền Ca 9) .
Tôi không nhớ một nhà văn nào của Pháp đã nói đời chỉ hơn thua nhau về cái chịu chơi - /la seule chose qui compte c'est le risque./ Tựa đề Thiền Ca của Phạm Duy là một thách thức loại đó. Bởi cạn lời để kiến giải nên Thiền có thể dùng nhạc để tỏ bày tâm thức.
Thiền là một thứ liều của kẻ muốn kiến giải công án Thiền để mở cửa giải thoát. Tiếng hát Thiền tiêu biểu hình như là tiếng cười làm vũ trụ giá băng của Thiền Sư Không Lộ - /Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư./ Hình ảnh Thiền tiêu biểu là nụ cười mím chi của Ca-Diếp đáp lời Phật vấn.
Thiền hình như là tâm trạng của người ý thức được mình đang ở điểm hết-chỗ-nói.
Phạm Duy đã muốn truyền cho đời cái kinh nghiệm vong ngôn lự tuyệt đó bằng album Thiền Ca.
Hết chỗ nói mà vẫn muốn nói, vẫn muốn hát. Để chia xẻ với đời những kinh nghiệm về hết-chỗ-hát, hết-chỗ-nói của mình. Đó là thái độ thách thức đời của một nghiệp dĩ tài hoa, của một 'đứa con hoang'. Và vì chân giá trị của đứa con hoang là lúc nó trở về nên phải chăng Thiền Ca là tiếng hát của đứa con hoang trên đường hồi xứ?
Nói cái-không-thể-nói, nói để khỏi phải đối thoại, để xóa lời nói, để ngưng suy nghĩ là bản sắc của công án Thiền. Mười bài Thiền Ca có phải là mười công án? Câu hỏi đó người nghe nhạc Phạm Duy phải trả lời lấy. Riêng tôi, bài Thiền Ca với tựa đề Võng là bài đánh chú ý nhất về phương diện này.
Trong bài phỏng vấn của báo Người Việt ngày 6.10.1992, Phạm Duy gián tiếp nhắc đến nguyên ủy của bài Võng khi Phạm Duy tâm sự /có những buổi trưa, nằm trên một cái chõng tre hay trên một cái võng gai, nhìn trên trời, thấy áng mây bay và bỗng thấy mình là mây, đang bay thoát ra khỏi tục lụy/.
Tôi nghĩ rằng còn có những điều Phạm Duy chưa muốn nói hết ra, và đó chính là giá trị thực của 'công án' Võng.
Võng là một hình ảnh của cuộc đời, của sự sống và biên cương di động, chông chênh vi tế giữa hai hoàn cảnh, giữa hai lựa chọn, giữa tốt và xấu, thiện và ác, đúng và sai, hận và thương, yêu và ghét, chấp và xả... theo nghĩa thông thường của nhân thế.
Sống là động, sống là nằm võng. Không thích đưa võng, không chịu võng đưa thì nằm giường nằm đất cho 'yên', chẳng cần phải lên võng làm gì. Cũng như sống là phải lựa chọn. Võng đưa bên này thì xa bên kia, như Phạm Duy nói, gần sinh thì xa tử, gần tình bạn thì xa hận, gần vui thì xa khổ.
Cuộc đời của Phạm Duy cũng là biểu hiện của những nhịp võng lịch sử.
Năm 1945, nhịp võng đưa Phạm Duy vào đường 'tay súng tay đàn', vì độc lập tự do của quê hương, mấy năm sau nhịp võng lại đưa Phạm Duy rời xa cái lồng son ngột ngạt mùi hoa độc tôn độc thiện, rồi nhịp võng đưa Phạm Duy xuôi Nam cho đến năm 1975 nhịp võng đã biến Phạm Duy thành cánh chim bỏ xứ...
Trong hành trình bầm dập trần thân nổi trôi 'theo mệnh nước' đó, phần nào là lựa chọn của đời Phạm Duy, phần nào là đời lựa chọn cho Phạm Duy?
Điều đó chỉ có mình Phạm Duy biết, chỉ mình Phạm Duy trả lời được. Phạm Duy kết thúc bài Võng với câu /Tôi nằm đó, nằm im một chỗ/, có phải Phạm Duy muốn đời nghĩ rằng đã đến lúc Phạm Duy hết muốn đưa võng mà cũng hết muốn để võng đưa?
Trên đường bôn ba đào tị, một hôm Lục Tổ Huệ Năng thấy hai chú tiểu cãi nhau về chuyện 'gió động, phướn động'. Lục Tổ hòa giải bằng cách bảo rằng gió không động, phướn không động, chỉ có tâm động. Tâm không động nữa thì gió không lay mà phướn cũng không bay. Tâm không động nữa là không đưa võng và cũng không để võng đưa, là 'nằm êm mọi chỗ' vậy.
Phạm Duy viết Thiền Ca vì muốn võng nằm yên, hay vì võng đã nằm yên? Câu hỏi đó không khéo lại trở thành công án cho Phạm Duy...Chỉ khi tâm không còn động nữa, võng không còn đưa nữa, không tự lựa chọn và cũng không để đời lựa chọn cho mình nữa thì hình như người ta mới đạt được cái tràn đầy tròn trịa, hay như Phạm Duy, thấy được cái /thật thà gian dối/ nơi chính /người tình tuyệt vời/ (Thiền Ca 7).
Hình ảnh thật thà gian dối tròn trịa tuyệt vời này nhắc tôi nhớ đến một ý tưởng tương tự của Hồng Lâu Mộng: /Giả diệc chân thì, chân diệc giả /Vô vi hữu xứ, hữu diệc vô/ tạm hiểu là lúc giả biến thành thật thì thật cũng là giả, lúc cái vô vi có nơi an trú thì có cũng là không.
Có lẽ Phạm Duy đã thể nghiệm được điều đó nên Phạm Duy mới thấy được người yêu trần truồng đứng bên Ngọc Hoàng Thượng Đế (Thiền Ca 9). Có lẽ Phạm Duy đã thể nghiệm được điều đó nên Phạm Duy mới nói được /Tưởng địa ngục đen / ngục sáng hơn đèn/ và /Mới hay thiên đường kia cũng tối om/ (Thiền Ca 9) .
Phật ngày xưa, đang đêm phải ba chân bốn cẳng bỏ vợ bỏ con tìm đường thoát. Không phải Phật đành dứt tình thê nhi để cứu lấy thân như những người được may mắn di tản trước ngày 30.4.1975. Phật lìa tình nhỏ để được trọn vẹn với tình lớn. Tình chúng sinh. Từ chối tình riêng thường là bước khởi đầu của quyết tâm 'vượt biên' sang bờ Giác.
Kinh nghiệm siêu nhiên của Phạm Duy hình như có hơi khác về điểm này. Chính vì Phạm Duy đã nói Thiền Ca được sáng tác /trước hết (để) tạ ơn một người tình/ (Tựa Thiền Ca ). Cũng dễ hiểu thôi với một người hình như vừa đa tình, vừa nặng tình như Phạm Duy...
Bích Khê từng tả người tình tuyệt vời của mình một cách thật hết chỗ nói /Nửa trên em là thiên đàng /Nửa dưới em là hỏa ngục./ Bởi không thể tách được người tình làm đôi để khi cần phần nào thì dùng phần đó, cho nên yêu phải là nhận cả thiên đàng lẫn địa ngục.
Tình yêu tuyệt vời là tình yêu bất nhị, địa ngục cũng là thiên đàng. Điều này nhắc tôi nhớ đến một công án không biết ai đã bày ra...
Mùa Vu Lan, Phật chạnh lòng nhớ đến người bà con ham làm đảo chánh của Phật là Đề-Bà Đạt-Đa đang thọ hình dưới âm ti. Phật bèn dùng thần thông xuống... thăm nuôi Đề-Bà Đạt-Đa. Biết Phật còn thương mình, Đề-Bà Đạt-Đa đã nài nỉ xin thêm Phật vô lượng từ tâm bảo lãnh cho Đề-Bà Đạt-Đa về Niết Bàn với Phật.
Điều đáng nói là không ai cứu được Đề-Bà Đạt-Đa ngoài Đề-Bà Đạt-Đa vì lý do đơn giản là không ai khác đã tạo ra ác nghiệp cho Đề-Bà Đạt-Đa ngoài chính Đề-Bà Đạt-Đa. Phật không nỡ giải thích điều đáng buồn ấy cho người bà con được nên Phật chỉ tìm cách an ủi bằng cách ghé tai Đề-Bà Đạt-Đa nói nhỏ: 'Bộ Ngài tưởng trên Niết Bàn bao giờ cũng vui lắm sao?!'
Bởi Phạm Duy đã thấy địa ngục có khi sáng hơn thiên đàng nên Phạm Duy có làm Thiền Ca vì người tình tuyệt vời thì cũng chẳng có gì phải ngạc nhiên vậy.
Hiểu theo nghĩa đó thì Thiền Ca cũng là Tình Ca. Lời ca của một người tình đã từng đi qua /tận cùng khổ lụy/ để thấy được những hư huyễn của cuộc đời, của yêu thương, của đam mê. Thấy để mà có thể /an nhiên hát nhỏ/ khi /Ta chưa ôm em thì mất em/ (Thiền Ca 6).
Mười bài Thiền Ca chỉ có bài 1 và một phần bài 4 là không trực tiếp nói đến tình, dù tình nhỏ, dù tình lớn. Phạm Duy là người nặng tình, nặng nợ mà.
Điều này đã làm cho Phạm Duy không đi vào Thiền như một Thiền giả, không đến với Thiền bằng những hình thức, những ngôn từ, những nội dung... cổ điển, kinh viện. Vả lại, hành thiền mà chỉ lo bám vào hình thức thì có ngày bước hụt, có lúc tẩu hỏa nhập ma.
Những đồ đệ vụ hình thức của Khổng Tử ngày xưa đã làm cho Khổng Tử có lúc phải vò đầu bứt tai kêu trời như bộng: Ô hô! Ai tai! Nói đến Lễ ta đâu có nói đến lụa là, nói đến Nhạc, ta đâu có đòi chiên trống!
Mấy trăm năm sau, Đức Jesus cũng lặp lại ý tưởng tâm đạo đó trong sách Mathiơ rằng chớ nên đánh trống thổi kèn khi làm việc thiện. Phật thì cảnh cáo rõ hơn về bệnh hình thức - ngay cả Thiền hình thức, khi Phật nói trong Kinh Kim Cang rằng 'nếu dựa vào sắc mà thấy ta, lấy âm thanh mà cầu ta thì tức là đã hành tà đạo, khó mà thấy được Như Lai'.
Có phải Phạm Duy đã đi theo dòng tu không vụ hình thức đó mà vào Thiền khi dùng Tình để đến gần với Đạo như người ta dùng ghe để vượt biên không? Điều đó chỉ có Phạm Duy trả lời được.
Đạt được lẽ sắc không của đời, của tình nhưng Phạm Duy hình như chưa dứt được tình, chưa lắng được tâm. Cho nên lời tình trong Thiền Ca quá buồn, một nỗi buồn phảng phất nhưng sâu đậm, man mác nhưng đau nhức.
Phạm Duy đã đạt đến mức thượng thừa khi hát những cuộc tình đổ nát đau thương không trọn vẹn. Nghìn Trùng Xa Cách, Nước Mắt Mùa Thu, Anh Yêu Em Vào Cõi Chết v.v. Những nỗi đau đó rất sắc, rất nhọn, như mũi kim xuyên thẳng vào tim óc người nghe chứ không tản mạn rã rời như lời tình của Thiền Ca .
Lời tình của Thiền Ca làm cho người nghe thấu xương tủy nhưng không để lại một vết bầm nào trên da thịt. Đau nhừ, đau ê ẩm, đau khắp nơi nhưng không vết bầm, vết máu. Phải chăng vì Phạm Duy chưa muốn thực sự nhìn Tình qua con mắt Đạo như David của Do Thái trong Thi Thiên, như Tô Man Sự của Trung Hoa thời Cách Mạng Tân Hợi?
Nhạc Thiền Ca sáng trong và thanh thoát nhưng lời Thiền Ca lại vụn vỡ não nuột. Không hiểu tại sao tôi lại cảm thấy như vậy; một cảm nghĩ mà tôi đã không có khi nghe Moonstone của James McCarty và Luis Cennamo hay Zen của Terry Oldgiels.
Có phải vì Phạm Duy chịu quay về với Đạo như 'hồn bướm mơ tiên' nhưng chưa chịu quay lưng với cuộc đời phù thế bầm dập?
Có phải Phạm Duy quay về để nghỉ mệt chứ chưa nghỉ chơi, chưa bỏ cuộc chơi?
Phạm Duy hình như cũng gián tiếp xác nhận điều đó. 'Bây giờ đã trên 70 tuổi, tôi vẫn còn được đứng chung với anh em trẻ hay già, làm cuộc chiến đấu cho nhân quyền, cho dân chủ, nghĩa là cho sự tự do của con người.' (Người Việt , sđd).
Nếu quả vậy thì âu cũng là nghiệp dĩ, và với tôi, đó có thể là điều đáng 'mừng' cho làng nhạc Việt hải ngoại đang lông bông nhàn nhạt mất bản sắc.
Thật vậy, mười bảy năm rồi, niềm đau về quê hương vẫn còn sường sượng, chưa chín; niềm hi vọng về dân tộc vẫn chưa đơm hoa kết nụ. Họa hoằn mới có được vài hạt minh châu trong đụn cát bồi, ít nữa là trong làng nhạc.
Ngoài ra thường chỉ là những niềm đau suông, những hi vọng hờ, những phẫn hận vờ vịt, những hoài bão giú ép diễn đạt bằng ngôn ngữ ba rọi lừng khừng, chuyên chở bằng những âm ba giả cầy lai căng của những kẻ chủ bại từ trong xương tủy, những kẻ đã quên dòng giống còn nhanh hơn người bản xứ quên được lý do tại sao họ có mặt ở đây.
Phạm Duy đã cố vươn lên khỏi tình huống đó bằng Tổ Khúc Bầy Chim Bỏ Xứ, bằng Con Đường Cái Quan, như một ánh đèn trong đêm đen như một vì sao lúc trời hừng sáng. Thiền Ca là một cố gắng khác của Phạm Duy trong loại này.
Thành công của Thiền Ca, phần lớn cũng nhờ tiếng hát Thái Hiền. Có những tiếng hát tôi chỉ muốn nghe một lần, bởi sợ nghe lần nữa thì 'bớt say mê, không còn ý vị ban đầu' như nỗi lo xa của Hàn Mặc Tử.
Lần đầu tiên tôi nghe Thái Hiền là từ hơn hai mươi năm trước qua Tuổi Thần Tiên. Hôm nay tôi lại nghe Thái Hiền hát Thiền Ca. May mắn, khuôn thiêng vẫn còn chìu tôi, cái ý vị ban đầu trong tiếng hát vẫn còn.
Thái Hiền không hát, Thái Hiền chỉ nhập thân với lời ca ý nhạc, vẹn toàn như một nhạc sĩ thiên tài nhập thân với cây đàn, một vũ nữ xuất chúng nhập thân với điệu múa. Nét thanh thoát của Thiền Ca không có Thái Hiền thì người nghe khó mà thưởng thức trọn vẹn.
Cảm nghĩ của tôi về tiếng hát Thái Hiền ở đây, khác hẳn cảm nghĩ của tôi khi nghe Về Miền Trung, Bến Xuân, Nghìn Trùng Xa Cách, Con Đường Cái Quan...
Ai hát cũng được, miễn sao còn nhạc, còn lời. Như một người rưng rưng nghe bản quốc ca khi xa quê đã dài ngày.
Bởi những bản nhạc đó đã hòa vào máu huyết xương thịt tôi tự bao giờ không rõ nữa. Hoàng tôi chỉ mong, ngày nào đây, Thiền Ca hôm nay - hay những bài nhạc mới khác của Phạm Duy, cũng sẽ cho tôi và những thế hệ sau tôi cái cảm nghĩ đó, cái ước ao cấp thiết đó.

TẠM THAY KẾT LUẬN
Kính anh,
Xin cám ơn anh đã chia sẻ lá thư anh gởi cho một người bạn ở Hòa Lan.
Lệ Hằng và tôi rất hân hoan những chuyển biến tâm tư của anh trong lá thư nầy so với nội dung lá thư cảm tạ chung của anh lần trước sau khi tiễn biệt chị. Đau khổ không quất sụm anh, đau khổ chỉ làm tâm thức anh vươn cao lớn mạnh ngút ngàn. Chúng tôi có cảm tưởng đang chứng kiến sự sinh thành của một Phạm Duy mới.
Phong Trang ít ra thì cũng đã ba lần viết về anh. Một bài của Lệ Hằng và hai bài của tôi. Lệ Hằng nhẹ nhàng dung dị trong những cảm nghĩ về anh, nhưng tôi thì đã cố nói nhiều điều tôi ao ước được thấy nơi một tài hoa nhạc Việt mà tôi say mê cảm mến. Hôm nay, chúng tôi sung sướng đã thấy được những điều chúng tôi ao ước thấy.
Tôi còn cảm thấy rằng việc nhà tôi ra đi đã giúp cho tôi nhìn ra nhiều điều mà trước đây tôi không thấy. Nhất là đã làm cho tôi quyết định làm lại cuộc đời, dù cũng chẳng còn bao nhiêu thời gian nữa. Thư anh viết thế đó. Và lần nầy thì tôi tin anh trăm phần trăm đó, thưa anh. Như tôi tin Thái Tử Tất-Đạt-Đa bỏ đời vương giả nhung lụa lên rừng tìm đường vượt biên khỏi biển khổ sau khi đi qua bốn cửa thành sinh lão bệnh tử. Như tôi tin con trai bác thợ mộc Joseph là Jesus Christ bỏ nhà xuống đường biểu tình liên miên để chống lại bọn giả hình và vinh danh tình thương yêu đích thực.
Anh đã thấy rõ ràng cái bóng của tôi làm tôi mệt mỏi là anh đã quay về với bản lai diện mục rồi đó, thưa anh. Xin cúi đầu ghi nhận quyết tâm của anh không chạy theo bất cứ hư danh nào nữa. Nhưng xin được không đồng ý với anh về chuyện không đàn hát, xướng ca, viết lách gì hết. Bởi điều đó chỉ xảy ra khi Phạm Duy đã chết. Và anh thì sẽ không bao giờ chết trong lòng người Việt. Như Nguyễn Du, như Hồ xuân Hương, như Chu mạnh Trinh, như Cao bá Quát, như Nguyễn công Trứ, như Văn Cao... Người Việt mấy thế hệ liên tiếp đã thương mến tài anh. Thế hệ nầy và những thế hệ sau thương mến anh và phải học bài học ngàn vàng của anh rằng tất cả chỉ là phù du mà thôi! Suốt đời tôi đi tìm cõi vô thường, thì nay tôi đã ý thức rõ ràng: tất cả chỉ là còn đó, mất đó... Thời nhà Lý, Sư Không Lộ cũng thấy như anh, nhưng ông không giữ khám phá đó cho riêng mình. Ông đã đem khám phá đó chia cho nhân thế bằng tiếng cười dài qua câu thơ:
Hữu thời trực thượng cô phong đỉnh
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư
Tám thế kỷ rồi, giọng cười lạnh cả vũ trụ đó vẫn còn như là tiếng thét giúp những kẻ mê mờ điên đảo trần gian phải tỉnh lại. Tám thế kỷ rồi, những vần thơ đó vẫn còn như là cây gậy giúp những kẻ đã bị tiền tài danh vọng làm sụm xương sống chống mà đi tới với đời trong cái nhìn vô cầu, vô tranh.
Anh đã có đủ bản lĩnh, giờ anh lại có sẵn chân tâm để cất tiếng cười như thế bằng chính tài năng không ai phủ nhận được và chưa ai thay thế được của anh.
Anh không thể bỏ cuộc chơi sáng tạo và anh cũng không cần bỏ cuộc chơi Sáng Tạo, bởi như anh nói, anh đã phủi bỏ được những cầu lụy sáng tạo rồi.
Cầu mong anh viên thành mơ ước dùng thời gian còn lại của đời mình để đi chơi của anh. Cách cả vạn cây số của Thái Bình Dương mênh mông, anh vẫn không quên được Việt Nam thì đi đến đâu nữa, chạy trời anh cũng không thoát khỏi quê hương mà.
Bởi quê hương ở trong tim óc anh chứ không phải trên bản đồ, giới định bằng kinh độ và vĩ độ. Anh chỉ là cái bóng của quê hương Việt Nam. Việt Nam là gì nếu không phải là quê hương của những con người khổ đau vì những quặn thắt oan khiên của sử mệnh, những con người bằng xương bằng thịt hào hùng, sáng tạo, lãng mạn, bình thường cũng biết ham sống sợ chết nhưng ngặt nghèo cũng biết tình người và nghĩa đồng bào, phất phơ tà tà hưởng thụ nhưng cũng kiên gan bền chí giấy rách phải giữ lấy lề khi bái xái quẩn bách, biết tự hào về cái đúng của mình để giữ và biết nhận cái sai của mình để sửa...? Không có Việt Nam đó thì làm gì có Phạm Duy, phải không thưa anh?
Cho nên, tôi xin được chia sẻ tâm nguyện của anh khi anh đoan chắc rằng chỉ còn hai nơi chưa đi là mặt trăng và Hà Nội. Sẽ đi thôi.
Anh nhắc đến trường hợp anh Phạm duy Nhượng làm tôi nhói lòng. Vì tôi là kẻ mê bản Tà Áo Văn Quân của anh Nhượng từ lúc còn ở Trung Học. Anh Nhượng hình như còn một vài bản khác như Chiều Đô Thị chẳng hạn, phải không thưa anh? Hy vọng anh gia tâm nhắc nhở mấy cháu đừng để những bản đó thành chủng loại bị tận diệt, uổng lắm. Cũng có thể họ đã hát rồi nhưng bên nầy xa xôi quá chúng tôi chưa được nghe?
Ngao du năm châu bốn bể, nếu có đến Sydney xin anh cho tụi nầy biết đón về Phong Trang và rồi lại đưa anh lên Hydro Majestic ăn bánh ngọt uống Irish coffee nhìn hoàng hôn xuống xa xa như lần trước.
Lần nầy tôi sẽ không để anh phê Blue Mountains bằng câu: Núi rừng nầy đâu có đẹp bằng Lạng Sơn của mình! như lần trước nữa đâu. Chính tôi cũng muốn tranh với anh để nói câu ấy.
Khổ nỗi, tôi chưa về thăm lại quê hương, chưa hề biết Bắc Sơn Thái Nguyên thời tung cánh của anh và Văn Cao là gì cả. Cho nên, tôi thông cảm ước nguyện âm thần sẽ đi thôi của anh đó, thưa anh.
Lá thư anh chia sẻ cho chúng tôi có một ý nghĩa và giá trị lớn. Một chuyển hóa đầy ý nghĩa, một thứ hoát nhiên đại ngộ của người viết. Xin phép anh cho tôi được chia lại kinh nghiệm nầy với thế nhân được không? Dĩ nhiên, chúng tôi phải được anh hoan hỷ đồng ý cho trước đã trước khi phổ biến chung với hồi âm nầy. Xin cám ơn anh trước.
Kính thăm anh và quý quyến thường an lạc.
Bái thư,
30.11.1999.
[Phồn Hoa Kinh, tr.239-259, Văn Mới, Ca, 2003]
Bạt - Sau khi gởi lá thư cho Phạm Duy, Hoàng tôi thầm khấn vái đó sẽ là kết luận thật về Phạm Duy. Đó là một ước vọng bộp chộp. Phạm Duy còn sống và còn sống thì còn có chuyện. Chỗ mà Hoàng tôi nghĩ là hết chuyện có thể lại chỉ là một khởi đầu nữa của tài hoa đa đoan nầy...
Đó là quyền của Phạm Duy và đó cũng là một cái tài của Phạm Duy.
‘Đó là một ước vọng bộp chộp’…’Phạm Duy cũng có thể đang bị lịch sử lợi dụng’…Hoàng tôi viết những lời đó sau khi gặp Phạm Duy và được tin anh gặp đại tang. Biết vậy nhưng tôi vẫn hà tiện lời, và còn gọi Phạm Duy là một ‘tài hoa đa đoan’ trong khi dành mấy chữ Nguyễn Du thế kỷ 20 cho Trịnh công Sơn.
Quả tình tôi hơi bất công với Phạm Duy khi nghe tin anh đang viết Ngục Ca, phổ nhạc tập thơ được coi là của Nguyễn chí Thiện và nghĩ rằng Phạm Duy làm Thiền Ca là để đáp ứng nhu cầu phong trào đang thổi Thầy Huyền Quang lên để biến Thầy thành thánh tử đạo cầm cờ phục quốc nhân danh dân chủ nhân quyền tự do tôn giáo.
Ngày được tiếp Phạm Duy ở Phong Trang, tôi đã phải nén lòng hết sức để khỏi nhắc đến chuyện đó và nhất là không đặt vấn đề Đàn Chim Việt- Bến Xuân.
Tình thật, tôi vẫn âm thầm nghĩ Bến Xuân ‘của’ Phạm Duy và Đàn Chim Việt ‘của’ Văn Cao, hay cứ cho là ‘của’ Phạm Duy nữa, chỉ là một và tôi mong ước Phạm Duy nói lên điều ấy.
Điều đó tôi chỉ cố gắng nhẹ nhàng ‘nghi dĩ truyền nghi’ trong những bài trích dẫn trên mà thôi. Tôi đã ôm cái ấm ức ấy mấy chục năm và bây giờ mới đực giải tỏa bới cái tin web mà tôi vừa được đọc và trích dẫn ở trên. Phạm Duy đã gián tiếp xác nhận điều mà Hoàng tôi đã bao năm âm thầm chờ đợi: Bến Xuân hay Đàm Chim Việt là của Văn cao!!!
Trong lúc tiếp Phạm Duy, qua những lần thù tạc trò chuyện với anh tôi có cảm tưởng anh đã chán đời lưu vong lắm rồi. Tôi nghĩ thầm trong bụng ‘ổng mà không về VN thì chết ổng dám không nhắm mắt được lắm!’ Và đó là điều tôi thường tâm sự với Bác Mậu như để khích lệ Bác về chơi một chuyến cho biết!
Tôi còn âm tung ra ý niệm Trịnh công Sơn-Phạm Duy-Văn Cao là ba nhánh của một diapason của nhạc Việt để âm thầm vận động cho một cuộc lưu diễn toàn quốc của ban ‘tam ca’Trịnh công Sơn-Phạm Duy-Văn Cao. Ngoài nước do Bác Mậu trong nước do Phạm thế Mỹ tiếp tay. Hát được bao nhiêu tiền thì bỏ ra làm việc thiện. Đó là cố gắng đầu tiên để vận động hai chiều cho Bác Mậu và Phạm Duy về nước.
Cũng bởi vì vậy mà tôi hơi phân vân khi biết Phạm Duy bắt đầu phổ Ngục Ca của Nguyễn chí Thiện và Thiền Ca để vô tình tiếp tay cho đám Võ văn Ái-CCCD đang lăng xăng dúi con bài Thầy Huyền Quang-Quảng Đô vào tay đám qủy ám 4 Không-CCCB mà đứng đầu là Nguyễn Bá Long và đám con cưng của Đức Ông Trần văn Hoài.
Cũng vì nỗi phân vân này mà những khi lên tiếng bênh Phạm Duy tôi không xông xáo mà chỉ nhẹ nhàng như khi bênh Trịnh công Sơn, Đỗ Mậu, Tố Hữu…mà chỉ nhẹ nhàng chứng minh Phạm Duy là người tài, người tốt và anh có quyền làm gì thì làm!
Tôi thương Phạm Duy kể từ khi tôi để ý đến lời ca của bản Người Về… Một vừng hương trắng xóa…
Thời đệ nhất cộng hòa, lần đầu tiên khi nghe câu đó tôi đã tít lên: Ô hay cái anh này, sao lại vầng hương trắng xóa vào đây hả?! Giữa một thời đại mà mở miệng ra là xin Thượng Đế ban phước lành cho Người hay lạy mẹ là ngôi sao sáng mà Phạm Duy lại khơi khơi nhắc đến một vừng hương trắng xóa hay tiếng chuông chùa rung…thì đúng là gàn hết chỗ nói rồi. Và tôi thương mến cảm phục Phạm Duy từ độ đó!
Hoàng Nguyên Nhuận